Một đại dịch xảy ra cách đây hơn 100 năm đă tấn công New York (Mỹ) và cướp đi sinh mạng của hơn 20.000 người, trong đó có ông nội của đương kim tổng thống Donald Trump. Đại dịch này được đánh giá là c̣n tồi tệ hơn dịch Covid-19 hiện nay tại Mỹ.
Ngày 11.8.1918, tàu Bergensfjord đă cập cảng New York với 10 hành khách và 11 thuyền viên đang bị ốm bởi một chứng bệnh lạ và đây là những ca nhiễm đầu tiên của một đại dịch kinh hoàng tại New York – cúm Tây Ban Nha.
Đại dịch cúm Tây Ban Nha diễn ra từ tháng 1.1918 đến tháng 12.1920, liên quan đến virus cúm H1N1. Dịch bệnh tấn công hầu khắp thế giới, bao gồm cả Bắc Cực, các ḥn đảo xa xôi và khiến hơn 50 triệu người tử vong. Châu Âu là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nhất của dịch bệnh.
Mặc dù có tên gọi như vậy, dịch này không khởi phát từ Tây Ban Nha. Do chiến tranh nên các nước tham chiến đă chặn tin tức về dịch bệnh, khiến Tây Ban Nha, một quốc gia trung lập, là nước đầu tiên công khai trường hợp nhiễm bệnh. V́ vậy, người ta thường gọi đây là đại dịch cúm Tây Ban Nha.
Nhân viên công sở đeo khẩu trang trong dịch cúm Tây Ban Nha tại New York (ảnh: NY Times)
Sau khi tàu Bergensfjord cập cảng, toàn bộ những người nhiễm bệnh đều được đưa tới bệnh viện và điều trị cách ly. Ai cũng nghĩ dịch bệnh này đă được kiểm soát rồi, cho đến khi những ca tử vong liên tiếp xuất hiện sau đó.
Không rơ bằng cách thức nào, dịch bệnh đă lây lan khắp các đường phố và khu dân cư đông đúc tại New York. Những ca nhiễm, số người tử vong bắt đầu xuất hiện rồi tăng tốc nhanh dần, cuối cùng trở thành một cơn băo dịch bệnh quét qua New York, y như cách Covid-19 đang hoành hành hiện nay.
Cúm Tây Ban Nha đă khiến hàng chục triệu người trên thế giới tử vong. Tại Mỹ, số người chết v́ đại dịch này là 675.000, trong đó có Frederick Trump, ông nội đương kim Tổng thống Mỹ - Donal Trump.
Một người tử vong v́ cúm Tây Ban Nha được đưa lên xe chở thi thể (ảnh: NY Times)
New York có hơn 20.000 người tử vong trong đại dịch này. Trung b́nh, mỗi ngày lại có 400 – 500 người tử vong tại New York, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho người dân.
Trong cuốn Lịch sử thành phố New York từ năm 1898 đến 1919, nhà sử học Mike Wallace mô tả, những người chết v́ cúm Tây Ban thở kḥ khè và phổi của họ chứa đầy dịch lỏng sủi bọt.
Thành phố New York là nơi hoàn hảo để một dịch cúm lây lan. Ḍng người đông đúc tại các ga tàu trong giờ cao điểm và trên đường phố. Thời đó, người dân rất thích uống nước tại các đài phun nước công cộng với chỉ một chiếc cốc duy nhất dùng cho tất cả mọi người. Người ta cho rằng, chiếc cốc công cộng an toàn v́ luôn được rửa sạch, tuy nhiên, nước th́ không thể rửa sạch được virus.
Một bệnh viện đông nghịt người ở New York trong dịch cúm (ảnh: NY Times)
Trong lúc dịch bệnh đang lây lan, nhiều người dân đă yêu cầu chính quyền mau cho đóng cửa toàn bộ các nhà hát khắp thành phố. Tuy nhiên, ông Royal S. Copeland – Ủy viên y tế bấy giờ của New York, khăng khăng từ chối điều này.
