Hiện tại, trong số hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt từng là thuyền nhân trước đây, có bao nhiêu người c̣n nhớ lại hoặc đă biết được rằng, chính cựu Tổng thống Jimmy Carter đă không ngừng nỗ lực vận động, khẩn nài người dân Mỹ, và thuyết phục các chính trị gia đối lập mở rộng ṿng tay đón nhận họ vào tái định cư tại Hoa Kỳ sau khi cuộc chiến Việt Nam đă kết thúc vào ngày 30/4/1975.
Chính Tổng thống Jimmy Carter cũng là người ra lệnh tăng cho gấp đôi số thuyền nhân gốc Việt được nhập cảnh hồi tháng 6/1979, và cũng chính ông là người đă kư Đạo Luật
Refugee Act of 1980 nhằm mở rộng cửa đón người Việt vượt biên vào Mỹ.
Cựu Tổng thống Jimmy Carter trong một lần ra tranh cử hồi năm 1976. (H́nh: Central Press/Getty Images)
Quyết định cho tăng gấp đôi số thuyền nhân Việt được nhập cảnh
Tối hôm thứ Sáu, ngày 29/6/1979, Tổng thống Carter đă thông báo trước quốc dân quyết định cho tăng gấp đôi số thuyền nhân Đông Đương được nhập cảnh vào Mỹ. Đây là một phần trong thỏa thuận đạt được tại Tokyo, Nhật, với 7 quốc gia khác trong nỗ lực cứu vớt người Việt vượt biên đi t́m tự do.
Và Hoa Kỳ cũng là quốc gia đầu tiên đă ban hành lệnh thực hiện này, các quốc gia c̣n lại khác là Nhật, Canada, Anh, Pháp, Tây Đức, và Ư.
Như vậy, nước Mỹ trong mỗi tháng sẽ sẵn sàng đón rước 14,000 thuyền nhân lúc đó đang sống lây lất tại các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á.
Quyết định nhân đạo trên của Tổng thống Carter đ̣i hỏi chính phủ của ông phải t́m ra thêm nguồn tiền khoảng 150 triệu USD/năm trước mắt để cho thực hiện, vào thời điểm mà ngân sách Mỹ vốn đă phải chi ra khoảng 200 triệu USD/năm cho chương tŕnh cứu vớt thuyền nhân sẵn có.
Để có được nguồn ngân sách này, một loạt vận động khác cần phải được tiến hành để cho Quốc Hội thông qua đạo luật mới, hầu tiếp tục duy tŕ chính sách cứu voy71 thuyền nhân.
Các phần sau của bài viết sẽ đề cập đến hoàn cảnh ai đứng ra vận động, ai là người kư ban hành đạo luật này.
Cảnh thuyền nhân Việt được chiến hạm USS Durham cứu vớt. (H́nh: USNA)
Dù đang tranh cử, Carter vẫn ra sức vận động cứu giúp thuyền nhân
Trong thời điểm chỉ c̣n khoảng hơn một năm cho đến ngày bầu cử năm 1980, giữa lúc người Mỹ c̣n bận tâm đến công ăn việc làm v́ nền kinh tế Mỹ đang trong t́nh trạng suy thoái từ hậu quả của chiến tranh Việt Nam, ông Carter khi đi vận động phải liều lĩnh thuyết phục cử tri bỏ qua mọi nỗi lo lắng để bày tỏ ḷng nhân từ đón nhận các thuyền nhân Việt đang bơ vơ, sống vất vưỡng,
"vô tổ quốc" tại các trại tỵ nạn.
"Tôi muốn nhắc nhở quư đồng bào rằng, Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ là một xứ sở di dân. Chúng ta là một đất nước di dân". cựu Tổng thống Carter mở lời với giới cử tri trong một buổi vận động tại vùng nông thôn thuộc tiểu bang Iowa vào ngày 23/8/ 1979, theo bài viết
"President Makes Appeal for Asian Boat People" (Tổng thống khiếu nại dùm thuyền nhân Châu Á), được đăng trên nhật báo
Washington Post.
Trong lúc đang t́m cách thuyết phục các nông gia Iowa chấp nhận chính sách đón nhận thuyền nhân Việt, một sinh viên tên Scott Kelsay trong số cử toạ có đặt vấn đề khi cho rằng,
"di dân sẽ lấy mất việc làm", cựu Tổng thống đă kiên nhẫn trả lời:
"Những thuyền nhân Đông Nam Á này là đồng minh của chúng ta trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Họ phải rời bỏ đất nước đă tước đi các quyền căn bản của họ. Đây là những người tin vào giá trị cá nhân, sáng kiến cá nhân, và tự do cá nhân. Những thuyền nhân này cùng có nhân sinh quan với chúng ta hơn là chế độ Cộng sản đă tước đi đất nước họ".
Tổng thống Jimmy Carter cùng gia đ́nh trong ngày tuyên bố ra tái tranh cử. (H́nh: Consolidated News/AFP via Getty Images)
"V́ vậy, tôi hi vọng tất cả người Mỹ sẽ nhận ra rằng chính gia đ́nh của quư vị đă đến đất nước này nhiều năm trước để mưu cầu cuộc sống, đây cũng chính xác là điều mà những người tỵ nạn Việt Nam đang t́m kiếm hiện nay", Tổng thống Carter nói.
Trong buổi vận động này, ông Carter t́m cách lập luận rằng, việc tiếp nhận thuyền nhân không phải là vấn đề quá lớn mà người Mỹ khó có thể vượt qua.
