Trải qua hơn 500 năm lịch sử, dân tộc Kinh tại Trung Quốc vẫn giữ những nét văn hóa truyền thống, dùng tiếng Việt làm phương tiện giao tiếp hằng ngày.
"Dân tộc duy nhất ở Trung Quốc nói tiếng Việt, ăn nước mắm, đánh đàn bầu". Nội dung cụ thể:
"Yêu nhau cởi áo ối à trao nhau. Về nhà dối rằng cha dối mẹ a à a á a qua cầu, t́nh t́nh t́nh gió bay" - giọng hát ḥa vào tiếng gảy đàn bầu cổ khiến chúng tôi không khỏi xúc động khi được nghe ở bên kia biên giới nước bạn.
Thấy khách đến nhà, bà Tô Tiết - người phụ nữ thuộc bộ tộc Kinh - th́ tay bắt mặt mừng khoe: "Người Việt Nam đây này. Người Kinh qua thăm người Kinh đây này!".
Dù đă 500 năm trôi qua, trong làng chài nhỏ Vạn Vĩ (thị trấn Giang B́nh, TP Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) nhiều người bà con như bà Tô Tiết vẫn dùng lời ca, tiếng hát để giữ ǵn tiếng mẹ đẻ và văn hóa Việt Nam.
Bà Tô Tiết là một trong những người thuộc dân tộc Kinh c̣n nói sơi tiếng Việt (Ảnh: Diệp B́nh).
Bộ tộc duy nhất ở Trung Quốc nói tiếng Việt
Cách cửa khẩu Móng Cái 30 km về hướng Bắc, thành phố Đông Hưng (Trung Quốc) hiện ra với những dăy nhà cao tầng, trung tâm thương mại sầm uất. Ở đây, vùng làng chài Tam Đảo là nơi sinh sống duy nhất của bộ tộc Kinh. Và hằng ngày họ vẫn dùng tiếng Việt giao tiếp, con em được giáo dục thông qua những cuốn sách giáo khoa bằng ngôn ngữ mẹ đẻ.
Theo gia phả ghi lại, vào thế kỷ thứ 17, một bộ phận người Việt từ Đồ Sơn (Hải Pḥng) đă sang Tam Đảo (Trung Quốc) định cư và hành nghề chài biển. Thời đó chữ quốc ngữ chưa ra đời nên tất cả sổ sách, chữ viết là chữ Nôm.
Ban đầu, vùng đất này có 3 thôn là Vạn Vĩ, Mu Đầu và Sơn Tâm, chưa đầy 100 người với 12 ḍng họ: Tô, Đỗ, Nguyễn, Hoàng, Vũ, Bùi, Cao, Ngô, La, Cung, Khổng và Lương.
Dù 500 năm, nhiều cư dân ở Tam Đảo vẫn giữ ǵn những nét văn hóa của quê hương Việt Nam (Ảnh: Lê Phong).
Sau này, nhờ sự bù đắp phù sa nên 3 ḥn đảo đă hợp thành đất liền và phát triển thêm một số thôn xóm khác. Thế nhưng, cái tên Tam Đảo vẫn c̣n giữ nguyên vẹn. Đồng thời, bộ tộc có nguồn gốc Việt Nam được ghi nhận là tộc Kinh cùng 56 dân tộc khác của Trung Hoa.
Trải qua 500 năm, Tam Đảo hiện nay ước tính có gần 20.000 người gốc Việt thuộc thế hệ thứ 9-10. Mặc dù đă không c̣n mối liên hệ với gốc gác tại Việt Nam, thế nhưng họ vẫn luôn giữ ǵn bản sắc, ngôn ngữ mẹ đẻ thông qua việc sử dụng hằng ngày.
Chiếc áo dài xuất hiện tại Trung Quốc (Ảnh: Lê Phong).
Nói tiếng Việt, biết đánh đàn bầu, ăn nước mắm
Dường như bỏ mặc thời gian, làng chài Vạn Vĩ hiện ra đầy đủ những nét bản địa với cây đa, bến nước, mái đ́nh. Đặc biệt, ngay trước cổng làng, chính quyền địa phương đă cho xây dựng một bảo tàng, lưu giữ tất cả văn hóa của người Việt Nam để nhắc nhở cội nguồn cho con cháu bộ tộc Kinh.
