MỘT CÂU CHUYỆN Ý NGHĨA
Ông Winston Churchill –
Cựu Thủ tướng Anh từng nói rằng “chúng ta sinh sống bằng những gì chúng ta kiếm được, nhưng chúng ta tạo lập đời mình bằng chính những gì mà chúng ta cho đi”.
Thế giới này là một nơi tuyệt vời. Bạn cho đi thứ gì thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại!
Câu chuyện ý nghĩa dưới đây sẽ giúp mỗi chúng ta nhìn thấy được “nhân” và “quả” của cuộc đời mình, nó cũng sẽ là bài học để mỗi khi bạn đứng trước một hoàn cảnh cần phải gieo hạt tốt, bạn sẽ không ngần ngại hành động.
THOÁT CHẾT VÌ HÀNH ĐỘNG THEO NHÂN – QUẢ
Câu chuyện kể về vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Thế chiến thứ 2, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944 – 45 từ mặt trận phía Tây.
Vào thời đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng vội vã lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp.
Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy thì ông bất ngờ để ý nhìn thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy vì cái lạnh giá buốt.
Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này.
Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công vụ tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên vì sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới thì sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.
Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường.
Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ trình, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.
Không ngờ chính sự chuyển hướng bất ngờ ngoài kế hoạch này đã cứu mạng ông! Quân Quốc Xã có tin tình báo nên biết chính xác hành trình của ông và đã bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp rình tại các ngã tư. Nếu ông tới thì sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào lòng tốt gieo đúng lúc đã giúp ông đổi lộ trình và tránh thoát cuộc mưu sát.
THOÁT CHẾT
Câu chuyện thâm thúy trên đang nói với chúng ta một triết lý mà không phải ai cũng thấu hiểu, tin tưởng.
Sự cho đi hay “gieo hạt” là một quy luật vũ trụ, sự cho đi có ý nghĩa, giá trị chính là ở thời điểm và cách cho. Bạn gieo hạt đúng lúc, có thể thay đổi cả số mệnh và cuộc đời của bạn.
Vì vậy, nếu bạn đang khó khăn, bế tắc,… hãy nhìn lại hành trình mà bạn đã đi qua, sự cho đi đã đúng và đủ hay chưa. Đừng đòi hỏi quá nhiều cho bản thân khi chúng ta chưa biết cho đi nhiều hơn.
Chị xin phân tích phía em trước khi nhìn qua phía Định, nghe em.
Người yêu dầu tiên của em hơn em 10 tuổi, vì thế mà đã chín chắn, chăm lo săn sóc em quá chu đáo, có thể là thiếu tính cách bồng bột, lãng mạn, đến nỗi khiến cho em “Sau 3 năm yêu đương, vì cảm thấy anh ấy giống như một người anh đáng tin cậy hơn là bạn trai, em đã nói lời chia tay. Tất nhiên, anh ấy không đồng ý và lúc nào cũng khuyên em phải biết nuôi dưỡng tình cảm bấy lâu nay”. Tuy nhiên, em đã phát chán với sự săn sóc “như một người anh đáng tin cậy hơn là bạn trai, …” của anh ta, nên em đã quả quyết cắt đứt.
Sau đó, “em gặp và yêu Bình. Anh Bình rất tốt bụng, khéo tay, khôi hài, mỗi lần ở bên cạnh Bình, em cũng cảm thấy được một hạnh phúc thật sự”.
Lần này thì có thể nói rằng em đã gặp đúng đối tượng, vì em đã cảm thấy được một hạnh phúc thật sự, em đã ăn ở với Bình như vợ chồng. Nhưng khi Bình cầu hôn thì “Lúc đó, gia đình em rất khó khăn, mẹ em đã mất, bố em vắng nhà thường xuyên, có khi cả tuần mới về nhà lo toan những việc lặt vặt trong nhà rồi lại đi tiếp. Trách nhiệm của một người chị cả không cho phép em được nghĩ đến hạnh phúc bản thân. Em đã khước từ lời đề nghị kết hôn của Bình”.
Nhưng chỉ một năm sau thì em gặp Định, và em đã kết hôn với Định, dù em đã “yêu” Bình đến nỗi trao thân cho anh ta.
Câu hỏi đặt ra là:
Tại sao em lại phải vì lo cho các em mà không được kết hôn với Bình, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó lại có thể kết hôn với Định?
Tại sao em không thể vẫn kết hôn với Bình mà vẫn lo cho các em được, thí dụ sau khi cưới cả hai cùng ở chung trong nhà, và cả hai cùng “lo cho các em”?
Hỏi như vậy, không phải là chị muốn làm khó em, mà là chị muốn mổ xẻ căn bệnh ngay tại gốc, trước nhất là về phía em, để chúng ta tìm ra đầu mối của sự bế tắc này, có thế mới tìm ra lối thoát, em à.
Về “người yêu” đầu tiên, em bỏ vì lý do em không thích có cuộc sống buồn tẻ.
Về “người yêu” thứ hai, Bình, dù em nói là vì lý do gia đình, chị vẫn có cảm tưởng là còn lý do nào khác mà em không nói ra, vì lập luận “hy sinh cho gia đình nên không thể lấy chồng” của em không vững.
Nhưng dầu sao, chỉ một thời gian sau, em cũng đã “yêu” và lấy Định. Hình như em hơi dễ dãi và hoang phí khi dùng từ ngữ “yêu”.
Có câu: “Người ta cưới một người rồi ly dị người khác”, câu đó có nghĩa là khi còn trong thời gian yêu đương, hai người cùng tỏ ra đáng yêu, nhưng khi đã cưới nhau rồi, thì hai người đều có cảm giác “chắc ăn” nên từ đó, họ coi nhau như vật sở hữu, như món đồ dùng cũ trong nhà, không sợ mất, nên không quan tâm, không thấy cần phải tôn trọng nhau nữa, vì thế, trong cách cư xử với nhau, dường như mỗi người đã trở thành người khác.
Nói vậy, ý chị muốn hỏi là em có ở vào trường hợp kể trên không? Cứ xét theo hai mối tình đầu của em, thì cung cách cư xử của em có vẻ là người hơi nông nổi, và cũng có vẻ như ít quan tâm đến nỗi lòng của “người yêu em”, khi em muốn chấm dứt, thường em chỉ quan tâm đến những điều lợi hại về phía em mà thôi.
Có bao giờ em đặt lại vấn đề là chính em đã làm gì đó khiến cho Định không còn muốn nồng nàn với em nữa chăng? Và nếu điều đó là có thật, thì giả tỉ như em thay đổi nếp suy nghĩ, cung cách cư xử, tình thế có hy vọng cải thiện chăng?
Có câu: “Đời như tấm gương, mình cười thì đời cười với mình”, em thử cười xem tấm gương tình vợ chồng có cười với em không? Nếu chuyện cười đó mà xẩy ra thì thật là quá may mắn cho hai cháu nhỏ, nó sẽ có cả cha và mẹ, để mà yêu thương, đùm bọc, cho các cháu sống vui với đời.
Trong trường hợp không thể cải thiện thì cũng đành phải chia tay, vì ngày tháng của cuộc đời qua đi trong sự buồn tủi, hờn giận như thế thì cũng chẳng có gì là tốt đẹp cho cả hai, em ạ.
Câu em hỏi: “Chị có nghĩ rằng Định không muốn ly dị với em âu cũng là vì muốn trốn cái trách nhiệm “child support” sau khi ly dị?”, chị không thể trả lời, vì chị không thể biết trong đầu Định nghĩ gì và cũng không đủ dữ kiện để suy luận. Nhưng có khi nào em nghĩ rằng Định cũng rất muốn cùng sống với em và hai cháu, nhất là hai cháu còn quá nhỏ, nên cứ nấn ná chăng? Vả lại, chẳng lẽ chỉ vì không muốn trả tiền “child support” cho các con mà Định đành phí phạm hẳn một thài gian dài của cuộc đời, chịu sống trong cảnh chỉ còn là “người thuê phòng”, mà lại là “người thuê phòng đáng ghét” để chờ cho các cháu tới tuổi thành niên, không thể tự do đi tìm hạnh phúc với những người bạn gái hiện nay, nếu Định muốn hay sao?
Điều quá buồn trong cuộc đời là khi người ta yêu nhau, người ta có thể chết vì nhau, mạng sống cũng không tiếc. Nhưng khi bỏ nhau, chuyện tiền bạc biến thành đám mây đen ngòm bao phủ cả nhân cách con người khi nghĩ về nhau và nếu đã nhìn nhân cách nhau qua đám mây “tiền” như thế, e rằng những kỷ niệm đẹp về nhau cũng khó tránh bị đám mây đó xóa nhòa mất rồi, em ơi!
Khi mới vào đại học em đã quen và có tình cảm với L., sau nhiều lần đi chơi, trò chuyện, và khoảng một năm sau thì em đã nói lời yêu L.. L. chỉ cười và nói rằng bây giờ thì chưa được và hỏi em có chờ được không. Tất nhiên là em nói có và vẫn nuôi niềm hi vọng. Nhiều lần em có hỏi L. về việc L. có bạn trai hay chưa, L. đều trả lời là chưa. Còn về phần em, em đã thật sự yêu cô ấy, em hay đến nhà L chơi và mọi người trong nhà L. rất quý mến em, dành cho em những tình cảm rất chân thành. Em cảm thấy mình thật may mắn.
