Tôi đến thăm Bà Ngô Đ́nh Nhu vào lúc 2 giờ trưa ngày 16 tháng 3 năm 2002 tại kinh thành Paris của nước Pháp. Nắng êm dịu vừa lên
sau buổi sáng ẩm ướt của những ngày đầu Xuân và Paris th́ lúc nào cũng chật ních những người và xe. Thành phố có cả một kho tàng bảo vật và huyền thoại. Ở đây người đi bộ đầy đường với những tiệm ăn và quán cà phê nối tiếp chạy dài cả dẫy phố. Người Paris nhàn và ham muốn hưởng thụ, chậm chạp nhưng thon thẻ hơn người Seattle. Cuộc sống thư giăn chậm chạp của những ông Tây, bà Đầm là niềm ước mơ của những người luôn phải vội vă lập cập với tốc độ từ sáng sớm đến nửa đêm ở Cali hay Texas.
Bà Nhu ở một ḿnh trong một đơn vị gia cư (apartment) của một ṭa nhà mới xây gần tháp Eiffel. Nói là mới, để phân biệt với những chung cư san sát ở Paris đă được xây cả đến vài ba thế kỷ với những đường nét hoa văn cổ kính. Chung cư Bà Nhu ở có những nét kiến trúc đương đại giống như một cái hộp khổng lồ bằng kính, có lẽ đă được tạo dựng từ 30 đến 40 năm. Bà Nhu là sở hữu chủ hai (02) đơn vị gia cư ở trên tầng lầu thứ 11 của ṭa nhà cao tầng ở khu vực có địa thế rất đẹp và đắt tiền nhất thủ đô Paris, ngay giữa cái nôi của văn hóa và chính trị thế giới.
Nơi đây , một tấc đất chẳng biết giá tới mấy chục hay mấy trăm tấc vàng. Cả vùng này hầu như là nơi cư ngụ của các nhân viên và phái đoàn ngoại giao trên đất Pháp. Bà Nhu ở một đơn vị và cái thứ hai cho thuê để lấy tiền sinh sống. Đó là lợi tức duy nhất của Bà, cũng tiện tặn đủ sống và không cần nhờ vả đến các con. Bà sống ẩn dật, đi về lẻ loi thầm lặng đến nỗi một khuôn mặt quen thuộc của cộng đồng người Việt quốc gia ở Paris là cựu Trung Tướng Trần Văn Trung vẫn nghĩ là Bà Nhu sống ở bên Ư.
Trên đường đến thăm Bà Nhu, tôi vẽ ra trong đầu óc qua h́nh ảnh của những chung cư đắt tiền ở New York hay San Francisco đă xem trên những tạp chí chuyên về địa ốc ở Mỹ và nghĩ là nơi cư ngụ của Bà Nhu chắc phải sang trọng lắm. Những apartment của Jacqueline Kennedy hay John Lennon ở New York và của các tay tài phiệt ở San Francisco gợi cho tôi một náo nức mong chờ.
Các cụ ḿnh ngày xưa vẫn nói “ăn cơmTàu, ở nhà Tây” th́ chắc là đă có một so sánh cẩn trọng. Tôi bước đi vội vàng với những lung linh nơi lănh địa của giới thượng lưu. Những ḍng họ quư tộc từ bao nhiêu đời cấu trúc nên vẻ hào nhoáng phong nhă của kinh thành Ánh Sáng và dân cư ngụ dù ở chân trời góc biển nào lưu lạc tới đây cũng được nhận lănh ấn tích của người Paris.
Chiếc thang máy nhỏ hẹp vừa đủ chỗ đứng cho một ông Mỹ quá khổ đưa tôi lên tầng 11 của ṭa nhà cao tầng. Bà Nhu mở cửa đón khách trong chiếc áo kimono Nhật mầu xanh nước biển, khuôn mặt trang điểm kỹ lưỡng với giọng nói đặc Huế không vồn vă mà cũng chẳng quá lạnh nhạt. Bà Nhu sắp vào tuổi 80 nhưng rất khỏe mạnh. Bà đi đứng nhanh nhẹn, lưng thẳng, đôi mắt to và sáng. Có người nói từ năm 1963 đến nay, Bà chẳng già đi chút nào. Thật ra đó chỉ là một lối nói để diễn tả sức khoẻ sung măn của một người tuy đă nhiều tuổi đời nhưng vẫn giữ được vóc dáng linh hoạt và nét mặt không có những nếp nhăn theo thời gian. Tuy nhiên “cái già” cũng vất vưởng đâu đó trên khoé mắt vành môi. Khi Bà cười th́ khuôn mặt trông rất tươi trẻ phô bầy bộ răng trắng vẫn c̣n đầy đủ trong t́nh trạng hoàn hảo.
