Không phải các biện pháp trừng phạt hay những đợt vận chuyển vũ khí, câu trả lời duy nhất cho cuộc chiến ở Ukraine chính là một thỏa thuận ḥa b́nh.
Áp đặt những biện pháp trừng phạt cứng rắn chưa từng có lên Nga, đồng thời hỗ trợ quân sự cho Ukraine bằng những vũ khí hiện đại song Mỹ và phương Tây vẫn không thể khiến chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine dừng lại. Nhà quan sát Jeffrey Sachs cho rằng điều cần nhất lúc này là một thỏa thuận ḥa b́nh và đó là khả năng trong tầm tay. Tuy nhiên, để đạt được một thỏa thuận, Mỹ sẽ phải đưa ra những nhượng bộ về NATO - điều mà cho tới nay Washington vẫn bác bỏ.Tổng thống Putin đă tiến hành chiến dịch quân sự ở Ukraine và đưa ra cho phương Tây một danh sách các yêu cầu, trong đó, đáng chú ư nhất là việc dừng mở rộng NATO. Mỹ chỉ rơ nước này không sẵn sàng đáp ứng yêu cầu trên. Dù vậy, theo nhà quan sát Jeffrey Sachs, hiện nay là thời điểm phù hợp để Mỹ xem xét lại chính sách mở rộng NATO. Trong khi đó, ông cũng cho rằng Tổng thống Putin cũng sẽ phải sẵn sàng nhượng bộ một số điểm để đàm phán thành công.
Ông Jeffrey Sachs cho rằng, hướng tiếp cận viện trợ và trừng phạt kinh tế của Mỹ nghe có vẻ thuyết phục được dư luận Mỹ nhưng lại không thực sự hiệu quả trên toàn cầu. Chiến lược này hầu như nhận được rất ít sự ủng hộ bên ngoài nước Mỹ cũng như châu Âu và thậm chí có thể đối mặt với phản ứng dữ dội từ chính bên trong Mỹ và châu Âu.Các quốc gia đang phát triển đă từ chối tham gia vào chiến lược cô lập Nga của phương Tây mà gần đây nhất là trong cuộc bỏ phiếu do Mỹ dẫn đầu nhằm loại Nga khỏi Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc.
Trừng phạt không phải cách chấm dứt chiến tranh
Các lệnh trừng phạt là một phần quan trọng trong chiến lược của Mỹ. Tuy nhiên, chúng không những không thể khiến cuộc chiến ở Ukraine chấm dứt mà c̣n khiến cả thế giới bị ảnh hưởng. Có vô số vấn đề với các lệnh trừng phạt kinh tế áp đặt lên Nga hiện nay.
Đầu tiên là thậm chí cả khi những biện pháp trừng phạt trên gây ra những sức ép kinh tế cho Nga th́ chúng vẫn không thể thay đổi các chính sách của Nga. Trước đó, đối với những lệnh trừng phạt kinh tế nặng nề mà Mỹ áp lên Venezuela, Iran và Triều Tiên, mặc chúng đă làm suy yếu nền kinh tế của những nước này nhưng không thay đổi được chế độ chính trị hay chính sách của họ như Mỹ mong muốn.Vấn đề thứ hai là các lệnh trừng phạt chỉ phát huy hiệu quả trong những giao dịch bằng đồng USD liên quan đến hệ thống ngân hàng Mỹ. Các quốc gia t́m cách "lách" khỏi lệnh trừng phạt sẽ t́m kiếm những cách thức khác nhau để giao dịch qua những phương tiện không bằng đồng USD và không qua những ngân hàng này. Số lượng giao dịch với Nga bằng đống rúp, rupee, nhân dân tệ và các đồng tiền khác không phải đồng USD sẽ gia tăng.
Vấn đề thứ ba là hầu hết các quốc gia trên thế giới không tin tưởng vào mức độ hiệu quả của các lệnh trừng phạt, cũng như không chọn bên trong cuộc chiến giữa Nga và Ukraine. Nếu cộng tất cả những quốc gia và khu vực áp lệnh trừng phạt lên Nga gồm Mỹ, Anh, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Singapore, Australia, New Zealand và một vài quốc gia khác th́ số này chỉ chiếm khoảng 14% dân số thế giới.
Vấn đề thứ tư là “’Hiệu ứng boomerang” của các lệnh trừng phạt. Việc áp lệnh trừng phạt lên Nga không chỉ làm tổn hại riêng Moscow mà c̣n ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế thế giới, làm gián đoạn chuỗi cung ứng, lạm phát và thiếu lương thực. Đó là lư do tại sao nhiều nước châu Âu vẫn tiếp tục nhập khẩu dầu mỏ và khí đốt từ Nga, cũng như việc Hungary và có lẽ là một số quốc gia khác sẽ nhất trí thanh toán với Nga bằng đồng rúp. Hiệu ứng ngược của các lệnh trừng phạt cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến đảng Dân chủ Mỹ trong cuộc bầu cử giữa kỳ vào tháng 11 khi lạm phát khiến các cử tri thay đổi lá phiếu của ḿnh.
Vấn đề thứ năm của các lệnh trừng phạt liên quan đến nhu cầu năng lượng và lương thực của Nga. Sản lượng xuất khẩu của Nga có thể sẽ giảm nhưng giá cả các mặt hàng này trên thế giới lại tăng. Do đó, lượng xuất khẩu của Nga có thể thấp hơn nhưng doanh thu từ xuất khẩu vẫn gần như bằng hoặc thậm chí cao hơn trước đây.
Vấn đề thứ sáu của các lệnh trừng phạt liên quan đến địa chính trị. Các quốc gia khác, đáng chú ư nhất là Trung Quốc, coi cuộc chiến Nga - Ukraine ở một mức độ nào đó là cuộc chiến của Nga nhằm chống lại sự mở rộng của NATO sang Ukraine.
Mỹ khẳng định NATO là một liên minh pḥng thủ nhưng Nga, Trung Quốc và một số quốc gia khác lại không cho là như vậy. Các nhà lănh đạo Nga đă phản đối việc NATO mở rộng về phía Đông kể từ khi quá tŕnh này bắt đầu vào giữa những năm 1990 với việc Cộng ḥa Séc, Hungary và Ba Lan gia nhập liên minh. Tổng thống Putin cũng đă kêu gọi NATO dừng mở rộng sang Ukraine nhưng Tổng thống Biden đă từ chối đàm phán với Nga về vấn đề này.
Tóm lại, nhiều quốc gia, trong đó chắc chắn bao gồm Trung Quốc, không ủng hộ sức ép toàn cầu lên Nga, vốn có thể dẫn tới sự mở rộng NATO. Phần c̣n lại của thế giới muốn ḥa b́nh chứ không phải một chiến thắng của Mỹ hay NATO trong cuộc chiến ủy nhiệm với Nga.
|