Tuy nhiên, trong một tối em đã thấy L. đi ăn cùng với một người con trai khác, em không hề hỏi L. về chuyện đó, nhưng sau nhiều lần thì em không thể làm ngơ được nữa. Lúc đầu thì L. nói đó chỉ là bạn, em không tin và tìm cách gặp người con trai kia và được biết họ đã quen nhau từ lâu, từ thời L. còn học trung học. Anh ta nói anh ta biết khá rõ về em bởi vì L. đã nói hết cho anh ta những gì tụi em chia xẻ với nhau.
Tới khi đó thì L. đã không còn giấu em nữa. Em thật sự đau khổ và chấp nhận là người thua cuộc bởi em nghĩ mình đã bị L. lừa dối một cách tội nghiệp. Từ đó em không sang nhà L. chơi nữa vì em nghĩ chẳng còn gì để đến với nhau. Tuy nhiên, em lại tự hỏi, mình làm như vậy thì gia đình L. sẽ nghĩ gì về mình. Mọi người trong nhà L. sẽ nói mình chỉ là một thằng con trai không ra gì, chẳng lẽ tình yêu là tất cả hay sao, còn tình cảm của mọi người khác thì sao, nhưng nếu đến nhà L. thì khó cho em quá.
Thưa chị, bây giờ em phải làm sao đây, chị có thể cho em một lời khuyên trong hoàn cảnh này. Cảm ơn chị nhiều.
Đọc thư em, chị cảm nhận được sự chân thành, mộc mạc của tâm hồn em. Có lẽ gia đình L. quý em, dành cảm tình chân thành cho em, một phần cũng vì ưu điểm này của em.
Nhưng cái nhìn của các bậc phụ huynh và cái nhìn của các cô gái mới lớn, mơ mộng, có đôi chút khác biệt, em ạ. Cha mẹ và gia đình cô gái thường có thiện cảm với những chàng trai hiền lành, chất phác, trong khi nhiều cô gái mới lớn lại nhìn đời một cách lãng mạn, thích những chàng trai có nếp sống và tư tưởng phóng khoáng, đôi khi quá lố đến trở thành phóng đãng, đượm tính chất giang hồ, thậm chí có những ngôn ngữ, cử chỉ không còn phù hợp với nếp sống của các gia đình Á Đông có giáo dục nữa, nhưng nhờ thế nó mới ồn ào, mới vui, mới “fun”.
Cũng có khi không phải là vì cô gái thích loại người kể trên, nhưng cô ấy cần có người “hiểu” cô ấy, có thể là bạn tri kỷ của cô ấy, loại bạn thông cảm được những gút mắc trong lòng nhau, “nói ít hiểu nhiều”.
Cũng có khi cô gái có tâm hồn mơ mộng, thích quay về quá khứ, trọng kỷ niệm xa xưa. Mà đã nhớ về kỷ niệm trong quá khứ thì kỷ niệm nào cũng đều thấy êm đềm, đẹp đẽ.
Nếu L. ở trong mấy trường hợp kể trên thì có thể là anh chàng kia đã đáp ứng được những nhu cầu tinh thần của nàng rồi.
Em nên lặng lẽ rút lui ra khỏi đời nàng, không nên lui tới nhà nàng nữa, vì sự em lui tới có thể bị hiểu lầm như là em đang muốn lấy lòng gia đình nàng, chứ không phải vì thiện cảm của em đối với họ hoặc vì em là người ăn ở thủy chung. Trường hợp đó, nàng lại càng coi thường em, và có thêm đề tài để cùng “anh chàng kia” của nàng “thảo luận” về em. Sự ngưng lui tới của em sẽ không bị gia đình nàng hiểu lầm đâu, vì “biết con không ai bằng cha mẹ”, họ sẽ hiểu rõ mọi sự, em à.
Trong cuộc đời, có những lúc mình phải “biết lùi”, và “biết lùi” là biết một nghệ thuật sống đẹp.
Có một bài thơ về Yêu đẹp nhẹ nhàng, chị gửi tới em như một món quà tinh thần. Tác giả là một nhà thơ Trung Quốc hiện đại, tên là Phùng Chí, do Bích Hải dịch, như sau:
Tôi Là Một Dòng Sông Nhỏ
Tôi là một dòng sông nhỏ,
Tình cờ chảy qua bên em
Em tình cờ đem bóng hình như ráng mây rực rỡ
Ngả vào ngọn sóng êm đềm.
Tôi chảy qua một khu rừng rậm,
Ngọn sóng tôi lay động êm đềm
Đem bóng lá rừng xanh thắm
May thành xiêm áo cho em.
Tôi chảy qua khóm hoa tươi nở
Ngọn sóng tôi trong vắt êm đềm
Đem bóng hoa rực rỡ
Dệt thành mũ miện cho em.
Dòng sông tôi kết thúc cuộc hành trình
Chảy vào biển cả vô tình
Biển mênh mông sóng cuồng, gió dữ
Đánh rách áo xiêm, thổi tan cả mũ hoa rực rỡ !
Tôi cũng lênh đênh theo sóng biển,
Lênh đênh đến nơi không bờ không bến;
Và bóng hình lộng lẫy của em
Cũng lộng lẫy hòa tan trong biển êm đềm.
Phùng Chí (1925)
Cuộc đời cũng như dòng sông. Dòng sông không phải luôn luôn giống nhau, khúc này thì có thác, có ghềnh, dòng sông gầm thét, khúc kia thì dòng sông lặng lờ, êm đềm trôi. Qua cơn mưa trời lại sáng, em chân thật tốt lành như thế, sẽ có người chân thật tốt lành đương hiện hữu đâu đó trên thế giới này, sẽ tới với em.
Tôi ở với con gái và rể – vì con trai chưa thành gia thất. Rể và con gái tôi đều là bác sĩ. Tôi nghĩ ở với con gái dễ hơn là dâu.
Nói là ở chung nhưng thật ra nhà cháu rộng có làm thêm một phòng ngủ và bếp rất tiện cho một người ở. Tôi đi làm tối về nấu ăn và cho ngày mai bới đi làm, ngày nghỉ ở nhà săn sóc vườn nên hoa cỏ rất đẹp. Lâu lâu thì 2 mẹ con lại đi shopping hoặc cũng đi chợ. Vợ chồng con gái tôi ăn riêng và ở trên lầu.
Được 2 năm nay, bỗng cháu có ý định mua nhà khác ở vùng nhà giàu trên đồi với lý do rất chính đáng: vì vùng này bây giờ họ cho housing nhiều quá, phần đông là người mới qua. Họ có cách sống giống ở VN — cả ngày ở nhà và coi phim bộ — vài ba ngày lại chửi bới con cái, đuơng nhiên là bằng tiếng Việt.
Thật sự, tôi không chịu nổi họ, chứ nói gì con tôi học hành đỗ đạt bên này. Nhưng con gái tôi dọn ra thì không mang tôi theo — lý do: nhà mới vừa đủ hai phòng và chúng không muốn tôi ở chung.
Tôi nay đã 60, nay đau mai yếu, lại bị cao máu, vả lại 5-3 năm nữa cũng về hưu ở nhà cả ngày làm sao ở một mình được. Tôi đã khóc lóc nói ra ý tưởng cô đơn của mình, nhưng con gái tôi bảo:
Đọc xong thư của bà, lòng nặng trĩu, tôi mở cửa bước ra vườn. Chiều hôm nay trở gió, bầu trời u ám, sương phủ mờ rặng núi xa xa.
Những ngày xa xưa trên quê hương đâu, đâu rồi?
Quê hương chúng ta, ở đó có cô Nguyên, nhà gần chợ Nguyễn Tri Phương, có bà mẹ bị ngã từ trên sân thượng xuống đất, gẫy xương sống ngay trước ngày đám cưới của cô chỉ chừng gần một tháng. Cô lặn lội trong nhà thương nuôi mẹ, rồi bệnh không hết, mẹ về nhà ăn, ngủ, tiêu, tiểu, đều trên giường, một mình cô là con độc nhất, hầu giường phân chiếu tiểu, vị hôn phu gớm quá từ hôn, cô nói:
“Ảnh biểu tui giao mẹ cho người làm rồi đi theo ảnh, ảnh không chịu ở chung nhà. Má tui biểu nghe theo lời ảnh, nhưng mà thôi, ảnh không thương thì tui chịu, tui hổng nỡ bỏ mẹ cho người ngoài cắng đắng khi dể trong lúc bịnh hoạn này, tội nghiệp mẹ tui”.
Ở đó có nhà thím Ba Hồi, góa chồng sớm,hẩm hút một mình nuôi hai con. Con lớn đạp phải mìn cụt hai chân trong chiến tranh, không làm ăn gì được, sống nhờ vào gánh hàng rong của thím Ba hai sương một nắng, vậy mà tối nào về, thím cũng mang theo mấy tờ báo cũ thím xin được trên đường, để dưới ánh đèn mờ, con đọc mẹ nghe, mái nhà tôn tối nhờ nhờ lại vang lên tiếng cười thương yêu, đầm ấm.