Ông nói:
"Hiện chỉ có 220,000 người xin ty nạn (số liệu ở thời điểm năm 1979), tỷ lệ này là 1/1,000 so với dân số Mỹ. Có nghĩa là có đến 1,000 người Mỹ sẽ giúp đỡ một người tỵ nạn Việt Nam trong vài tuần lễ mà thôi".
Vị Tổng thống ca ngợi người tỵ nạn gốc Việt rằng:
"Họ là những người đi t́m tự do, dân chủ. Những người Việt đi trước đă chứng minh cho chúng ta thấy rằng họ là những người khao khát học hỏi ngôn ngữ của chúng ta để dễ dàng hoà nhập. Đặc biệt phải nói là họ đă chứng minh rằng đây là những người muốn tự lực cánh sinh".
Đạo Luật Tỵ Nạn 1980
Tổng thống Carter đă kư ban hành
Đạo Luật Tỵ Nạn (Refugee Act of 1980) vào ngày 17/5/1980.
Đạo luật này ra đời trong hoàn cảnh có cuộc khủng hoảng do làn sóng người vượt biển và đường bộ từ Việt Nam và Cambodia đến các quốc gia láng giềng trong vùng Đông Nam Á.
Theo ước tính, vào thời điểm 1979, có khoảng hơn 300,000 thuyền nhân và người đi đường bộ có mặt tại các trại tỵ nạn.
Những sắc lệnh của Tổng thống được ban hành ra theo từng đợt để đưa các thuyền nhân Việt nhập cảnh vào Mỹ do có những sự hạn chế, chẳng hạn như vấn đề về ngân sách, quy chế di trú, và chương tŕnh hội nhập, khiến cho các cơ quan hành chính gặp nhiều trở ngại. Do đó, cần một đạo luật có hiệu lực lâu dài để giúp cho giới chức hành pháp linh động t́m cách giải quyết.
Đặc biệt,
Đạo Luật Tỵ Nạn này cho phép gia tăng gần gấp ba lần số thuyền nhân vào Mỹ, từ 17,500/năm lên 50,000/năm.
Tác giả của đạo luật cứu giúp thuyền nhân này là
cố Thượng nghị sĩ Ted Kennedy (Dân Chủ-Massachusetts).
Đồng bảo trợ đạo luật là 11 thượng nghị sĩ Dân Chủ và 3 thượng nghị sĩ Cộng Hoà.
Đạo luật được lưỡng viện Quốc Hội với đại đa số là phe Dân Chủ cho thông qua. Trước đó, đạo luật được thông qua ở Hạ Viện ngày 4/3/1980 và ở Thượng Viện ngày 6/9/1980.
Thượng nghị sĩ Edward Kennedy hồi thập niên 1970. (H́nh: Washington Bureau/Getty Images)
Khi nói đến cố Thượng nghị sĩ Kennedy về vấn đề liên quan đến người tỵ nạn Việt Nam, không thể không nhắc đến chính ông cũng là người vận động cho dự luật
HR 6755 cho phép người tỵ nạn Đông Dương vào Mỹ và cung cấp nửa tỷ đô la giúp cho họ hội nhập.
Đặc biệt, đáng lưu ư nữa là chính Thượng nghị sĩ Kennedy là người vận động đạo luật
HR 7769 để thay đổi quy chế nhập cảnh
"Tạm Dung (parole status) thành quy chế
"Tỵ Nạn" (refugee status) cho người
"di tản" Việt năm 1975, được trở thành
"thường trú nhân chính thức để có cơ hội nhập quốc tịch Mỹ".
Uống nước nhớ nguồn?
Nước Mỹ không có tự động đón nhận hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt vượt biển sống lây lất tại các trại tỵ nạn ở vùng Đông Nam Á vào thời điểm cuối thập niên 1970, như nhiều người Mỹ gốc Việt sau này ngộ nhận.
Để cho người Việt
"di tản" hay
"thuyền nhân vượt biển" vào nước Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ phải linh động, uyển chuyển cho áp dụng luật theo từng giai đoạn, nhưng phương cách đó chỉ là tạm thời. Cần phải có luật quy định rơ ràng cho trường hợp người tỵ nạn Việt được nhập cảnh và định cư.
Các cựu Tổng thống (từ trái), George H.W. Bush (cha), George W. Bush (con), Jimmy Carter, Bill Clinton, và Barack Obama nhân dịp gây quỹ cứu trợ băo năm 2017. (H́nh: Jim Chapin/AFP via Getty Images)
Để có được một đạo luật như thế phải có các chính trị gia có tấm ḷng bác ái với người tỵ nạn Việt, dùng mọi nỗ lực để ra sức vận động, thuyết phục đồng viện và dân chúng Mỹ đồng ư.
Nhưng lại càng khó khăn hơn, khi cần phải đưa ra một dự luật mà phải chi thêm tiền trước mắt, để cưu mang cho người tỵ nạn giữa lúc kinh tế Mỹ khó khăn như giai đoạn hồi cuối thập niên 1970.
Như vậy mới biết công khó của những người vận động cho những đạo luật nhân đạo cứu giúp thuyền nhân Việt.
Đặc biệt, tấm ḷng của cựu Tổng thống Carter, dù đang ra tranh cử vẫn phải cố gắng đi thuyết phục giới cử tri chấp thuận chính sách tiếp đón người tỵ nạn Việt giữa lúc người Mỹ đang lo sợ về việc di dân sẽ lấy mất việc làm họ trước thời điểm kinh tế bị suy thoái thời hậu chiến cuộc Việt Nam.