TTH - Ở Huế, hễ nghe ai có họ là Tôn Thất hoặc Nguyễn Phước (Phúc)... th́ người ta lại bảo đó là dân Hoàng phái, là dân "các mệ". Vậy nhưng đến khi hỏi lại, tại sao cùng là dân "các mệ", nhưng người này th́ có họ là Nguyễn Phúc, người khác th́ lại Tôn Thất? Lập tức không ít người bị ngớ ra. Rồi từ đó, không ít cuộc tranh luận đă... bùng nổ.
Mới đây, trong một cuộc tranh luận như thế, có ư kiến khẳng định như đinh đóng cột:
“Ai Nguyễn Phúc là con cháu nội, c̣n người mô Tôn Thất là con cháu ngoại (của vua)!”
Nhiều người ấm ức, nhưng không có “dữ liệu” để căi lại. Đành “ôm hận”... hỏi quanh. Tôi cũng đă có bận như thế. Chỉ biết chắc rằng, cách giải thích ai mang họ Tôn Thất là cháu ngoại vua là... tào lao. Bởi cụ thể nhất, Nữ sử Đạm Phương - Công Nữ Đồng Canh là con của Hoằng Hóa Quận công Miên Triện, cháu nội của vua Minh Mạng. Bà là thân mẫu của nhà cách mạng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, là bà nội của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Các ông Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Khoa Điềm theo tộc phả là “con cháu ngoại” của vua đấy chứ, nhưng họ vẫn mang họ cha, chứ có mang họ Tôn Thất đâu?
Hay như trường hợp Thị độc học sỹ Đặng Hữu Phổ - người anh hùng đă xả thân trong phong trào Cần vương. Ông là con của Công chúa Tĩnh Ḥa (con gái thứ 34 của Vua Minh Mạng) và Pḥ mă Đặng Huy Cát. Cháu ngoại vua nhưng ông vẫn mang họ Đặng Hữu đấy thôi. Hoặc thêm nữa, như trường hợp An Thường Công chúa (con thứ 4 của Vua Minh Mạng) hạ giá cùng Pḥ mă Phan Văn Oánh. Con của bà là Phan Văn Huy chứ có gọi là Tôn Thất Huy đâu... Cho nên, có thể khẳng định, nói Tôn Thất là những người thuộc “con cháu ngoại” của vua là sai bét.
Nhưng c̣n Tôn Thất và Nguyễn Phúc, tại sao lại có phân biệt ấy?
Để cho chắc và cho mau chuyện, tôi đi gặp trực tiếp một người bạn là dân “các mệ” chính hiệu để hỏi. “Mệ” cười thủng thẳng:
- Nguyễn Phúc là con cháu vua, Tôn Thất là con cháu ḍng các chúa.
Tôi băn khoăn:
- Vậy c̣n những trường hợp Tôn Thất “gọn” và Tôn Thất... “rườm rà”. Ví dụ các nhân vật lịch sử Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp; hay như nhà giáo Tôn Thất Hanh... Tên các vị ấy chỉ gọn có 3 chữ. Trong khi có những người khác cũng Tôn Thất nhưng lại c̣n có thêm chữ đệm. Ví dụ Tôn Thất Viễn Bào, Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm... Sao lại có sự khác biệt ấy?
Đến đây th́ “mệ” của tôi... búi, giải thích lộn tới lộn lui khiến tôi càng nghe càng... tù mù. Thôi, t́m tới “mệ”... sách vở cho chắc chuyện. Sau này, t́m đọc chỗ này chút, chỗ kia chút, như “Hoàng tộc lược biên” của trang Nguyễn Phước tộc, 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế của Nguyễn Đắc Xuân... tự tôi hiểu như thế này:
"Họ Nguyễn của vương triều Nguyễn Việt Nam nguyên quán ở làng Gia Miêu Ngoại Trang, tổng Thượng Ban, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá.
