USA Không có kẻ thù măi măi, không có bạn bè măi, chỉ có lợi ích quốc gia là măi măi - VietBF
 
 
 

HOME

NEWS 24h

DEM

GOP

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Breaking
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

Go Back   VietBF > Breaking News | Tin Nóng > Breaking News | Tin Sốt


Reply
 
Thread Tools
  #1  
Old  United States Of Americ Icon Không có kẻ thù măi măi, không có bạn bè măi, chỉ có lợi ích quốc gia là măi măi
“Không có kẻ thù măi măi, không có bạn bè măi, chỉ có lợi ích quốc gia là măi măi “
Winston Leonard Spencer-Churchill.
BẮT ĐẦU TỪ HUN SEN BÊN CAMPUCHIA.
Hun Sen được người Việt Nam hậu thuẫn, cùng sát cánh đánh đổ Kherme Đỏ. Nhưng người đồng chí Việt Nam lại bị người đồng chí Trung Quốc lên án xâm lược Campuchia và yêu cầu rút quân về nước.
Việt Nam trong thế cô lập muốn làm hài ḷng Trung Quốc, nhưng không muốn rút quân, đành đưa ra “giải pháp đỏ”, theo đó sẽ có một chính phủ Liên hiệp bao gồm cả đảng Nhân dân cách mạng của Hun Sen, và Khrme Đỏ… Hun Sen từ đó hận Việt Nam.
Trung Quốc phủi tay, cho đây là sáng kiến của Việt Nam, không chấp nhận “giải pháp đỏ” bán đứng luôn Khrme đỏ khi không c̣n giá trị.
Hun Sen từ đấy âm thầm ngả theo Trung Quốc.
ĐẾN QUAN HỆ XÔ - TRUNG.
Năm 1950 chiến tranh Liên Triều bùng nổ. Lúc ấy quan hệ Xô - Trung đang ở đỉnh cao của t́nh đồng chí.
Mỹ và đồng minh nhảy vào Triều Tiên sau khi quân đội Bắc Triều Tiên đánh đến tận cảng Pusan, chiếm 3/4 diện tích nước này.
Liên quân do Mỹ đứng đầu phản công chiếm lại.
Trong t́nh thế khả năng Liên quân sẽ lấy được Triều Tiên, sau khi họ chiếm lại Seoul.
Stalin yêu cầu Mao đưa quân nhảy vào Triều Tiên cứu viện Kim Nhật Thành.
Mao rất khó chịu với Stalin, v́ Stalin không muốn mất ḷng Mỹ.
Mao ra điều kiện, Liên Xô phải xây dựng cho Trung Quốc một hệ thống các khu công nghiệp để phát triển kinh tế, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá đất nước, và chuyển giao công nghệ chế tạo bom nguyên tử, đổi lấy Trung Quốc sẽ đưa quân tham chiến tại Triều Tiên- Stalin ấm ức nhưng vẫn gật đầu chấp nhận, chính v́ thế sau này Trung Quốc mới có bom nguyên tử và những cơ sở hạ tầng cho phát triển đất nước.
Stalin chết năm 1953, Khrushchev lên thay.
Khrushchev ủng hộ việc bài Stalin và kêu gọi cải tổ trong đảng, chủ trương hợp tác với phương Tây và Mỹ.
Ông bị nhóm bảo thủ trong đảng bí mật đảo chính và phải từ chức năm 1964.
Tại Việt Nam trong thập niên 1960 Đảng Lao động Việt Nam những người có khuynh hướng thân Liên Xô, chấp nhận chính sách của Khrushchev không muốn phát động chiến tranh vũ trang giải phóng miền Nam ngay, mà cho rằng phải xây dựng nền tảng chủ nghĩa xă hội ở miền Bắc trước khi nghĩ đến đấu tranh vũ trang ở miền Nam.
Họ cho rằng nếu phát động đấu tranh vũ trang sẽ khiến Hoa Kỳ nhảy vào trực tiếp tham chiến, khi đó chẳng những sẽ thất bại mà c̣n làm mất ḷng Liên Xô - những người này bị liệt vào phần tử theo “chủ nghĩa xét lại” bị cách chức, một số c̣n bị bắt đưa đi cải tạo.
Quan hệ Trung - Xô càng căng thẳng, khi nội bộ Liên Xô rối ren, Trung Quốc đề nghị Liên Xô trả lại các vùng bị Nga Hoàng xâm chiếm, hai bên bất đồng dẫn đến hai cuộc chiến tranh biên giới năm 1960 và 1969.