H́nh ảnh tranh vẽ rước kiệu, áo dài, điếu cày, chum vại, vó đánh cá, truyện Thạch Sanh hay những món đặc sản nước mắm, bún, miến, đồ khô tẩm ướp gia vị… khiến chúng tôi không khỏi xúc động.
Bước vào bên trong làng, thấy chúng tôi là khách phương xa, một cụ bà ngoài 80 đặt câu hỏi: "Người Việt Nam sang hả?". Nhận sự gật đầu, cụ nở nụ cười niềm nở. Dù chưa từng nghe qua địa danh TPHCM, nhưng biết tôi là người Việt gốc, cụ vẫn rất tự hào.
Đón chúng tôi trước cửa nhà, cô Tô Tiết với giọng tiếng Việt sơi của ḿnh đă khoe ngay với gia đ́nh: "Người Việt Nam đây này. Người Kinh qua thăm người Kinh đây".
Cô Tiết chia sẻ, tổ tiên cô đă sang vùng biển này lập nghiệp được hơn 500 năm. Mặc dù từ đó chưa từng quay về Việt Nam t́m gốc gác, thế nhưng bằng việc cùng ba mẹ sử dụng tiếng Kinh nên bà đều có thể nghe và hiểu. Măi đến đời con cháu hiện tại đă sinh sống với người Hán, nói tiếng phổ thông nên việc duy tŕ trở nên khó khăn.
Thế nhưng, dường như cái cảm giác thèm tiếng Việt khiến bà cứ tay bắt mặt mừng, hỏi đủ chuyện về phía bên kia biên giới.
"Hàng xóm ở đây chủ yếu là người Kinh, từ 12 đến 17 tuổi th́ có thể nói tiếng Việt. Mặc dù đă không trở về quê hương, nhưng ai cũng có ư thức giữ nguyên văn hóa bản địa…" - bà Tiết nói.
Bên cạnh ngôn ngữ, tộc Kinh ở Trung Quốc vẫn giữ ǵn đầy đủ văn hóa lễ Tết của Việt Nam. Đặc biệt với ngư dân, ngày 6/9 hàng năm luôn là lễ hội lớn nhất để người dân cầu mưa thuận gió ḥa.
"Từ thời mẹ nằm trong đoàn văn nghệ làng, nên tôi đă tiếp xúc với đàn bầu cổ, sáo trúc, và hát các làn điệu dân tộc. Cứ vào ngày cầu Hải Long Vương tôi sẽ đảm nhiệm đàn hát. Ba đảo làm lễ ba ngày khác nhau, giúp dân làng đổ về đó chung vui và cầu may" - cô Tiết chia sẻ thêm.
Chị Nương (hướng dẫn viên du lịch tại Trung Quốc) nói: "Tam Đảo hiện nay là nơi duy nhất c̣n sử dụng tiếng Việt. Thậm chí, trên các biển báo giao thông vẫn c̣n đề chữ quốc ngữ cho người dân sử dụng.
Ở đây lâu, ḿnh đă gặp rất nhiều bà con Kinh. Họ rất tự hào dân tộc, mến khách và có ḷng tự tôn lưu, giữ văn hóa cao".
Sau đó, theo báo Chất lượng và Cuộc sống ngày 3/10/2024 cũng có bài viết với tiêu đề: "Kỳ lạ bộ tộc duy nhất Trung Quốc dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ giao tiếp, ăn nước mắm, chơi đàn bầu". Nội dung như sau:
Tộc duy nhất nói tiếng Việt ở Trung Quốc
Cách cửa khẩu Móng Cái khoảng 30km về phía Bắc, thành phố Đông Hưng (Trung Quốc) ngày càng phát triển với những dăy nhà cao tầng và các trung tâm thương mại sầm uất. Tại đây, làng chài Tam Đảo là nơi duy nhất mà bộ tộc Kinh sinh sống. Hằng ngày, họ vẫn sử dụng tiếng Việt để giao tiếp và con em được học qua những cuốn sách giáo khoa bằng ngôn ngữ mẹ đẻ.
Theo gia phả ghi lại từ thế kỷ 17, một bộ phận người Việt từ Đồ Sơn (Hải Pḥng) đă sang Tam Đảo (Trung Quốc) định cư và hành nghề đánh bắt hải sản. Thời đó, chữ quốc ngữ chưa ra đời nên mọi sổ sách, văn bản đều được ghi chép bằng chữ Nôm.