Ở đó có nhà cụ Tâm Thái, hồi còn ở quê hương, mỗi chiều khi đi làm về, ngang qua, tôi liếc mắt vào thường thấy cụ ngồi ngay một đầu chiếc bàn bầu dục, đó là chỗ danh dự của cụ, cụ ngồi đó nghe các cháu chia nhau đọc truyện Tầu cho cụ giải trí. Đến bữa thì các con và các cháu ngồi quây chung quanh cụ, lao xao “Mời mẹ, . . . Mời bà xơi cơm . . . “. Tôi nghe nói hình ảnh này cũng vẫn còn quen thuộc đối với một số gia đình người Trung Hoa trên San Francisco, California.
Bà ạ,
Thế hệ bà là thế hệ khoảng trống của bước nhẩy giữa hai nền văn hóa. Nền văn hóa mà bà lãnh hội thì cha mẹ hết lòng hy sinh cho con cái đến tối đa, đến tận khi nào đã kiệt lực, miễn sao con đủ lông cánh ra đời. Con ra đời rồi, mà thất bại, thương tích, tàn tật, cha mẹ lại sẵn lòng đem con về, tiếp tục tận tụy lo cho con, bất kể tuổi tác. Tất cả là vì tình thương yêu, tình phụ tử, mẫu tử.
Khi cha mẹ già yếu, bất lực, con cái cũng ăn ở cho tận hiếu đạo, để đền đáp tối đa tấm lòng cha mẹ đã nghĩ đến con, chăm lo, thương yêu con khi xưa. Trong cái xã hội mà mọi người đều sống với nề nếp như vậy, thì sự bảo bọc nhau đó là tự nhiên, bà ạ.
Con gái bà nói “ở Mỹ có ai con cái ở chung với cha mẹ đâu?”, cô ta nói cũng có phần đúng, đó là vì cũng có những người như thế. Tuy nhiên, hàng xóm nhà tôi cũng là người Mỹ, họ ở chung 3 thế hệ, bà cụ hằng ngày dắt cháu đi học, vẫn đi qua nhà tôi. Thực tế, quả là cũng có những gia đình không ở chung với cha mẹ, thậm chí bỏ rơi cha mẹ luôn, cha mẹ có nhớ con mà già quá không còn di chuyển được, thì phải mua vé máy bay cho con về thăm.
Nhưng chuyện gì cũng có nguyên nhân của nó, có lẽ cô con gái của bà cũng biết, nhưng không muốn nói ra, rằng cũng có nhiều cha mẹ bên đây đã bắt con phải tự lập khi vừa đủ 18 tuổi, không tiếp tục nuôi con nữa, vì cha mẹ còn phải thủ tiền để đi du lịch, đi sòng bài, v.v. . . , để enjoy cuộc đời, hơi đâu mà đóng tiền học cho con. Cha mẹ đuổi con ra khỏi nhà, bắt con phải tự lập khi con vừa mới đúng 18 tuổi, thì con bỏ rơi cha mẹ lúc về già, tuy là bất hiếu bất nhân thật đấy, nhưng cũng chỉ là nhân quả.
Bà được giáo dục bằng nền văn hóa Đông Phương của chúng ta, nên đau đớn, bàng hoàng, kinh ngạc, khi thấy con nhẫn tâm bỏ rơi mình lại.
Cô con gái lại đem một khía cạnh của nếp sống lạnh lùng ở đây ra ví von để đủ lý do hất mẹ ra khỏi vòng tay nâng đỡ mẹ lúc tuổi già.
Đã đến nông nỗi này thì tôi nghĩ rằng sự con bà đổi ý, cho bà đi theo là chuyện rất khó xẩy ra. Cho nên tôi đề nghị là bà nên can đảm tiếp tục đi làm cho đến khi về hưu, sẽ tiếp tục sống như những người già về hưu khác. Bà nên tiếp xúc với các Hội Người Già (Senior Citizen Community Center), kể cả hội của người Việt Nam và hội của người Mỹ.
Gần nhà tôi có một hội Người Già Mỹ. Hằng ngày tôi thấy có cả các cụ Việt Nam tới ăn cơm trưa. Họ có cả thư viện và các loại thể thao, Tai Chi, Khí Công, và các trò giải trí, chơi các loại bài, thí dụ mà chược, bài tây, v . v . . . Nhiều cuối tuần tôi thấy các cụ leo lên nhiều xe bus, hỏi ra mới biết là các cụ đi picnic ngoài biển, hoặc đi chơi tiểu bang khác, hoặc sang chơi bên Mexico, v. v… Tôi thấy các cụ phải đi xe lăn cũng được họ thả cần trục xuống cho các cụ lăn xe vào, rồi kéo lên. Thấy các cụ vui cười trong lúc tuổi già, tôi mừng lắm.
Bà cũng đừng quá lo lắng về chuyện bệnh hoạn, hoặc già quá không còn tự lập được. Trong khu tôi ở có một cụ già Mỹ đã 87 tuổi. Hằng ngày, cụ trang điểm gọn gàng, xinh xắn, rồi thủng thỉnh chống gậy đi bách bộ trong khu, gặp ai cũng tươi tỉnh “Hello!”, hoặc “Hi, how are you, honey?”. Mỗi buổi trưa lại có người của Hội Già đem phần ăn của cụ tới, vì cụ không lái xe ra phòng ăn của Hội được. Khoảng 11 giờ mỗi sáng là cụ đã ngồi sẵn cạnh cửa sổ, kéo rèm mở hé để chờ người của Hội. Trông thấy họ từ xa, cụ đã bước ra đón tận phía ngoài, ríu rít chào hỏi, vui lắm.
Ngoài ra, hệ thống y tế cho người già bên đây cũng rất tốt. Bà mới 60 tuổi, kể ra là còn trẻ đối với đời sống văn minh khoa học tân tiến này. Hãy nhìn về tương lai, tạo một nhóm bạn hợp với quan niệm sống của mình để mà cùng nhau thưởng thức cuộc đời, nhìn đời một cách lạc quan. Không nên u sầu mà cơ thể héo hon dần, lại thành bệnh hoạn sớm.
Nhập gia tùy tục, bà ạ. Đời cho ta quả chanh thì ta hãy pha thành ly nước chanh cho nó đỡ chua.
Chỉ tiếc cho con gái của bà, cô ta sẽ không được hưởng niềm vui ấm áp khi nhìn thấy mẹ già run rẩy xỏ kim, mình chạy lại giành lấy để làm giùm mẹ, rồi hai mẹ con cười khanh khách, tiếng cười vang lên khiến cho mấy cháu chạy ùa ra, miệng bi bô :” Bà… bà… mẹ … mẹ … “.
Thông thường, chúng ta tìm hiểu, học hỏi qua sự nghiên cứu, qua sách báo, qua kinh nghiệm hoặc là được người khác dậy bảo. Đó là những lối mòn từ bao nhiêu đời nay, chúng ta đã dùng để thâu thập kiến thức. Chúng ta giao cho ký ức những dữ kiện về những điều gì nên làm, điều gì không được làm, điều gì nên nghĩ, điều gì không được nghĩ tới, nên cảm nhận mọi việc như thế nào và nên phản ứng trước mọi sự ra sao.
Qua kinh nghiệm, qua nghiên cứu, qua phân tích, qua phát hiện, qua quan sát nội tâm, chúng ta chất chứa sự hiểu biết thành ra ký ức, và rồi thì chính cái ký ức ấy sẽ đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu thêm, học hỏi thêm, thêm nữa… Những điều hiểu biết sẽ được gắn vào trí não như là kho tàng tri thức, và cái kho tri thức đó sẽ thực hiện chức năng của nó khi tới thời cơ, khi chúng ta gặp chuyện phải dùng đến nó. Giờ đây, tôi nghĩ rằng chúng ta có cách học hỏi theo lối khác, tôi sẽ xin nói qua về điều này. Nhưng, để hiểu được, và để có thể tìm tòi, học hỏi theo lối khác này, chúng ta phải hoàn toàn quên đi cái khái niệm về thẩm quyền, nếu không, chúng ta cũng sẽ lại chỉ là những con người bị chỉ bảo, và rồi chúng ta cũng sẽ chỉ nhắc lại, làm lại những điều chúng ta đã được nghe, được dậy mà thôi. Đó là lý do tại sao sự tìm hiểu bản chất của thẩm quyền lại vô cùng quan trọng.
Thẩm quyền cản trở sự học hỏi, học hỏi không phải là tích lũy những điều hiểu biết như là một kho tàng ký ức. Ký ức luôn luôn đáp ứng theo những khuôn khổ, những mẫu mực đã có san, không có tự do.
Một người mà trong tâm não chất đầy nhóc những kiến thức, những điều chỉ dẫn, bị cái gánh nặng của những điều hắn đã biết, đã học được đè trĩu xuống thì sẽ không bao giờ còn có tự do được nữa. Hắn có thể là một nhà thông thái ngoại hạng, nhưng những kiến thức mà hắn đã tích lũy cản trở hắn, không cho hắn được tự do, phóng khoáng trước những điều gì khác với kho tàng kiến thức mà hắn đã có, và vì thế, hắn mất luôn cái khả năng học hỏi thêm những điều mới lạ.