Chỗ ở của Bà Nhu tuy không nghèo nàn nhưng chẳng có ǵ đáng nói, ngay cả không bằng cái apartment mà tôi thuê mướn ở ngoại ô thành phố Seattle vào mùa Đông năm 1975 khi vừa đến Mỹ. Đơn vị gia cư của Bà Nhu rất b́nh thường giống như những apartment rẻ tiền ở Mỹ với hai pḥng ngủ và một diện tích nhỏ làm pḥng khách. Phía tay trái lối đi từ cửa ra vào là nhà bếp. Trên tường pḥng khách treo vài khung h́nh lớn có những tấm h́nh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Đức Cha Ngô Đ́nh Thục, Ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu, cô trưởng nữ Ngô Đ́nh Lệ Thủy và nhiều người thân tộc đă quá văng.
Khoảng trống phía bên tay phải là pḥng khách có một bộ xa lông, bên cạnh kê bàn ăn với 6 cái ghế. Bộ bàn ghế này và vài cái tủ nhỏ kê ngoài pḥng khách làm bằng gỗ gụ mầu đen với những nét chạm trổ VN quen thuộc. Bà Nhu cho biết trước kia thân sinh là Ông Bà Trần Văn Chương có một apartment ở Paris và những đồ đạc này được mang từ VN qua, lâu lắm rồi.
Khi hai cụ thân sinh bán cái apartment đi th́ cho Bà Nhu bộ bàn ăn và hai cái tủ nhỏ này. Tôi đă đọc mấy bài báo nói về khiếu thảm mỹ của Bà Nhu qua việc sắp xếp và trang hoàng Dinh Độc Lập. Giờ này được đứng ngay giữa cơ ngơi của riêng Bà mà chẳng thấy một “công tŕnh” nào xem cho bắt mắt, có thể v́ điều kiện tài chánh hay thời trưng diện của Bà đă qua.
Đứng ở nhà bếp nh́n ra ngoài có cảm tưởng như tháp Effeil sát ngay bên cạnh khung cửa kính. Tôi tiếc thầm, phải như pḥng khách mà được xếp đặt ở chỗ này th́ đẹp biết bao. Ngồi đây nhâm nhi ly cà phê nh́n thiên hạ từ khắp nơi trên thế giới đổ xô đến chân tháp chờ lên thang máy nh́n cả kinh thành Paris. Ngày như đêm lúc nào cũng là hội hè đ́nh đám. “Vui với cái vui của thiên hạ” chắc ḷng ḿnh cũng phần nào đỡ trống trảị.
Có lẽ cũng v́ vậy mà pḥng ngủ bên cạnh nhà bếp có kê một bộ xa lông để bù đắp lại sự thiếu sót to lớn của người thiết kế khu chung cự. Pḥng ngủ thứ hai là chỗ làm việc của Bà Nhu với đủ loại sách báọ. Cả đơn vị gia cư của một người sống lẻ loi một ḿnh không có một cái giường nhỏ. Buổi tối Bà Nhu trải một cái chăn trên nền nhà, ở một chỗ nào đó trong căn hộ nhỏ hẹp để nghỉ qua đêm. Bà không ngủ trên giường nệm nên mặc dầu đă lớn tuổi mà vẫn giữ được lưng thẳng và đi đứng nhanh nhẹn mạnh dạn.
Bà Nhu mời tôi ngồi trên một cái ghế ngay đầu bàn ăn cạnh khu pḥng khách. Bà ngồi ghế đối diện, chân trái gác lên một chiếc ghế thấp hơn. Bà nói kỳ này khí hậu thay đổi bất thường nên cái chân hơi bị đau v́ vết thương ngày trước. Bà Nhu bị gẫy chân trái trong vụ hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh Độc Lập vào ngày 27 tháng 2 năm 1962. Sau này bà đang đi bộ th́ trượt chân ngă và cũng cái chân trái này bị gẫy lần thứ hai. Mặc đầu Bà không gặp khó khăn ǵ khi đi đứng nhưng đôi khi cũng thấy khó chịu.