Lư do được ông Copeland đưa ra là: Mở cửa các nhà hát khiến người dân tụ tập đông và việc giáo dục tuyên truyền về dịch bệnh sẽ hiệu quả hơn.
Trước khi buổi biểu diễn tại các nhà hát bắt đầu, một người nào đó thuộc chính quyền sẽ ra và giảng giải cho công chúng bên dưới biết về nguy cơ lây bệnh khi ho hoặc hắt hơi. Khán giả sẽ biết dịch cúm Tây Ban Nha lây lan ra sao và từ đó có ư thức bảo vệ sức khỏe bản thân cũng như những người khác.
Có lẽ không cần nói cũng biết độ hiệu quả của phương pháp giáo dục tập trung này, số người tử vong v́ dịch cúm cứ thế mà tăng lên sau các buổi tuyên truyền.
Một bệnh viện khác ở Washington (ảnh: NY Times)
Ngoài biện pháp giáo dục tập trung, nhiều biện pháp khác cũng được New York thực hiện và xem ra là có hiệu quả hơn. Ví dụ như dán áp phích, rải tờ rơi truyên truyền, kêu gọi mọi người không hắt hơi, họ hoặc khạc nhổ ở nơi công cộng và trên đường phố. Cảnh sát đi tuần tra mọi nẻo đường và sẵn sàng xử phạt những kẻ vi phạm.
Về chuyện đeo khẩu trang hay che mặt bằng vải trong dịch cúm Tây Ban Nha, Ủy ban Y tế New York tuyên bố: Đeo khẩu trang trông tức cười nhưng thà vậy c̣n hơn bị chết.
New York cũng không cho đóng cửa các trường học. Ông Copeland cho rằng, trường học c̣n sạch sẽ hơn nhà của các học sinh và trường học quản lư trẻ em tốt hơn là để chúng ở nhà với bố mẹ.
Những doanh nghiệp và công sở cũng được cho phép hoạt động như b́nh thường nhưng sẽ bị đổi giờ hoạt động để tránh tụ tập quá đông.
Một người lao công đang che mặt bằng vải trong dịch cúm năm 1918 tại New York (ảnh: NY Times)
Khi được Thị trưởng New York – ông John Francis Hylan, gửi cho một bức thư với nội dung phàn nàn của người dân rằng ngài Ủy viên y tế không coi trọng các biện pháp chống dịch, ông Copeland đáp lại trên một bài báo:
“Ủy viên Y tế của các bạn coi dịch bệnh là một vấn đề rất nghiêm trọng. Nghiêm trọng đến mức tôi dành 21 giờ mỗi ngày để t́m cách đối phó, 3 giờ c̣n lại để mơ về dịch bệnh”.
Trong cuốn lịch sử của ḿnh, ông Bellevue miêu tả: “V́ dịch bệnh bùng phát rất nhanh, bệnh viện bị quá tải ngay lập tức. Các bệnh nhân nhiễm cúm Tây Ban Nha bị nhồi nhét trong cũi hay chen chúc tại khắp các ngơ ngách của bệnh viện do thiếu giường bệnh. Giường bệnh được ưu tiên cho trẻ em. 3 trẻ em nằm một giường.
Một đội quân lớn là những người phụ nữ đă t́nh nguyện đến chăm sóc cho những người bệnh. Họ mang theo khăn trải giường mới, sạch sẽ, thực phẩm tiếp tế và nhiều nồi súp nóng hổi”.
Một tờ rơi khuyên mọi người đừng nên hắt hơi ở nơi công cộng (ảnh: NY Times)
Ông Paul Newerman, Giám đốc thư viện tại Học viện Y khoa New York, cho biết, New York bị ảnh hưởng nặng bởi đại dịch cúm nhưng đỡ hơn nhiều so với một số thành phố khác ở Mỹ như Philadelphia, Boston.
“Họ có một phong trào bảo vệ sức khỏe cộng đồng mạnh mẽ và trên hết là sự may mắn”, ông Paul Newerman nói.
VietBF@sưu tập