Muốn tìm hiểu bất cứ sự kiện gì, từ lãnh vực con người cho tới lãnh vực khoa học, bạn thấy điều gì là quan trọng, là cốt tủy? – Một tâm trí trầm tĩnh, một khối óc lắng đọng trong niềm giao cảm, đúng không? Đó không phải là cái loại tâm trí đặc biệt cố gắng để tập trung – vì đó cũng lại là một loại đối kháng.
Nếu thực sự tôi muốn thâm hiểu điều gì, lập tức tâm trí tôi có ngay trạng thái trầm lặng. Khi bạn muốn thưởng thức một điệu nhạc, hoặc chiêm ngưỡng một bức tranh mà bạn ưa thích, gợi cho bạn niềm cảm xúc, thì tâm trí bạn sẽ ở vào trạng thái nào? Phải chăng ngay lập tức, tâm tư bạn trở về trạng thái lắng đọng? Khi nghe nhạc, tâm hồn bạn không lang thang đây đó, mà bạn lắng nghe. Cũng vậy, khi bạn muốn tìm hiểu sự mâu thuẫn, bạn không còn bị tùy thuộc vào thời gian, bạn chỉ đơn giản trực diện với sự việc đang xẩy ra, đó là chính cái sự mâu thuẫn. Thế là ngay lập tức, tâm trí bạn trở về trạng thái trầm tịch, lắng đọng. Khi mà bạn không còn lệ thuộc vào thời gian với ý hướng muốn chuyển hóa sự kiện vì bạn đã thấy sự sai lầm của cái tiến trình đó, thế là bạn hồn nhiên đối diện với cái “đang là”, tự nhiên tâm trí bạn trở nên tĩnh lặng. Trong tình trạng tỉnh thức trầm lặng đó, bạn thâm hiểu. Khi mà tâm trí bạn còn đang đầy dẫy mâu thuẫn, trách móc, chống cự, lên án, bạn không thể có sự thâm hiểu. Nếu tôi muốn hiểu bạn, rõ ràng là tôi phải không lên án bạn trước đã. Chính cái tâm trí an tĩnh lắng đọng đó sẽ đem lại sự chuyển hóa. Khi tâm trí không còn chống đối, không còn lẩn tránh, không còn xua đuổi hoặc lên án cái “đang là”, mà chỉ nhận thức nó một cách tĩnh lặng, thì chính từ cái tâm trí tĩnh lặng mà tỉnh thức đó, bạn sẽ có được sự chuyển biến nếu quả thật bạn muốn.
Tâm trí tĩnh lặng khi nó thấy được sự thực rằng tâm cảm chỉ đến khi nó tĩnh lặng; rằng nếu tôi muốn hiểu bạn thì đầu óc tôi phải tĩnh lặng, tôi không thể có những phản ứng chống đối bạn, tôi không được có saün thành kiến với bạn, tôi phải loại bỏ tất cả những kết luận của tôi, kinh nghiệm của tôi về bạn để mà đối diện với bạn. Chỉ khi đó, khi mà tâm trí đã thoát khỏi sự quy định của tôi, thì tôi mới có được sự tâm cảm. Khi tôi thấy được cái chân lý đó, thì tâm trí tôi mới tĩnh lặng được. Cho nên, không có câu hỏi làm thế nào để cho tâm trí tĩnh lặng. Chỉ có chân lý mới có thể giải phóng tâm trí ra khỏi sự vận hành liên tục của chính nó. Muốn thấy chân lý, tâm trí phải ý thức được cái thực tế là nếu nó còn dao dộng thì nó không thể có sự tâm cảm được.
Sự lặng lẽ của tâm, sự an tĩnh của tâm, không phải là chuyện có thể được tạo ra bởi sức mạnh của ý chí, hoặc bởi những hành động do lòng ham muốn. Nếu những điều ấy xẩy ra, thì cái loại tâm trí đó chỉ là đang bị bao vây, cô lập, đó là cái loại tâm trí chết cứng. Loại tâm trí chết cứng đó không có khả năng thích ứng, mềm dẻo, lẹ làng. Đó là loại tâm trí không sáng tạo .
Nỗi Kinh Hoàng Cho Lớp Người Cùng Khổ! - Nguyên Thạch (Quanlambao)
Thật ngỡ ngàng, thật kinh khủng...sự kinh khủng của những thứ cảm giác lo âu, sợ hãi lẫn cay đắng và căm thù, một thứ kinh hoàng tựa như một tài xế trượt lái sa xuống vực thẳm hố sâu. Mặc dầu đã biết trước tham nhũng ở Việt Nam như là một căn bệnh ung thư mãn tính, mặc dầu đã dư hiểu về cái CƠ CHẾ toàn trị này là mảnh đất tốt cho loài sâu bọ côn đồ đục khoét ngân quỹ của quốc gia nhưng kể từ khi trang mạng Chân Dung Quyền Lực tung ra loạt bài với đầy đủ dữ kiện, chứng cớ và hình ảnh...đã khiến tôi vô cùng choáng ngộp. Những chuỗi thở dài dồn dập tưởng chừng như mình đang bị cơn nhồi máu cơ tim hoành hành.
Chỉ với một số nhân vật như: Phùng Quang Thanh, Nguyễn Xuân Phúc, Phùng Quang Hải, Vũ Chí Hùng (quí rễ của Phó tưởng thú), chồng của Thị Xuân Trang mà chưa đề cập đến những nhân vật khủng khác, khiến tôi cũng đã té ngửa, tay chân bủn rủn, mặt ngước lên trời cao, mắt nhìn tận mây xanh, trợn trắng tròng mà hét lên rằng "Thiên sinh Chu, sinh Giang... Hà sinh Phùng, sinh Nguyễn?!. (1)
Không nói chi ai xa, con cháu gái gọi tôi bằng chú ruột, học sinh lớp 9, con bé thông minh lại đẹp tuyệt vời, nó có đứa bạn thân nhờ cất giữ giùm chiếc nhẫn 3 phân vàng, con nhỏ để trong học tủ quần áo giữ hộ cho bạn. Hai tháng sau đó, bạn nó cần lấy chiếc nhẫn về thì con cháu lại quên đi là không biết đã cất giấu ở đâu. Bạn nó và mẹ của bạn đến nhà xỉ mắng, cho rằng nó là con ăn cắp. Buồn và oan ức quá, chạng vạng, nó đi ra bờ sông bên gốc cây xoài già, nốc cạn một chum nhỏ thuốc trừ sâu và ra đi vĩnh viễn. Khi soạn quần áo để liệm cho con bé, má nó thấy chiếc nhẫn 3 phân rớt ra từ túi cái áo mới nhất của nó, mẹ nó với nước mắt dàn dụa đem trao lại chiếc nhẫn cho chính chủ với nỗi đau không nói nên lời.
Đất nước có quá nhiều hình ảnh thương tâm, người nghèo đem con đến bệnh viện, không tiền chi trả, buộc phải mang con trở về nhà không thuốc men và...chờ chết!. Con cái không đủ tiền mua cơm cho mẹ già bệnh, đành phải trễ hẹn để mẹ phải đói chết. Xã hội Việt Nam là một địa ngục trần gian nếu ai đó "chịu khó" rời khỏi những cảnh phồn hoa đô thị để lần về những vùng đèo heo hút gió thì sẽ chứng kiến tận mắt nhiều cảnh ngộ muối mặn xát lòng. Ở đây, mạng người không hơn vài ba phân vàng!. Nơi đây, con người ta nuốt nước miếng khi tưởng tượng về những món ăn của chó ở các nước tiên tiến và mơ ước nếu được ăn những đồ ăn của chó thì quả là niềm hạnh phúc.
Những mảnh đời ở vùng sâu vùng xa, người ta phải lùng bắt rắn rít, cào cào, dế, châu chấu...để ăn, rắn rít cạn kiệt, những mảnh đời khốn khổ lại tiếp tục ăn chuột, bất kể là chuột rừng hay chuột cống, chuột khỏe hay chuột mang bọ chét mầm mống bệnh tật!. Ở đây, những con người không cần phân biệt và cũng chẳng biết chê heo chết, gà vịt chết vì dịch H5N mấy chi cả, mà chỉ biết rằng heo gà bị trúng gió chết thì ăn, có sao đâu.
Nếu mời những vị tham quan và quí con cháu của họ đến những nơi xa xăm ấy, e rằng có thể là những điều không tưởng vì khi những bậc ấy đã trở nên giàu tiền phú trọc thì việc quá bước vàng ngọc đến những nơi chân lấm tay bùn là những chuyện hoang đường. Thôi thì hãy mời họ ghé những hẻm hóc ngay trong phạm vi thành phố, những khu nhà ổ chuột, những bãi rác hôi tanh để xem chứng kiến những em bé thơ, những cụ già lưng còng gầy gò ốm yếu, lem luốc nhặt từng mảnh giấy vụn, bốc từng núm đồ ăn hư thối mục rữa lên men cho vào miệng nhai ngồm ngoàm cho qua cơn đói lủi.