Đối với tôi đây chỉ là một cuộc thăm viếng thường t́nh giữa người đồng hương nơi xứ lạ. Tôi không có ư định phỏng vấn Bà Nhu và chắc chắn Bà sẽ không được tự nhiên, thoải mái khi phải đóng khung trong những câu hỏi của một cuộc phỏng vấn. Phần khác tôi cũng không muốn khơi lại những đau thương mà Bà phải gánh chịu trong cơn băo táp lịch sử và bể oan cừu cay nghiệt của cuộc đời. Tôi muốn cuộc thăm viếng không bị g̣ bó và trói buộc vào một chủ đề, đồng thời cũng không muốn t́m ṭi những ǵ mà cá nhân tôi và rất nhiều người được nghe đủ loại chuyện tốt xấu về Bà mà chẳng biết hư thực ra sao, và từ những mù mờ đó đă có biết bao câu hỏi về một người đàn bà một thời xe ngựa thênh thang. Tôi muốn câu chuyện được tự nhiên và để Bà chủ động bất cứ những ǵ Bà muốn nói. Tôi có thể dùng những tiểu xảo của kỹ thuật phỏng vấn “gài” Bà vào những sơ hở để thỏa măn những ǵ tôi muốn biết hoặc chỉ nghe đồn thổi.
Tôi đă không làm như vậy v́ ḷng kính trọng đối vơi Bà và lương tâm ngay lành của tôi. Tôi mở đầu câu chuyện bằng mấy lời xă giao thông thường, kính chúc bà luôn được mạnh khỏe an vui. Bà bắt đầu nói về lai lịch nơi hiện cư ngụ. Rất nhiều người biết qua báo chí chuyện một người Pháp giầu có biếu Đức Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục một món tiền lớn và Đức Cha Thục đă cho Bà Nhu để mua một đơn vị gia cư trong ṭa nhà cao tầng này và sau đó Bà dành dụm mua thêm được một đơn vị nữa. Sự thật không phải như vậy. Bà Nhu trực tiếp nhận được một số tiền rất lớn từ một vị ân nhân ẩn danh.
Có tiền trong tay, Bà đă nhờ một cựu bộ trưởng thời chính phủ De Gaulle giúp mua liền một lúc hai đơn vị gia cư này. Vào những năm mà người Việt vượt biển ra đi một cách rầm rộ gần như công khai, Bà Nhu cho mấy thanh niên mới bơ vơ đến Pháp tạm trú ở đơn vị gia cư thứ hai và không lấy tiền thuê mướn hay bất cứ chi phí điện nước nào cả. Một thời gian sau những thanh niên này t́m được thân nhân hay v́ nhu cầu công việc ra đi tạo lập đời sống mới th́ Bà Nhu cho một nhà ngoại giao Nhật Bản thuê mướn cho đến ngày nay. Vị ân nhân tặng Bà Nhu số tiền kếch xù đó là Bà Capaci, một cư dân thành Milan nước Ư và cũng là một trong bẩy người phụ nữ giầu nhất thế giới. Bà Nhu chưa được một lần gặp vị ân nhân này và măi đến bốn năm sau khi Bà Capaci tạ thế, Bà Nhu mới được biết tên cũng như thanh thế và sự nghiệp của người đă gia ân cho ḿnh.
Trên bức tường ngăn pḥng khách và nhà bếp có treo tấm h́nh đen trắng ngôi nhà của Ông Bà Nhu ở Đàlạt, tôi kể cho Bà nghe chuyến đi về VN nhân dịp Tết Tân Tỵ, lần đầu tiên sau 26 năm vội vă ra đi lánh nạn. Tôi đă đi ĐàLạt, ghé lại thăm ngôi nhà xưa của thời trung học, bước qua đường đứng nh́n nhà Ông Bà Nhu một lúc lâu. Ngôi nhà của Ông Bà Nhu hiện không có người ở nhưng được bảo quản khá tốt, không thấy những đổ vở hoang tàn v́ thời gian hay qua những biến động. Hiện nay Bà Nhu không có ư định về thăm VN mặc dầu Bà được nhà cầm quyền Hà Nội đánh tiếng cho biết là nếu Bà muốn về th́ cũng chẳng có trở ngại ǵ.