Đến đời Gia Long (1803), chữ Gia Miêu Ngoại Trang đổi thành Quí Hương, và Tống Sơn đổi thành Quí Huyện. Nguyên họ Nguyễn là họ Nguyễn Văn (Thân sinh của Nguyễn Kim- phụ thân của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng - huư là Nguyễn Văn Lưu). Đến đời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, tương truyền một hôm, vợ ông nằm mơ thấy có vị thần cho tờ giấy, trên đó viết đầy chữ PHÚC. Nhiều người khuyên bà nên lấy chữ Phúc để đặt tên cho con, nhưng bà cho rằng, nếu đặt tên th́ chỉ một người được hưởng, chi bằng dùng chữ Phúc để làm tên đệm th́ nhiều người sẽ cùng được hưởng phúc. Rồi liền đặt tên cho con là Nguyễn Phúc Nguyên, sau này là Chúa Săi.
Nhánh họ Nguyễn vào Nam làm chúa bắt đầu lấy họ Nguyễn Phúc từ đó. Đến đời Vua Minh Mạng, những người cùng họ với vua được vua đặt là Tôn Thất. Và để phân biệt thân sơ, phân biệt các đời, Vua Minh Mạng cho soạn Đế hệ thi và Phiên hệ thi. Mỗi bài đều có 4 câu 5 chữ, tổng cộng có 20 chữ trong 1 bài, toàn là mỹ tự để đặt chữ lót cho con cháu 20 đời. Đế hệ thi dùng cho con cháu của vua Minh Mạng, và chỉ những người thuộc ḍng đế mới được làm vua. Đế hệ thi được áp dụng bắt đầu từ đời vua Thiệu Trị về sau. Nguyên văn Đế hệ thi gồm 4 câu, 20 chữ như sau:
Miên Hồng (Hường) Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quư Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thoại Quốc Gia Xương
Đêm Hoàng cung
Phiên hệ thi có tất cả 10 bài, dùng cho hậu duệ của 10 người anh em trai của Vua Minh Mạng (Vua Gia Long có tất cả 13 hoàng tử, có 3 người mất sớm, 10 người có con cháu. Chữ Phiên trong Phiên hệ thi có nghĩa là phên dậu). Phiên hệ thi cũng là để phân biệt Tôn Thất anh em gần gũi với Vua Minh Mạng với Tôn Thất là con cháu các Chúa Nguyễn (thuộc Tiền hệ).
Mười bài của Phiên hệ thi thứ tự gồm: Anh Duệ (cho con cháu Hoàng tử Cảnh - anh vua Minh Mạng), tiếp theo là Kiến An, Định Viễn, Diên Khánh, Điện Bàn, Thiệu Hóa, Quảng Oai, Thường Tín, An Khánh và Từ Sơn (đều là em Vua Minh Mạng). Mỗi bài cũng 4 câu, tổng cộng 20 chữ. Ví dụ bài Anh Duệ:
Mỹ Duệ Anh Cường Tráng
Liên Huy Phát Bội Hương
Lệnh Nghi Hàm Tốn Thuận
Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang.
Kỳ ngoại hầu Cường Để thuộc ḍng này.
Như vậy, có thể thấy, “các mệ” nào mang họ Nguyễn Phúc (ví dụ Nguyễn Phúc Hồng A, Nguyễn Phúc Bửu B, Nguyễn Phúc Quư C...) th́ đó là con cháu của vua và có... khả năng làm vua (thời nhà Nguyễn).
“Các mệ” nào là Tôn Thất “gọn” (chẳng hạn Tôn Thất D, Tôn Thất E, Tôn Thất G...), th́ đó là con cháu thuộc Tiền hệ - ḍng 9 chúa.
C̣n “mệ” nào có họ Tôn Thất và thêm chữ lót nữa (Chẳng hạn Tôn Thất Mỹ X, Tôn Thất Cường Y, Tôn Thất Tráng Z...), đích thị đó là con cháu ḍng các vị anh em ruột của vua Minh Mạng. Tuy nhiên, sau khi chế độ quân chủ Việt Nam cáo chung, việc phân biệt ḍng đế, ḍng phiên không c̣n ư nghĩa nhiều nên xu hướng nhiều người đă lấy lại họ là Nguyễn Phúc.
Với sự t́m hiểu của ḿnh, chúng tôi chỉ dám giải thích đến vậy. Chẳng biết trúng trật thế nào. Nếu được các bậc thức giả cao minh chỉ dạy và cũng là giúp cho bạn đọc có thêm thông tin th́ thật là đáng quư.
Diên Thống
07/06/2012
Huế xưa...