Hãy ghé sang những nơi cách lầu đài xa hoa không xa, có muôn ánh đèn màu rực chói cùng bao tiếng nhạc xập xình với bao thân xác trần truồng lả lơi thác loạn đến sút cả quần xì líp và để hở cả mông, cả ngực của những cặp vú chưa kịp thời nở hết độ xuân thì của những em út chưa học hành hết lớp để nhìn vào những hóc hẻm bụi bờ có những thân xác ốm o co quặp trong manh chiếu rách bươm lòi ra phần thân thể được phủ đầy đàn muỗi đen dày. Các vị hãy chịu khó đến những nơi này để được "vui mắt" với đàn muỗi khác bay la đà, cất lên âm thanh vo ve chán đời vì chích phải những bà già chỉ còn trơ lớp da bọc xương khiến kim chích của chúng bị gãy toi thảm bại.
Tòa lâu đài vàng lẫy của nữ đại gia giữa Sài Gòn
Những mưu mô quỉ quyệt, những lừa đảo ngoạn mục, biến những khu đất vàng, đất công của cái gọi là "đất quốc phòng" thành lô thành khoảnh để bán với giá ngút trời, thâu về hàng ngàn ngàn, tỉ tỉ ngập đất. Toan tính lợi dụng danh xưng chức vụ của cá nhân để buôn quan bán chức hầu bỏ túi riêng hàng triệu triệu đô la. Tài sản kim cương, vàng bạc, khách sạn, công ty. Rolls Royce, du thuyền, biệt thự, lâu đài, chân dài, vú ngắn, mông nắn, eo cong...
Ông Lê Ân bên chiếc Rolls-Royce có giá 1,54 triệu USD
Những khối tiền vàng châu báu được đúc bằng máu và nước mắt của khối người nghèo khổ đói kém bệnh tật, của lớp nông dân trên nắng dưới nóng, cơm nguội, cá khô tạm bợ. Của hàng đoàn công nhân lao động quá giờ đến mờ cả mắt, đến kiệt cả lực, đến đổi đôi trai gái tình nhân chỉ còn chút sức còm dành cho nhau sự giao hợp ngắn ngủi dăm đôi phút trong độ tuổi xuân thì, còn thì tất cả phải ưu ái cho làm việc tạo tiền để nạp thuế, để gởi về phụ trợ gia đình tơi tả xa xôi mãi tận quê nhà. Của lớp tiểu doanh ngày đêm đầu tắt mặt tối lao lực chắt chiu từng đồng từng cắc để ì vai ra gánh vác khối nợ nần do bầy đàn giòi bọ khủng đục khoét ngân quỹ quốc gia một cách không tàn nhẫn thương tiếc.
Trời cao có thấu?. Đất dầy có hiểu?. Tại sao đất nước tôi lại phải chịu sự hiện hữu của những loài vô lương này?. Tại sao dân tôi mãi khổ và sự cúi mặt chịu đựng nỗi đau này cho đến tận bao giờ?.
Trên trang trực tuyến của CNN vào tháng Tư 2014, có một bản tin kèm theo hình ảnh, mang tựa đề “The images tell a story of anguish and forgiveness” (Những hình ảnh thuật lại một câu chuyện về lòng tha thứ và hỷ xả) do hai phóng viên của CNN tường thuật đã gây ra nhiều xúc động.
Bộ ảnh này của một nhiếp ảnh gia của một hãng tin chụp được tại một cuộc xử tử bằng cách treo cổ vừa diễn ra lúc bình minh vào vài ngày trước tại thành phố Noor, tỉnh Maznadaran, miền Bắc nước Ba Tư (Iran). Hình thức trừng phạt này vẫn còn được chấp nhận và rất phổ thông ở đây.
Kẻ tử tội tên là Balal. Năm 2007, Balal 19 tuổi, đã dùng một con dao thường sử dụng trong nhà bếp và đâm chết một thanh niên khác mới 17 tuổi, trong một trận ấu đả với nhau ngoài đường phố. Balat bị kết án tử hình và sẽ bị xử tử bằng cách treo cổ trước công chúng. Gia đình của nạn nhân nghĩ rằng Balal không thực sự có ý định muốn giết con mình.
Nhiếp ảnh gia kể lại rằng khi tử tội Balal được lôi ra pháp trường, ông thấy bà mẹ của tử tội, đang đứng bám tay vào hàng rào ngăn, đã quỵ xuống và ngồi bẹp trên mặt đất vì quá đau lòng khi chứng kiến cảnh đứa con trai sắp bị hành quyết. Nhiếp ảnh gia nói: “Bà ấy dường như đã kiệt sức vì đau khổ trước thực tế sắp mất con. Cảnh thật thương tâm.”
Tử tội Balal bị bịt mắt và được nhân viên công lực dìu ra, bắt đứng lên trên một chiếc ghế và tròng sợi dây thòng lọng vào cổ. Tử thần đã gần kề. Balal hô lớn lời cầu nguyện sau cùng rồi im lặng chờ mạng sống kết liễu khi thi hành án.
Gia đình của nạn nhân bước ra. Bà mẹ nạn nhân, người mất con đã 7 năm trước đó, được cho phép phát biểu cảm tưởng trước đám đông. Bà cho biết bà đã sống một cơn ác mộng kể từ khi đứa con trai của bà bị đâm chết và khó có thể nào tự cho phép để tha thứ cho kẻ sát nhân.
Thế nhưng sau đó, bà đi về phía Balal và xin một chiếc ghế khác nữa để đứng. Bà bước lên ghế cho ngang tầm với tử tội Balal.
Bà vung tay tát ngay vào mặt kẻ đã giết con mình và lớn tiếng tuyên bố “Tha tội!” Đây là cách phạt tượng trưng thay cho tội chết. Sau đó, ông chồng bà cùng với bà đã tháo dây thòng lọng ra khỏi cổ kẻ tử tội.
Gia đình của Balal vui mừng vội vàng chạy lại ôm chầm lấy họ và cảm ơn họ đã tha mạng cho Balal.
Nhiếp ảnh gia tâm sự: “Tôi không biết làm thế nào mà tôi đã ngăn sự xúc động để chụp được những bức ảnh này. Tôi đoán đó là sức mạnh của chiếc máy ảnh đã khiến tôi phải tập trung. Đó là lý do duy nhất giúp tôi khỏi gục xuống và bật khóc.” * Nhân đọc bản tin nói trên người ta nhớ lại rằng trong Kinh Maha Dhammapala Jataka cho biết có một vị bồ tát trẻ tuổi kia rải tâm từ đồng đều, luôn cả cho người cha tàn ác đã hạ lệnh hành hinh ngài, cho tên đao phủ, cho ngưòi mẹ thân ái đang xót xa than khóc và cho chính bản thân từ tốn của ngài.
Bồ tát nghĩ thế này: “Đây là một cơ hội quý báu để ta thực hành tâm Từ. Đứng trước đây là cha ta. Mẹ ta đang khóc thê thảm. Kìa là đao phủ sẵn sàng hành quyết ta và ta đây là nạn nhân đang đứng ở giữa. Ta phải rải tình thương đến đồng đều cho tất cả bốn người. Cầu cho cha ta khỏi phải chịu quả xấu do hành động hung ác này gây ra. Cầu cho cha ta, mẹ ta, tên đao phủ và ta được hạnh phúc an vui, không khổ, không tật bệnh, không oan trái. Nhờ năng lực tâm từ này, mong rằng một ngày kia ta sẽ thành Phật.”
Đức Phật cũng từng khuyên dạy chúng sinh hãy chăm tu tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, tức là “bốn món tâm rộng lớn không lường được”, đó là các tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Phật dạy hãy mở rộng bốn tâm này, không hạn chế, cho tất cả các loài hữu tình ở khắp bốn phương. Đây là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện, là lối sống của bậc thánh. Nếu mỗi người tự cố gắng thực hành “tứ vô lượng tâm”, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc v.v… thì mỗi người sẽ trở thành một công dân lý tưởng trong một thế giới hòa bình, an lạc.
Đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có Đạo Phật, ở đó có tình thương. Phương châm tu tập của Phật Giáo là “từ, bi, hỷ, xả”. Người Phật tử lấy “từ, bi, hỷ, xả” làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh; tâm từ bi được coi là tâm Phật. Trong quá trình truyền giáo, Đạo Phật chưa bao giờ gây chiến tranh hay đổ máu, thông điệp tình thương cứu khổ, giúp đời đã được Đức Phật tuyên thuyết ngay từ thời kỳ sơ khai thành lập giáo đoàn. Bốn món tâm rộng lớn không lường được nói trên nếu của Phật và các vị Bồ tát thời được xưng là “Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả”.
Tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác. Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị. Đức Phật dạy người Phật tử phải tu tập “tứ vô lượng tâm”.
“Từ” là lòng lành giúp ích cho người, lòng thương yêu, thường đem vui cho tất cả chúng sinh. Tâm từ là cái gì làm cho lòng êm dịu, là lòng mong ước cho tất cả chúng sinh đều được an lành vui vẻ. Tâm từ là lòng mong mỏi chân thành của người bạn hiền muốn cho bằng hữu mình được an vui hạnh phúc. Ngược lại với tâm từ là lòng “sân hận”.