Những kỷ niệm về một nơi chốn thân thương xa xưa gợi lại miền kư ức dấu ái, Bà nói “Tôi gặp Ông Cố Vấn năm 16 tuổi, đến năm 18 tuổi th́ làm đám cưới”. Bà có vẻ buồn khi nói đến ngôi nhà ở Đà Lạt. Một vùng trời mộng mơ với những kỷ niệm của ngày tháng êm đềm nơi sứ sương mù vẫn c̣n vương vất đâu đây. Khi nói về những người con th́ Bà Nhu có vẻ bằng ḷng với chút hănh diện.
Tôi cố t́nh không hỏi ǵ về trưởng nữ Ngô Đ́nh Lệ Thủy đă bị chết thảm trong một tai nạn xe cộ trên xa lộ ṿng đai của Paris. Rất có thể đây là một âm mưu quốc tế c̣n nhiều nghi vấn chưa được sáng tỏ và tôi cũng không muốn khơi lại những kỷ niệm đau buồn để rồi những giọt nước mắt của bà mẹ lại một lần nữa ướt đẫm trên khuôn mặt đă có quá nhiều khỗ đau.
Ông con trai lớn Ngô Đ́nh Trác tốt nghiệp kỹ sư canh nông, năm nay cũng đă 55 tuổi, lấy vợ người Ư và có bốn con, ba trai một gái. Bà Nhu nói về những đứa cháu nội, con trai của Ông Trác, trong niềm vui “cao một mét tám, to lớn và đẹp trai lắm”. Vợ ông Trác thuộc gịng dơi quư tộc rất giầu có. Ông Trác rất đam mê công việc trồng trọt chăn nuôi và đă chế tạo được nhiều dụng cụ nông cơ thích hợp cho việc canh tác những thửa đất nhỏ. Gia đ́nh Ông Trác sỡ hữu một biệt thự to và rất đẹp trong nội thành La Mă. Ngôi biệt thự này có cách cấu trúc và đáng dấp như một tu viện. Bà Nhu đă ở đấy nhiều năm, nên rất nhiều người lầm tưởng rằng Bà đă tá túc ở một tu viện Công giáo trong khoảng thời gian dài.
Người con trai thứ hai là Ngô Đ́nh Quỳnh cũng đă trên 50 tuổi, tốt nghiệp trường E.S.E.C. (École Suprrieure de l’Econmie et du Commerce) chứ không phải trường H.E.C. (Hautes Etudes Commerciales) như rất nhiều báo chí và sách vở đă sai lầm. E.S.E.C. là trường tư đào tạo các chuyên gia kinh tế và tài chánh cao cấp, có học tŕnh gay gắt và học phí rất cao. Sinh viên được nhận vào học trường này phải vượt qua những cuộc thi cử cam go và sau khi tốt nghiệp được các cơ quan kinh tế và tài chánh trên toàn thế giới trọng vọng . Khi Ngô Đ́nh Quỳnh hoc trường này Bà Nhu đă không đủ khả năng trả học phí nên phải làm giấy xin nợ tiền học. Hiện ông Quỳnh làm đại diện thương mại cho một số công ty Hoa Kỳ ở Bruxelles, thủ đô nước Bỉ. Ông Quỳnh không lập gia đ́nh.
Bà Nhu cười nói “Ông Quỳnh giống Bác”, hàm ư sống độc thân như Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Đang lúc tôi nói chuyện với bà Nhu th́ một thiếu nữ người Pháp gơ cửa bước vào với một xấp h́nh trên tay. Cô bé 17 tuổi này vừa trở về sau chuyến đi làm công việc thiện nguyện giúp các thanh nữ Phi Luật Tân bị bệnh AIDS. Tất cả chi phí cho chuyến đi của cô bé này do ông Ngô Đ́nh Quỳnh đài thọ. Cô bé có những lọn tóc mầu hạt dẻ khoe những tấm h́nh chụp chung với các nạn nhân của căn bệnh thời đại và ước mong sẽ được trở lại thủ đô của nước Phi Luật Tân để tiếp tục công viêc bác ái. Bà Nhu nói ông Quỳnh sống đạm bạc và rất tích cực trong những hoạt động từ thiện, nên ước vọng của cô bé chẳng phải là một giấc mơ.