Ban đầu, khu vực này gồm ba thôn: Vạn Vĩ, Mu Đầu và Sơn Tâm với số dân chưa đến 100 người thuộc 12 ḍng họ: Tô, Đỗ, Nguyễn, Hoàng, Vũ, Bùi, Cao, Ngô, La, Cung, Khổng và Lương.
Nhờ phù sa bồi đắp, ba ḥn đảo sau này đă hợp thành đất liền và phát triển thêm nhiều thôn xóm khác, nhưng tên gọi Tam Đảo vẫn được giữ nguyên. Cộng đồng người gốc Việt này được ghi nhận là tộc Kinh, một trong 56 dân tộc của Trung Quốc.
Sau 500 năm, Tam Đảo hiện có gần 20.000 người gốc Việt thuộc thế hệ thứ 9-10. Mặc dù không c̣n mối liên hệ trực tiếp với quê hương, nhưng họ vẫn ǵn giữ bản sắc và ngôn ngữ mẹ đẻ thông qua việc sử dụng hằng ngày.
Đánh đàn bầu, ăn nước mắm như người Việt
Dường như bỏ mặc thời gian, làng chài Vạn Vĩ hiện ra đầy đủ những nét bản địa với cây đa, bến nước, mái đ́nh. Đặc biệt, ngay trước cổng làng, chính quyền địa phương đă xây dựng một bảo tàng nhằm lưu giữ toàn bộ văn hóa Việt Nam, nhắc nhở con cháu bộ tộc Kinh về cội nguồn của ḿnh.
Những h́nh ảnh như tranh vẽ rước kiệu, áo dài, điếu cày, chum vại, vó đánh cá, truyện Thạch Sanh, hay những món đặc sản như nước mắm, bún, miến, đồ khô tẩm gia vị... đă trở thành một phần không thể thiếu trong tiềm thức của mỗi người dân làng chài.
Chia sẻ với phóng viên báo Dân Trí, cô Tô Tiết cho biết, tổ tiên cô đă đến vùng biển này lập nghiệp từ hơn 500 năm trước. Dù từ đó đến nay chưa từng trở về Việt Nam t́m lại cội nguồn, nhưng nhờ việc cùng cha mẹ sử dụng tiếng Kinh, cô vẫn có thể nghe và hiểu ngôn ngữ này. Tuy nhiên, đến đời con cháu hiện tại, việc sống chung với người Hán và sử dụng tiếng phổ thông đă khiến việc duy tŕ ngôn ngữ gốc trở nên khó khăn hơn.
"Hàng xóm ở đây chủ yếu là người Kinh, từ 12 đến 17 tuổi th́ có thể nói tiếng Việt. Mặc dù không trở về quê hương, nhưng ai cũng có ư thức giữ ǵn văn hóa bản địa…" - bà Tiết nói.
Bên cạnh ngôn ngữ, người Kinh ở Trung Quốc vẫn giữ ǵn trọn vẹn văn hóa lễ Tết của Việt Nam. Đặc biệt với ngư dân, ngày 6/9 hằng năm là lễ hội lớn nhất, nơi họ cầu mong mưa thuận gió ḥa.
"Từ khi c̣n nhỏ, do mẹ tham gia đoàn văn nghệ làng, tôi đă có cơ hội tiếp xúc với đàn bầu cổ, sáo trúc và hát các làn điệu dân tộc. Vào ngày lễ cầu Hải Long Vương, tôi thường đảm nhiệm việc đàn hát. Ba đảo tổ chức lễ vào ba ngày khác nhau, tạo cơ hội để người dân từ khắp nơi đổ về chung vui và cầu may",cô Tiết chia sẻ.
Chị Nương, hướng dẫn viên du lịch tại Trung Quốc, cho biết:
"Tam Đảo hiện nay là nơi duy nhất c̣n sử dụng tiếng Việt. Thậm chí, trên các biển báo giao thông vẫn có chữ quốc ngữ để phục vụ người dân.
Trong thời gian sống ở đây, tôi đă gặp rất nhiều bà con người Kinh. Họ rất tự hào về dân tộc, mến khách và luôn có ư thức cao trong việc lưu giữ và phát huy văn hóa".
VietBf@ sưu tập