Tâm từ không phải là sự yêu thương thiên về xác thịt, về tình dục, cũng không phải là lòng trìu mến vị kỷ, lòng luyến ái đối với người nào. Tâm từ không phân biệt kẻ thân người sơ, không dành riêng cho tình đồng chí, không dành riêng cho tình đồng chủng, cũng không dành riêng cho tình đồng hương hay đồng đạo. Hơn nữa tâm từ không phải chỉ nên có giữa người và người mà phải bao trùm tất cả chúng sinh, bởi vì, loài cầm thú cũng cần đến sự giúp đỡ và tình thương.
Nói tóm lại, tâm từ bao la, rộng rãi, trải ra đồng đều đối với chính mình cũng như đối với những người thân cận, dù không quen biết, dù có ác cảm với mình. Người thực hiện từ tâm đến mức độ cùng tột sẽ thấy mình đồng hóa với tất cả chúng sinh, không còn sự khác biệt giữa mình và người. Cái gọi là “ta” không còn nữa. Mọi sự chia rẽ đều biến mất như đám sương mù tan trong nắng sáng. Vạn vật trở thành một, đồng thể, đồng nhất.
Khi tâm từ xuất hiện thì lòng sân hận, ác ý, thù oán không thể phát sinh. Đức Phật dạy chỉ có tâm từ mới dập tắt được lòng sân. Không những dập tắt được lòng sân, tâm từ còn diệt được các mầm tư tưởng bất thiện. Nhìn thái độ của loài người đối với hận thù, Đức Phật đưa ra nhận xét là tình thương sẽ chinh phục được lòng sân hận.
Để giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang giành nhau nước dưới con sông làm ranh giới, Đức Phật dạy (Kinh Pháp Cú):
(Pháp Cú 197) Ở ngay giữa đám nhân sinh Dù người hờn oán, nếu mình thảnh thơi Sống không thù hận cùng người Thật là sung sướng, cuộc đời thơm hương.
Nhưng có lòng từ ái đối với người khác không có nghĩa là phải quên mình. Lúc Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, các đệ tử từ bốn phương xa gần tấp nập về đảnh lễ Ngài. Chỉ có một thầy Tỳ kheo, thay vì làm như các vị khác, lại rút về tịnh thất chuyên cần hành thiền. Khi được hỏi về thái độ ấy, thầy trả lời vì trong ba tháng nữa Đức Phật sẽ nhập diệt nên thầy nghĩ rằng để tỏ lòng quý trọng Ngài, việc làm tốt đẹp nhất là thành tựu đạo quả A La Hán lúc Ngài còn tại tiền.
Đức Phật ngợi khen thầy và nhấn mạnh là “Không nên vì mục tiêu của người khác mà lãng quên mục tiêu, sự an lành của chính mình. Hãy nhận định rõ ràng mục tiêu của mình và lập tâm thành đạt mục tiêu ấy”:
(Pháp Cú 166) Chớ vì lợi ích cho người Mà quên lợi ích cho nơi chính mình Mục tiêu giải thoát tử sinh Ai lo lợi ích cho mình chớ quên Quyết tâm đạt được cho bền.
Không nên hiểu lầm là Đức Phật dạy ta nên ích kỷ, chớ có phục vụ kẻ khác một cách vị tha, bất cầu lợi. Trái lại Đức Phật chỉ nhấn mạnh rằng trong khi phục vụ lợi ích cho người cũng đừng quên mục tiêu tự giải thoát cho chính mình. Mình có giác ngộ và giải thoát rồi sau đó đi giúp kẻ khác mới hữu hiệu được hơn.
“Bi” là lòng thương xót cứu khổ, Tâm bi hay lòng bác ái có đặc tính làm rung động những tâm hồn trắc ẩn cao thượng trước cảnh khổ của người khác, thương dứt trừ đau khổ cho hết thảy chúng sinh. Bi là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của kẻ khác. Đặc tính của “tâm bi” là ý muốn giúp người khác thoát khỏi cảnh khổ.
Tâm bi tương tự như tình thâm của một bà mẹ hiền thương xót đứa con đang bị bệnh hoạn ngặt nghèo. Bao nhiều tâm trí, lời nói và hành động đều tập trung lại để chuyên chú tìm phương thế làm cho con đỡ đau khổ.
Tâm bi là vị thuốc có thể tiêu trừ bệnh hung bạo, tàn ác. Lòng của người có tâm bi thật là mềm dịu. Lắm khi người có tâm bi không ngần ngại hy sinh đến cả tính mạng. Chính do nơi tâm bi mà con người có thể hoàn toàn vị tha trong khi phục vụ kẻ khác, giúp mà không bao giờ mong đền ơn, đáp nghĩa.
Đối tượng của tâm bi là những kẻ nghèo đói, túng thiếu, đau ốm, cô đơn dốt nát, hư hèn và cả những người có đời sống buông lung, phóng đãng tội lỗi. Tâm bi không bị hạn định trong một quốc gia, một tôn giáo, một giai cấp hay một loại chúng sinh nào. Tình thương mà có giới hạn thời không phải là tâm bi. Tâm bi phải bao trùm tất cả chúng sinh đau khổ, rất bao la và bình đẳng.
Như Đức Phật xưa kia đã từng tế độ cho một người phụ nữ lạc bước giang hồ và cho cả một tên sát nhân tàn ác, toan hại Ngài. Về sau, cả hai đều theo Ngài và hoàn toàn đổi tính. Bên trong mỗi người, dù xấu xa thế nào cũng ngầm có những tính tốt. Đôi khi chỉ có lời nói phải, đúng lúc, cũng có thể làm đổi hẳn con người. Như vua A Dục ngày xưa, tàn bạo đến nỗi, người đời bấy giờ gọi là “A Dục, con người tội lỗi”. Thế mà, khi nghe được lời nói phải của một thầy Sa di trẻ tuổi, ông đổi hẳn lại tính tình, mạnh tiến trên con đường tự giác và trở thành “A Dục, con người hiền đức”. Ta nên nhận định rằng, tâm bi của Phật giáo không phải là giọt nước mắt nhỏ suông gọi là thương xót. Kẻ thù gián tiếp của tâm bi là “âu sầu, phiền não”.
Tâm từ và tâm bi thường đi chung với nhau. Trước hết phải dùng tâm bi để trừ giùm đau khổ cho chúng sinh, rồi kế đó dung tâm từ mà cho họ niềm vui. Như thế, cái vui mới được hoàn toàn. Vậy “bi” là nhân mà “từ” là quả. Người sống có tâm từ bi, có tình thương thì mọi hận thù trên thế gian này sẽ tiêu tan.
Một người có hai bà vợ. Một bà có con và một bà không. Bà không con đem lòng ganh tị, trộn thuốc độc vào thức ăn của bà kia, hại bà kia hai lần hư thai. Đến lần thứ ba, thuốc độc làm cho bà kia đang có mang cùng chết với đứa bé. Bà kia khởi tâm cương quyết báo oán và thực hành ý định. Bà không con bị trả thù, cũng quyết tâm trả thù lại. Thù oán trả qua trả lại, hết bà này đến bà kia, qua lại trong hai kiếp sống liên tục. Tuy nhiên, đến kiếp tái sinh thứ ba, cơ hội đưa đẩy hai bà cùng đến gặp Đức Phật và sau đó nhờ Ngài khuyên giải mà hận thù được chấm dứt:
(Pháp Cú 5) Khắp nơi trong cõi dương gian Hận thù đâu thể xua tan hận thù Chỉ tình thương với tâm từ Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm Đó là định luật ngàn năm.
Cô hầu nhỏ của một ông chồng nọ bất chợt đem lòng ganh tị bà vợ lớn. Một lần cô đem đổ bơ nóng lên đầu bà nhưng bà không giận mà còn giải lòng từ bi đến cô, nguyện rằng mình không sân hận, khiến cho bơ nguội lạnh, bà không bị phỏng.
Về sau, cô hầu nhỏ ăn năn hối hận và xin sám hối. Bà bảo cô phải lên xin sám hối với Đức Phật trước bà mới bằng lòng quên lỗi. Cô làm theo lời bà và được Đức Phật khuyên rằng “Hãy lấy tình thương mà chế ngự tâm sân, lấy chân thật khắc phục giả dối”:
(Pháp Cú 223) Lấy từ bi, lấy ôn hòa Thắng cơn nóng giận bùng ra thét gầm Lấy hiền lành, lấy thiện tâmThắng lòng hung ác bất nhân khó lường Lấy tâm bố thí cúng dường Thắng hàng keo kiệt, thắng phường tham lam Lấy chân thật để đập tan Những trò hư ngụy, dối gian ở đời.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng dạy rằng: “Khi có kẻ gây ra tổn thương cho mình thì hãy tha thứ cho họ mà không nên do dự một chút nào cả. Lý do là vì nếu nghĩ đến những gì đã thúc đẩy họ hành động như vậy thì chúng ta tất sẽ thấy rằng đấy chính là những thứ khổ đau mà họ đang phải gánh chịu, chứ không phải là do họ quyết tâm và cố tình làm tổn thương và gây tai hại cho chúng ta. Tha thứ là một cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, chứ không hề là một việc bỏ qua cho xong chuyện. Tha thứ là một hành động ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận thực trạng của những tình huống xảy ra với mình (“108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité”)
Của Cải Toàn Cầu Sắp Ít Hơn Của Cải Của Số Người Giàu Nhất !
