Top 10 kỷ lục thú vị của các vua chúa phong kiến Việt Nam. Nhiều vị vua đă lên ngôi trong các triều đại phong kiến tại Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử. Mỗi vua đều có những câu chuyện riêng và những kỷ lục “vô tiền khoáng hậu”.
Thời gian trị v́ lâu nhất
Vua Lư Nhân Tông là con trai trưởng của Lư Thánh Tông, lên ngôi khi mới 7 tuổi. Thời gian trị v́ của ông là 56 năm (1072 – 1127).
Ông được thái hậu Ỷ Lan, thái sư Lư Đạo Thành và thái úy Lư Thường Kiệt giúp đỡ trong việc triều chính, nhờ đó mà Đại Việt ngày càng vững mạnh. Ông khuyến khích giáo dục, thi cử theo Nho giáo, là người mở khoa thi đầu tiên của nước ta (1072) và xây dựng Quốc tử giám (1076). Mặc dù trị v́ nhiều năm và có nhiều cung phi nhưng Lư Nhân Tông không có con trai nối dơi. Ông chọn một người cháu gọi bằng bác là Lư Dương Hoán làm thái tử, sau khi ông mất Dương Hoán lên ngôi lấy hiệu là Lư Thần Tông.
Độ tuổi lên ngôi trẻ nhất
Vua Lê Nhân Tông (1441 – 1459) là vị vua thứ ba của nhà Hậu Lê. Ông lên ngôi lúc 1 tuổi và trị v́ trong 17 năm từ 1442 – 1459. Tuyên Từ hoàng thái hậu là người đă nhiếp chính cho vua Lê Nhân Tông từ khi ông lên ngôi cho đến khi vua tự nhiếp chính năm 1452. Vua Lê Nhân Tông là vị vua nhân từ và sáng suốt từ khi c̣n nhỏ tuổi. Tuy vậy ông lại mất sớm năm 1459 do bị Lê Nghi Dân ám sát.
Vị vua trường thọ nhất
Bảo Đại là vị vua thứ 13 và cũng là cuối cùng của triều đại phong kiến nhà Nguyễn. Ông đồng thời cũng là Hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Sau thời gian dài lưu vong và sống ở Pháp Bảo Đại qua đời ngày 31/7/1997 tại Quân y viện Val – de – Grace, hưởng thọ 85 tuổi.
Vị vua yểu mệnh nhất
Lê Gia Tông là hoàng đế thứ 8 của nhà Lê Trung Hưng. Ông lên ngôi ngày 19/11/1671 khi mới 10 tuổi. Lê Gia Tông khi lên ngôi được miêu tả là người có diện mạo khôi ngô, thân h́nh vạm vỡ, là một vị vua độ lượng. Tuy vậy sau khi khi trị v́ được 4 năm th́ Lê Gia Tông mất sớm ở tuổi 15.
Vị vua có nhiều niên hiệu nhất
Lư Nhân Tông cũng là ông vua có nhiều niên hiệu dài nhất, trong số 8 niên hiệu của ông th́ có đến 5 niên hiệu gồm 4 chữ, đó là: Anh Vũ Chiêu Thắng (1076 – 1084), Long Phù Nguyên Hóa (1101 – 1109), Hội Tường Đại Khánh (1110 – 1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120 – 1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127).
Nữ hoàng duy nhất
Lư Chiêu Hoàng lên ngôi trong bối cảnh nhà nước rối ren, bà là vị hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của triều đại nhà Lư. Lên ngôi được một năm th́ Lư Chiêu Hoàng bị Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Thái Tông.
Vị vua lập nhiều hoàng hậu nhất
Lư Thái Tổ là nhà vua sáng lập nhà Lư, trị v́ từ 1009 đến khi qua đời năm 1028. Ông lập đến 9 hoàng hậu, 6 người lập năm 1010, 3 người lập năm 1016.
Vua có nhiều con làm vua nhất
Vua Trần Minh Tông và Lê Thần Tông đều có 4 người con làm vua.
– Trần Minh Tông là cha của Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông.
– Lê Thần Tông là cha của Lê Duy Hựu (Chân Tông), Lê Duy Vũ (Huyền Tông), Lê Duy Cối, (Gia Tông) và Lê Duy Hợp (Hy Tông).
Vị vua mở đất mạnh nhất, rộng nhất
Thời vua Minh Mạng, đất nước ta được mở rộng từ Bắc chí Nam. Năm 1832 cả nước có 30 tỉnh gồm:
– Bắc Kỳ (từ này đặt ra từ năm 1834) có 13 tỉnh: Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hóa Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Ninh B́nh, Thái Nguyên.
– Trung Kỳ (từ này đặt ra từ năm 1834) có 12 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa, B́nh Thuận.
– Nam Kỳ (từ này đặt ra từ năm 1834) có 06 tỉnh: Phiên An (năm 1836 đổi tên thành Gia Định), Biên Ḥa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Vị vua có nhiều bài thơ, văn nhất
Tự Đức có hơn 300 bài thơ, văn. Tự Đức là ông vua đề cao Nho học. Ông cũng rất ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Đêm nào ông cũng xem sách đến khuya. Ông làm nhiều thơ bằng chữ Hán, trong đó có bộ Ngự Chế Việt sử tổng vịnh, vịnh hàng trăm nhân vật trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, ông c̣n làm cả sách bằng chữ Nôm để dạy cho dân dễ hiểu, điển h́nh như Luận Ngữ diễn ca, Thập điều, Tự học diễn ca…
Có rất nhiều giai thoại về Tự Đức, nhất là những chuyện vua giao thiệp với nhà văn, học giả đương thời. Nhà vua rất thích lịch sử, đă đặt Tập Hiền Viên và Khai Kinh Diên để ông ngự ra cùng với các quan bàn sách vở, thơ phú hoặc nói chuyện chính trị. Ông c̣n chỉ đạo cho Quốc sử quán soạn bộ sử lớn Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, từ đời thượng cổ cho tới hết thời nhà Hậu Lê, trong đó ông tự phê nhiều lời b́nh luận.
Tự Đức cũng rất yêu nghệ thuật, đă tập trung nhiều người soạn kịch bản tuồng về kinh thành Huế, và lệnh cho soạn những vở tuồng lớn Vạn bửu tŕnh tường, Quần phương hiến thụy.
VietBF@ sưu tập
|
|