Cô con gái út Ngô Đ́nh Lệ Quyên có bằng tiến sĩ Luật từ trường đại học Roma. Lệ Quyên là một luật gia ngành Công Pháp rất nổi tiếng, nhưng chỉ được mời thỉnh giảng và tham luận ở phân hoa Luật của đại học Roma mà thôi. Lư do đơn giản là Lệ Quyên không chịu vào quốc tịch Ư. Luật lệ nước Ư không cho phép những người không có quốc tịch được quyền giảng dậy một cách chính thức trong học tŕnh. Lệ Quyên thường xuyên được mời dự các hội nghị quốc tế và có nhiều bài tham luận xuất sắc làm sửng sốt các “cây đại thụ” của ngành công pháp thế giới. Lệ Quyên có chồng là người Ư, nhưng đứa con trai 7 tuổi lại chính thức mang họ mẹ trên giấy tờ hộ tịch. Bà Nhu hănh diện nói tên cháu bé là Ngô Đ́nh Sơn, một tự hào ḍng họ hay là sự ǵn giữ gốc rễ gia tộc.
Mỗi buổi sáng sớm, bất kể thời tiết, Bà Nhu đều “xuống đường” đi bộ chừng độ 10 phút đến nhà thờ Saint Léon dâng thánh lễ hằng ngày. Cũng tại ngôi thánh đường này, lần đầu tiên vào tuần lễ đầu tháng 11 năm 2001, Bà Nhu tổ chức lễ tưởng niệm Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Thông thường sau thánh lễ Bà ở lại giúp dọn dẹp nhà thờ và xếp đặt trưng bày hoa nến. Ngày chủ nhật Bà phụ trách dậy lớp thánh kinh cho các trẻ nhỏ.
Bà gia nhập đạo Công giáo khi lập gia đ́nh, nhưng lúc thiếu thời được giáo dục trong các trường Công giáo, nên có thể nói là Bà đă lớn lên và trưởng thành trong tín lư của đạo Chúa. Trong câu chuyện, Bà Nhu nhiều lần biểu lộ Đức Tin tuyệt đối nơi sự an bài của Đấng Tối Cao. Khi nghe tôi nói có thân nhân đang bị bệnh và rất muốn trở về Mỹ sớm hơn, Bà Nhu đi vào pḥng làm việc lấy cho tôi một tượng ảnh Đức Mẹ Maria đúc bằng kẽm to hơn đồng một xu Mỹ kim. Bà nói mang tượng ảnh về cho bệnh nhân th́ Đức Mẹ sẽ cứu giúp và chữa khỏi. Tôi nghĩ là v́ có Đức Tin mạnh mẽ như vậy nên Bà đă vượt qua được bao cơn sóng gió ba đào mà sống mạnh khỏe đến ngày nay.
Trên đường từ nhà thờ về Bà Nhu cũng thỉnh thoảng ghé lại tiệm bán hoa và cây cảnh, mua vài bông hoa hay một chậu cảnh trang hoàng trong nhà. Ít khi Bà phải nấu nướng v́ ăn rất ít và những bà bạn người Pháp thường mang đồ ăn đến cho, nên cũng chẳng bận rộn ǵ việc bếp núc. Trước kia tôi nghe có người nói Bà Nhu chỉ ăn qua loa, hai ba lần một tuần. Tôi nghĩ là nếu ăn uống như vậy th́ làm sao mà… thở được. Bây giờ tôi nghe chính Bà Nhu nói “hai ngày nay tôi chưa ăn ǵ cả, v́ tôi không ăn nên không có bệnh”. Các vị tu sĩ Ấn Độ giáo rất ít khi ăn uống nhưng người nào cũng mạnh khỏe và sống lâu trăm tuổi. Ở các nước Âu Mỹ đa phần người ta chết v́ ăn chứ có ai chết v́ đói.
Bà Nhu hầu như không đi sắm sửa quần áo giầy dép. Mỗi năm một bà bạn người Nhật gởi qua cho vài cái áo kimono đủ mặc trong nhà, có việc đi đâu th́ mặc mấy cái quần áo cũ cũng c̣n tạm được. Nói đến quần áo, Bà có vẻ đăm chiêu “ở Sàig̣n nóng quá nên tôi mặc áo dài hở cổ, Tổng Thống không bằng ḷng”. Chiếc áo dài hở cổ được đặt tên là”kiểu áo Bà Nhu” đă một thời là “mốt” của các thiếu nữ Sài G̣n và cũng là một đề tài xôn xao của những người vô công rồi nghề.