Tổng tài sản của những người giàu có nhất, chỉ chiếm 1% dân số, sẽ sớm nhiều hơn tài sản của toàn bộ dân số còn lại trên toàn cầu, theo Oxfam, tổ chức từ thiện chống đói nghèo.
Nghiên cứu của Oxfam cho thấy rằng những phần tài sản của thuộc sở hữu của 1% những người giàu nhất tăng từ 44% năm 2009 lên 48% vào năm ngoái.
Tài sản trung bình của mỗi cá nhân trong nhóm này là khoảng 2,7 triệu đô la Mỹ.
Trong số 52% tài sản còn lại thế giới thì gần 46% thuộc về nhóm giàu tiếp theo vốn chiếm 19% dân số thế giới.
Điều này có nghĩa là 80% số dân còn lại trên thế giới chỉ sở hữu có 5,5% tài sản thế giới. Trung bình mỗi người trong nhóm này có tài sản vào khoản 3.851 đô la Mỹ vào năm 2014.
Theo xu hướng hiện nay, Oxfam cho biết dự kiến là 1% người giàu nhất sở hữu trên 50% tài sản của thế giới vào năm 2016. Nghiên cứu này được đưa ra vào lúc Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos sắp khai mạc.
Diễn đàn hàng năm thu hút các nhà lãnh đạo chính trị và kinh doanh hàng đầu từ khắp nơi trên thế giới.
Giám đốc điều hành Oxfam Winnie Byanyima, người sẽ đồng chủ trì sự kiện Davos, cho biết bà sẽ sử dụng danh tiếng của tổ chức từ thiện tại cuộc họp nhằm yêu cầu hành động khẩn cấp để thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
Trong một tuyên bố trước thềm diễn đàn Davos, bà Byanyima cho biết quy mô của sự bất bình đẳng toàn cầu là "chỉ đơn giản là đáng kinh ngạc".
Oxfam đang kêu gọi các chính phủ thông qua kế hoạch bảy điểm để giải quyết thực trạng bất bình đẳng, trong đó có chiến lược chống trốn thuế đối với các công ty và kế hoạch hướng tới một mức lương đủ sống cho mọi người lao động.
Bài pháp với đề tài thực dụng “Đem sự tu tập vào đời sống” đã được Ni Sư Tenzin Palmo trình bày với phong cách đơn giản mà tinh tế, linh hoạt cuả bà.
Ni Sư chấm dứt bài giảng, nhìn thính chúng, mỉm cười chờ đợi những câu hỏi của các Phật tử tham dự. Chánh điện Thiền Tự Tiêu Dao sinh động hẳn lên và hội chúng tranh nhau đưa tay xin hỏi.
Thông qua sự thông dịch của hai em Phật tử, Ni Sư từ tốn giải đáp từng thắc mắc về cá nhân Ni Sư, về cuộc sống đời thường cho đến các ưu tư về trải nghiệm thiền tập...
Một Phật tử đã hỏi một câu thú vị:
- “Đọc cuốn Cave in the Snow, con biết là Jetsuma đã suy nghĩ về cái chết từ khi còn rất bé, ở độ tuổi mà các con cuả con chỉ biết ăn ngủ, chơi đùa. Trong 12 năm ẩn tu trên núi tuyết, Ni Sư nhiều lần đối diện với hiểm nguy. Có lần Ni Sư bị chôn sống nhiều ngày trong hang dưới trận bão tuyết và tưởng chừng không thể thoát khỏi lưỡi hái cuả Tử thần... Xin Ni Sư hoan hỉ cho con biết cảm nghĩ của Ni Sư về Cái Chết.”
- “Tôi may mắn sinh ra trong một gia đình “lạ đời” ở Luân đôn! Cái chết không là điều cấm kỵ (taboo) mà luôn được gia đình bàn cãi hàng ngày một cách cởi mở. Trong khoảng đời ở trong hang trên núi tuyết, nhờ tu tập mà tôi đã bình tĩnh đối phó với mọi chuyện. Tôi bình thản đón nhận cái chết nếu nó xảy ra cho tôi vào thời điểm ấy.
Bây giờ, đôi khi tôi nghĩ rằng: A! Cái chết đến hả. Chắc là hứng khởi (exciting) lắm đấy!”
Cử toạ cười ồ trước câu kết dí dõm, nửa đùa nửa thật cuả Ni Sư Tenzin Palmo.
Từ cuối phòng, cô trụ trì mở lối cho một thính giả đi lên phía trước Chánh điện. Anh ấy trông tiều tụy, da dẽ xám xanh và nét mặt lộ vẻ lo buồn. Anh chắp tay vái chào, ngồi xuống bồ đoàn, ngước nhìn Ni Sư, nghẹn ngào không nói được. Cô trụ trì đỡ lời:
“Anh D muốn xin ý kiến Ni Sư về việc sửa soạn thế nào khi sắp lìa đời. Anh bị ung thư phổi, đã mổ xẻ và hóa trị gần ba năm nay nhưng không thuyên giảm, bịnh đã đến thời kỳ cuối. Mạng sống không còn bao lâu. Hôm nay anh đến để thưa hỏi Ni Sư, dù anh là tín đồ Công giáo.”
Đại chúng im phăng phắt vì kinh ngạc.
Ni sư xoay người đối diện với anh D. Nhìn anh với ánh mắt đầy thương cảm, Ni sư hỏi: “Anh có muốn nói chuyện riêng với tôi không?”
Anh D thưa: “Dạ không cần. Con muốn Ni Sư trả lời cho con trước hội chúng để mọi người cùng được lợi lạc.”
Một tràng pháo tay nổi lên tán thưởng sự chia sẻ đầy can đảm và độ lượng của anh.
Hướng về anh D, Ni sư Tenzin Palmo nói chậm rải từng tiếng một:
“ Ai rồi cũng phải chết cả! Có những đứa bé chết từ thuở sơ sanh. Có kẻ chết trẻ, người chết già vì đủ mọi lý do: tai nạn, bịnh tật, già yếu... Ai cũng biết về cái chết nhưng cứ tưởng là nó đến cho người khác chớ chưa đến lượt mình... mãi cho đến lúc nó thình lình hiện ra trước mắt thì hoảng hốt, lo sợ, bấn loạn vì thiếu sự chuẩn bị. Chết vì bệnh tật là may mắn hơn vì có thời gian sửa soạn cho sự ra đi.
1/ Điều trước tiên là buông bỏ mọi giận hờn, oán hận mà từ trước tới nay ta ôm ấp trong lòng. Mở lòng tha thứ hết mọi người. Buông xã hết.
2/ Hãy nói những lời yêu thương và biết ơn ta từng muốn nói mà chưa có dịp hay còn ngần ngại.
3/ Hãy di chúc về tài sản, ước muốn cuả mình. Cần phân minh và công bằng để thân nhân không tranh dành, cãi cọ trong thời gian ta mới lìa đời.
4/ Hướng tâm, nghĩ tưởng về Đức Chuá, Đức Mẹ nếu là tín đồ Công giáo, về Phật A Di Đà nếu là Phật giáo. Nếu không có tôn giáo thì nên hướng về Ánh Sáng.
5/ Thân nhân không nên than khóc và níu kéo: “Đừng đi, đừng bỏ em, đừng bỏ con...” vì sẽ gây quyến luyến, khó khăn thêm cho người sắp ra đi. Điều nên làm là nhắc nhở kẻ hấp hối nhớ đến những điều thiện lành. Dù người ấy có vẻ như đang hôn mê, không nói năng được nhưng thân nhân vẫn luôn nhắc nhở, cầu nguyện vì trong thâm sâu, họ vẫn còn biết.
6/ Nếu thân thể bị đau đớn thì cứ dùng thuốc giảm đau. Người tu tập cao có thể chịu đựng vì quán chiếu tánh không của cơn đau. Nhưng với người bình thường thì đau quá làm họ sân hận, bấn loạn. Hơn nữa, thuốc giảm đau không ảnh hưởng đến thần thức sau khi chết.
7/ Một điều cần nhắc nữa là: Khi ra đi, người chết thường thấy hình ảnh của ông bà, cha mẹ hay thân quyến quá cố hiện ra, vẫy gọi mình. Đừng đi theo họ mà chỉ hướng đến Chúa, Phật hay Ánh Sáng, là con đường hướng thượng.”
Ghi lại những lời khuyên hữu ích vì cảm niệm công đức cuả Ni Sư. Xin chia sẻ cùng tất cả. Thực hành là chuyện của mỗi người.
Rất cám ơn các bài viết của chị CP, anh Tuấn và anh Kiệt về tôn giáo Islam, ngắn gọn nhưng súc tích.
