Trong lịch sử thế giới đă từng xảy ra một cơn sốt trứng. Trứng lúc bấy giờ vô cùng khan hiếm. Chính v́ thế gái một quả trứng c̣n đắt hơn cả vàng.

Đảo Farallon
Hàng nhóm người đào vàng trong khu vực hồi năm 1850 đều cần phải ăn uống, đặc biệt là protein để đảm bảo sức khỏe. Cho tới khi nguồn thức ăn khan hiếm, họ t́m tới đảo Farallons, tách biệt với thế giới, giữa những đàn cá mập trắng và sư tử biển.
Dù chỉ cách Cầu Cổng Vàng hiện nay khoảng 50 km, đó vẫn là vùng nước dữ. Dù hoang vu đầy sỏi đá, nơi này có thứ mà phu vàng cần. Đây là nơi sinh sống của những loài chim lớn nhất nước Mỹ, và chúng đẻ những quả trứng cực giàu protein. Tuy nhiên, thu hoạch trứng không phải dễ. Đảo không hề có bờ biển, kể cả neo những thuyền nhỏ cũng ẩn giấu nhiều nguy hiểm.
Trong khoảng 1849 tới 1854, hàng ngàn phu vàng từ khắp nơi trên thế giới tụ tập ở San Francisco, kéo theo hàng loạt ṣng bạc, trại và nhà thổ. Lư do là v́ những con buôn lâu năm cảm thấy "đào mỏ" những phu vàng này c̣n dễ hơn cả đào vàng. Sau những ca làm việc, tất cả tập trung ăn uống vui chơi. Trứng trở thành một nguồn thực phẩm hiếm thời bấy giờ. Tất cả gà, chim chóc và trứng trên bờ đă bị săn tiệt, nên đương nhiên người ta t́m đến Farallon.

Murre là loài có ngoại h́nh giống chim giống cánh cụt
Nhà "khởi nghiệp" với trứng đầu tiên là dược sĩ Doc Robison, cùng em rể là Orin chèo thuyền ra đảo Farallon lấy trứng chim murre về đất liền bán lại cho các nhà hàng và tạp hóa. Đó là công việc nguy hiểm, v́ chim murre làm tổ trên các vách đá hẹp, đứng giống như chim yến. Sau khi kiếm được 3.000USD, số tiền khổng lồ thời bấy giờ, hai anh em không ra đảo lần nào nữa, mô tả đó là "trải nghiệm kinh khủng khiếp".
Tuy nhiên, họ không ngờ rằng thành công của ḿnh đă châm ng̣i cho "cơn sốt trứng".
Trứng murre to gấp 2 lần trứng gà, có chóp hơi nhọn và màu ánh xanh bắt mắt. Khi chiên lên, chúng vẫn giữ nguyên cấu trúc lỏng và nhày, ḷng đỏ đậm không quá ngon mắt. Năm 1951, 6 người thành lập công ty Pacific Egg Co., tuyên bố sở hữu độc quyền Farallon. Tới tháng 5, mùa trứng nở, họ thuê từ 10-30 người, chủ yếu mang quốc tịch Ư và Hy Lạp chèo thuyền tới đảo, trèo lên những vách đá. Dù bị những con bồ nông tấn công, họ khá cứng đầu và nhặt những quả trứng chiến lợi phẩm vào túi.

Người thu hoạch và buôn trứng Murre
Việc kinh doanh này dần nổi tiếng vào lúc một ngọn hải đăng được dựng trên Farallon. Hàng trăm thuyền kéo đến ḥn đảo và phải đối phó với những nhân viên vô cùng hung dữ. Tới một ngày nọ đă có súng nổ khiến Edwin Perkins của công ty trứng thiệt mạng. 5 người trên thuyền đă bị bắn và phải ra khơi lánh nạn. Cuối cùng, việc khai thác trứng được đặt dưới sự quản lư của chính quyền, nhưng lại giao cho nhà hải đăng quản lư, nên nhóm này nhanh chóng mở một "chợ đen" kinh doanh trứng.
Việc khai thác cạn kiệt này đă khiến số lượng chim murre trên đảo từ 400.000 vào năm 1850 giảm xuống c̣n 6.000. Nhà báo Gary Kamiya, nhận xét rằng vào thời kỳ đó, bất kỳ món bánh trái nào liên quan tới trứng đều có thành phần trứng chim murre.
Nhưng hiện giờ, ngành gia cầm đă phát triển mạnh, trứng murre không c̣n bị săn t́m như trước. Đảo Farallon giờ là địa điểm quan sát cuộc sống hoang dă của chim muông bởi các nhà khoa học, đồng thời họ cũng t́m cách khôi phục những loài hiếm c̣n sống trên đảo.
VietBF © Sưu Tầm