Bà kể chuyện trước kia phải đại diện chính phủ tiếp đón phu nhân các vị quốc khách, mà chẳng có đến một món trang sức nên thấy thiếu sót. Nhân có bà vợ một ông bộ trưởng muốn bán mấy món đồ trang sức làm bằng đá đỏ (ruby), Bà Nhu có tŕnh và xin Tổng Thống số tiền sáu ngàn đồng bạc VN để mua lại. Tổng Thống nghe lời giăi bầy cũng hợp lư nhưng yêu cầu người bán phải viết một tờ giấy biên nhận, với đầy đủ lai lịch của những món đồ trang sức này. Bà Nhu nói đó là lần duy nhất Tổng Thống cho tiền và cũng chẳng c̣n nhớ những đồ trang sức đó bây giờ thất lạc nơi đâu.
Trong lúc nói chuyện, thỉnh thoảng Bà Nhu cũng đề cập đến những diễn biến chính trị, kinh tế và xă hội toàn cầu. Bà có những phân tích, lượng giá vấn đề một cách chi tiết và hợp lư đồng thời đưa ra những kết luận làm người nghe dễ dàng bị thuyết phục. Điều này chứng tỏ tuy sống khép ḿnh trong một căn pḥng nhỏ bé nhưng Bà vẫn theo dơi thời cuộc một cách cẩn thận. Bà vẫn c̣n giữ những liên lạc cần thiết với giới ngoại giao quốc tế trong một giới hạn cẩn trọng.
Nhớ lại Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới năm xưa, Bà nắm hai tay trước mắt nh́n lên trần nhà nói bằng tiếng Pháp “phụ nữ phải được giải phóng, phụ nữ phải được tôn trọng”. Giấc mơ của Bà là người phụ nữ phải có chỗ đứng và tiếng nói trong xă hội. Ước vọng của Bà là người phụ nữ phải có những cơ hội thuận tiện để thăng tiến trong mọi lănh vực của đời sống. Tiếng nói của Bà rơ ràng, chắc nịch, lên xuống với những cảm xúc làm người nghe rất dễ bị lôi cuốn rồi nhiệt t́nh ủng hộ.
Trong cả một buổi chiều, lúc nói chuyện này và đột nhiên nói sang chuyện khác nhưng Bà không hề đả động ǵ đến nước Mỹ mặc dầu Bà biết tôi đến từ một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước Mỹ. Nhiều người nói Bà Nhu căm thù Mỹ lắm, v́ những sai lầm trong chính sách đối với VN và nhất là đối với Đệ Nhất Cộng Ḥa VN. Vào những ngày tháng cuối năm 1963, cả thế giới đă kinh ngạc nghe và nh́n Bà Nhu mạt sát nước Mỹ và những nhà lănh đạo của siêu cường này ở tại một địa điểm chỉ cách Ṭa Bạch Ốc một quăng đường.
Tôi nghĩ là Bà đă không c̣n mang những “hận thù” đó trong tim óc nữa và thực sự muốn quên hết để mọi chuyện nhẹ nhàng đi vào lịch sử. Bà kể chuyện vào mùa Xuân năm 1975, hệ thống truyền thanh NBC của Mỹ có xin phỏng vấn trong 30 phút. Lư do Bà chấp nhận lời yêu cầu của NBC và đ̣i mười ngàn (10,000) Mỹ kim thù lao cộng với hai vé máy bay khứ hồi hạng nhất Paris – Washington DC, v́ lúc đó Lệ Quyên rất nhớ và muốn đi gặp ông bà ngoại. Bà Nhu không có tiền trang trải cho chuyến đi, nhưng v́ thương con nên bằng ḷng trả lời cuộc phỏng vấn để có tiền đưa con gái đi gặp Ông Bà Trần Văn Chương ở thủ đô của nước Mỹ.
Đối với một tổ hợp truyền thông to lớn như NBC th́ những điều kiện đó thật quá nhỏ bé và họ đă vội vàng thực hiện cuộc phỏng vấn. Đó là lần duy nhất Bà đi Mỹ và cũng là lần duy nhất Bà tiếp xúc với giới truyền thông quốc tế sau năm 1963. Ngoài ra, Bà chưa từng gặp gỡ hoặc tiếp xúc với báo giới Việt ngữ dưới bất cứ h́nh thức nào.