Tìm hiểu những nguyên nhân lịch sử thời cổ xưa và hiện đại đưa đến những phong trào khủng bố của người Muslim là vấn đề rất phức tạp. Có thể nói những người tín đồ chân chính của đạo Islam đã bất lực trươc khuynh hướng bạo lực trong một tôn giáo bị phân hoá thành nhiều giáo phái (bản thân các giáo phái này cũng tàn sát lẫn nhau). Lịch sử loài người có quá nhiều cuộc chiến tranh vì tham vọng quyền lực, cướp bóc đất đai, tài sản, nguyên liệu, nô lệ, trong đó lý do tôn giáo được đưa ra chỉ như là một chiêu bài.
Vài ý kiến về đạo Islam nhân bài viết của bs Tuấn Ngô.
( No religion in the modern world is as feared and misunderstood as Islam- Karen Armstrong)
Tăng Quốc Kiệt
1- Hồi: không phải là hồi phục.
Dẫu hán tự viết chữ hồi có nghĩa là trở về, nhưng đạo Hồi, từ chữ Hồi Hồi, là một tộc thiểu số của Trung Hoa, theo đạo Hồi (xem Wikipedia)
Nhân đây, cũng nên bỏ từ"đạo Hồi" theo tiếng Hán vô nghĩa, mà nên sữa lại là Islam, có nghĩa là "qui phục thượng đế"
Người theo Islam, gọi theo từ Ả Rập là muslimin hoặc Musulman, có nghĩa là kẻ đã qui phục thượng đế.
2- Đạo Islam không cấm hút thuốc.
Nhưng tín đồ bị cấm uống rượu, nguyên do như vầy: lúc Muhammad dẫn các đệ tử từ Mecca trốn qua Medina tị nạn, các đệ tử nhậu quá đà, lấy các khúc xương sau bữa ăn, bổ lên đầu nhau phun máu, từ đó tiên tri cấm hẳn tục uống rượu, chỉ được uống khi vào tới thiên đàng, nơi đây rượu ngon chảy thành suối, gái đẹp hàng đàn còn trinh và trẻ mãi không già, do đó bọn terroriste thích chết sớm để được hưởng liền.
3- Không phải đạo Islam ăn bốc mà người Ả Rập ăn bốc, dẫu họ theo đạo Chúa.Người Ấn Độ giáo cũng ăn bốc.
4- Về chuyện mạng che mặt Burka: không có đoạn nào trong kinh Qur'An bảo đàn bà phải che mặt và phải ngồi riêng. Theo học giả Karen Armstrong: phong tục này bắt đầu xuất hiện ba hoặc bốn thế hệ sau khi Muhammad qua đời, do người Musulman bắt chước người thiên chúa giáo Byzantine, họ che tóc và phân chia đàn bà, đàn ông ngồi riêng trong nhà thờ.
5- Đạo Islam cho phép đàn ông lấy tới bốn vợ với hai điều kiện: thứ nhất phải đủ sức nuôi cho đầy đủ; thứ nhì, phải thương đồng đều, nhằm đáp ứng tình trạng đàn ông thiếu vì chết trận thời bấy giờ, không có cách nào khác để giải quyết cho các bà góa chồng.
6- Giáo lí Islam có năm điều phải giữ, như năm cây cột, hay năm ngón của bàn tay. Khi ta thấy hình vẽ bàn tay năm ngón, phải hiểu có ý nhắc nhở năm điếu mà người Musulman phải giữ:
a- Tin có Allah và prophète của ngài là Muhammad.
b- Cầu nguyện năm lần một ngày.
c- Phải bố thí 2,5% lợi tức kiếm được.
d- Phải nhịn ăn trong tháng Ramadan.
e- Trong đời, nếu có khả năng, ít nhất một lần phải đi hành hương ở Mecca.
7- Cũng cần nói là đạo Islam không chủ trương ghét Do Thái và Thiên Chúa giáo. Cho đến năm 1948, khi nước Israel thành lập và người Palestine bị ngược đãi, người Musulman coi như họ bị phản bội, vì suốt hàng ngàn năm lịch sữ, họ đã cưu mang dân Do Thái, khi người Do thái bị đuổi khỏi các nước Âu Châu.
Chính người Thiên chúa giáo dạy cho người Musulman ghét người Do Thái, vì họ xét người Do Thái qua Juda bán chúa. Muhammad dạy tín đồ Islam phải yêu thương người Do Thái và tín đồ Thiên chúa vì cả ba đạo cùng thờ một chúa.
Jihad (thánh chiến) là từ mà Muhammad dùng để trị bọn Ả Rập còn thờ đa thần mà prophète rất ghét chớ không nhắm hai đạo kia
Một chút lịch sử, năm 1492, sau khi vua catholic của Tây Ban Nha (TBN) đuổi người Maure ra khỏi nước, lập tức họ đuổi tất cả người Do Thái, hạn cho ba tháng, sau gia hạn thêm ba tháng nữa phải rời khỏi TBN không được mang theo tài sản nếu không cải sang đạo Thiên Chúa. Sau đó nếu ở lại TBN họ sẽ bị thiêu sống. Người Do Thái đi đâu? Chính người Musulman ở Bắc Phi và đế quốc Ottoman islamique đã cưu mang họ.
Ngày nay bọn quá khích nhân danh Islam để giết người, nhưng đó chỉ là những kẻ thất học bị nhồi sọ, nếu bảo họ chỉ đoạn nào trong Qur'An để giải thích hành động của họ thì không có chỗ nào dạy họ làm ác cả.
Đạo Thiên chúa cũng đã qua các giai đoạn ấu trĩ giết người, những trận chiến thập tự, inquisition ở TBN, bao nhiêu người bị tòa án inquisition kết tội oan theo tà đạo, rồi bị thiêu sống v.v... Đã lâu, ít người còn nhớ, nhưng lịch sữ vẫn còn đó, không có ai có thể tìm một câu trong kin thánh tân ước dạy giết người mà ta chỉ đọc được những lời Chúa dạy hết sức vị tha và bác ái. Và lịch sữ là sự lập lại.
Muốn hiểu thêm về Islam xin đọc:
1 1- Islam: A short history của Karen Armstrong, học giả lỗi lạc người Anh. Sách viết về đạo Chúa và đạo Phật của bà cũng rất hay, rõ ràng dễ hiểu.
2 2- Văn minh Ả Rập của Will Durant, nguyên bản hoặc bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, hơi dài nhưng đầy đủ về lịch sữ của đạo Islam, rất hóm hĩnh và lý thú.
Một Thiên Thần sau khi hết sứ mạng ở trần gian được trở lại thiên đàng.
Thượng Đế hỏi Thiên Thần nhận xét về con người và cuộc sống của họ như thế nào.
Thiên Thần vội đáp lời:
“Ôi chao, Kính thưa Thượng Đế, Con người là sinh vật vô cùng kỳ quái!”
Thượng Đế hỏi : Tại sao họ lại kỳ quái?
Thiên Thần hào hứng bẩm báo:
“Họ kỳ quái vì họ sống với vô vàn nghịch lý. Con xin đơn cử vài điều:”
Khi không có tiền, họ ăn rau rừng ở nhà
Khi có tiền, họ cũng ăn những thứ rau rừng ấy nhưng phải tốn nhiều tiền ở nhà hàng sang trọng.
Khi không có tiền, họ đi xe đạp
Khi tiền bạc rủng rỉnh, họ cũng lại đạp cái thứ xe đạp tập thể dục
Khi không có tiền, họ phải đi bộ cả ngày kiếm cơm
Khi có khá tiền, họ cũng phải đi bộ để giảm béo
Ôi con người, họ có bao giờ không dối lừa ngay cả với bản thân?!
Khi không tiền, họ khao khát được kết hôn
Khi có tiền, họ lại ước muốn được ly dị người đã đồng cam cộng khổ thuở họ còn hàn vi.
Khi không tiền, vợ họ thành thư ký; người giúp việc nhà…
Khi có tiền, thư ký của họ được biến thành vợ hai, vợ ba, để theo họ đi du hý.
Khi không tiền, họ thích chơi sang như người giàu có;
Khi có tiền lại giả vờ sống như kẻ nghèo rớt mồng tơi.
Ôi con người! Họ chẳng bao giờ nói ra lời thật, đơn giản;
Họ nói chơi cổ phiếu là không tốt, nhưng rất say mê đầu tư chứng khoán.
Họ nói tiền bạc là tai họa, nhưng cứ lao khổ tích lũy cho nhiều.
Họ nói địa vị cao thật cô đơn, nhưng luôn thèm muốn chức quyền, và lo lót khối tiền chạy chức.
Họ nói cờ bạc, rượu chè, trai gái có hại, nhưng cứ mê man với những thứ đó.
Ôi chao con người! Họ chẳng bao giờ hiểu thấu đáo những gì họ nói và không bao giờ nói ra những gì họ muốn nói.
Thượng Đế cười vang và phán: “Thế mới là Con người đầy mâu thuẩn và dục vọng! Con thật không may chỉ gặp những Con người như thế vốn đầy dẫy trên trái đất. Số ít ỏi còn lại không có những hành vi nghịch lý này đã biết tri túc và giác ngộ thành Người
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.