Trong quá khứ, đă có vài tờ bào ở Đức quốc và California đăng tải bài phỏng vấn Bà Ngô Đ́nh Nhu. Tất cả những bài “phỏng vấn” đó đều là những ngụy tạo mà độc giả rất dễ dàng nhận ra tính chất giả dối và bịa đặt của người viết.
Bà Nhu cũng không nói ǵ về vụ phản loạn 1.11.1963 và những người được ngoại bang thuê mướn sát hại chồng Bà. Tôi có nói xa gần đến đám quân nhân phản loạn để ḍ xét phản ứng của Bà, nhưng không trông chờ ở một sự tức giận thường t́nh của một con người, v́ thời gian đến gần 40 năm cũng đă làm nguôi ngoai cơn thịnh nộ. Bà có vẻ buồn, nh́n qua khung cửa sổ nói một cách nhỏ nhẹ bằng tiếng Anh “đó là một bọn ngu dốt”.
Đồng hồ chỉ tám giờ rưỡi tối. Những ngọn đèn của Paris kết nối làm thành một biển ánh sáng và thành phố đă bắt đầu đi vào cuộc sống ban đêm. Hơn sáu giờ đồng hồ ngồi nói chuyện, tôi đă uống hết hai ly nước bưởi to nhưng tuyệt nhiên không thấy Bà Nhu uống một chút nước nào. Tôi sợ ngồi lâu quá Bà sẽ mệt mỏi, nhưng thực sự th́ chính tôi là người đă thấm mệt. Bà Như không tỏ ra mệt mỏi, hay có một dấu hiệu nào biểu hiện sự ră rời sau một buổi chiều dài chuyện tṛ. Trước khi tôi xin cáo từ Bà Nhu có nói đến cuốn sách của Bà. Theo chỗ tôi được biết th́ cuốn sách này sẽ được phát hành cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới bằng bốn thứ ngôn ngữ: VN, Anh, Pháp và Ư. Bà viết bằng tiếng Pháp và tự dịch sang tiếng Anh và Ư. Bản dịch tiếng Việt đang trong giai đoạn nửa chừng.
Cũng v́ vậy mà tôi hạn chế bài viết này trong một kích thước vừa đủ, những ǵ độc giả muốn biết, hay những ǵ gọi là “bí mật lịch sử” sẽ rất có thể được nói đến hoặc phân giải trong cuốn sách mà rất nhiều người chờ đợi. Tôi chợt nghĩ đến “ông tướng phường chèo” Nguyễn Khánh. Ông này đi đến đâu cũng cầm cuốn vở học tṛ huyênh hoang có nhật kư của Bà Nhu trong tay.
Tôi nghĩ rất có thể Ông này lượm được cuốn vở Bà Nhu ghi chép những chuyện vụn vặt của một người nội trợ trong gia đ́nh như hôm nay đi chợ cần phải mua những món ǵ, đến bao giờ th́ phải đóng tiền trường cho con… Ngoài ra chẳng có ǵ đáng nói tới hay có một giá trị ǵ cả. Tôi cũng không hiểu được lư do tại sao khi bị đuổi ra khỏi nước mà đương sự c̣n ôm theo “báu vật” đó để làm ǵ. Đặt trường hợp “báu vật” đó mang lại danh vọng và lợi lộc hoặc là một thứ vũ khí để để mạt sát nhục mạ Bà Nhu th́ chắc chắn độc giả đă được đọc từ lâu rồi.
Tôi bước ra chỗ thang máy để xuống phố lang thang với người Paris, mà trong ḷng xôn xao niềm vui, v́ không ngờ một “bà cụ” gần 80 tuổi đă vật vă với bao sóng gió phũ phàng của cuộc đời mà lại c̣n có một sức khoẻ thật sung măn, trí óc minh mẫn đến như thế. Ở vào tuổi đời như vậy mà c̣n giữ được thể chất và tinh thần trong một t́nh trạng gần như lư tưởng th́ thật là hiếm có.
Bà Nhu đă thực sự lánh xa những tục lụy phù phiếm của trần gian. Bà sống trong hơi thở nhịp tim của đời sống tận hiến và phó dâng với niềm cậy trong tuyệt đối với sự quan pḥng của Đấng Tạo Hóa.
Tôi cầu chúc Bà luôn mạnh khỏe, an vui.
Tác giả: Trương Phú Thứ
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.