T́nh hữu nghị quốc tế cộng sản không thể thay thế bằng quyền lợi dân tộc đă tan thành mây khói.
Mâu thuẫn Xô - Trung là cơ hội cho Mỹ.
Liên Xô lúc ấy là siêu cường đối đầu với Mỹ, Trung Quốc cần phát triển đất nước dẫn đến Mỹ và Trung Quốc bắt tay nhau để hạ gục Liên Xô.
Trung Quốc lớn mạnh, Liên Xô suy yếu và sụp đổ.
Putin lên cầm quyền trong một nước Nga mới nhận thấy cần phải nhích lại với Trung Quốc.
Trung Quốc không muốn quá lệ thuộc vào Mỹ, quay lại gắn bó với Nga.
Kết quả năm 2005 Trung Quốc được giao quyền kiểm soát Đảo Tarabarov (Ngân Long Đảo) và khoảng 50% Đảo Bolshoy Ussuriysky (Hắc Hạt Tử đảo) gần Khabarovsk theo thỏa thuận giữa Nga và Trung Quốc, được kư vào ngày 14 tháng 10 năm 2004.
Đến đây, toàn bộ đường biên giới Trung-Nga dài 4.300 km được xác định xong.
Tháng 10/2008, chính phủ hai nước đă tổ chức lễ khánh thành cột mốc phân định biên giới đoạn Đông giữa hai nước trên đảo Hắc Hạt Tử. Hiện nay đảo Trân Bảo cùng các đảo Thất Lư Tâm, Kabozi gần đó đều đă thuộc về Trung Quốc. Trên đảo Trân Bảo hiện nay có một đơn vị biên pḥng đồn trú và tỉnh Hắc Long Giang đă tôn tạo lại các địa điểm xảy ra trận đánh năm xưa cùng với một pḥng trưng bày.
QUAN HỆ TAY BA: TRUNG QUỐC- VIỆT NAM- LIÊN XÔ.
Đây là quan hệ của các quốc gia cộng sản, lấy tinh thần quốc tế cộng sản là kim chỉ nam cho chính sách đối ngoại.
Quan hệ tay ba này đạt đỉnh điểm nồng ấm bắt đầu từ khi nhà nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời (1949) đến khi Stalin chết năm 1953.
Kể từ khi qua hệ Xô - Trung rạn nứt, Việt Nam trong thế kẹt v́ cần có sự viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc trong chiến tranh, cho nên không thể mất ḷng bên nào.
Nhưng điều đó không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Thậm chí trở thành tai họa trong t́nh h́nh Liên Xô và Trung Quốc thay đổi sách lược, lôi kéo Việt Nam như một con cờ trong cuộc chơi của họ.
Năm 1972 Mỹ và Trung Quốc b́nh thường hoá quan hệ.
Mỹ bắt đầu chính sách “thay đổi màu da cho xác chết” sẽ rút quân Mỹ ra khỏi chiến trường Miền Nam, và họ đă mở chiến dịch trên không ném bom miền Bắc Việt Nam (Linebacker)
Mục đích của Mỹ là đánh vào các cơ sở hậu cần, kho tàng bến băi, đường xá… của Bắc Việt để họ không thể mở được các chiến dịch tấn công khi quân đội Mỹ rút đi, và quân đội Việt Nam Cộng hoà thay thế có thời gian củng cố khi không có sự yểm trợ của không quân, hải quân Mỹ.
Những người cộng sản lănh đạo Hà Nội nhận thấy, Trung Quốc đă ngả theo Mỹ, chỉ có Liên Xô vẫn kiên định trên con đường CNXH mới có thể thực ḷng giúp đỡ Việt Nam.
Mỹ và Trung Quốc gần với nhau, khiến Liên Xô phải hết ḷng bảo vệ Việt Nam như một tiền đồn chống lại Trung Quốc ở phía Nam.
Mặc dù chiến dịch Linebacker được phía Mỹ tuyên truyền là đạt được mục đích, nhưng trên thực tế sau 12 ngày đêm, hàng hoá, vũ khí từ Liên Xô chuyển cho Hà Nội nhiều hơn người Mỹ tưởng.
Bộ chính trị đảng CS Việt Nam nhận định Mỹ rút khỏi là thời cơ cho tổng tấn công, với sự viện trợ tuyệt vời của Liên Xô họ đă mở màn tấn công sớm hơn người Mỹ dự đoán, khiến quân đội VNCH trở nên lúng túng và rối loạn.
Việc Miền Nam rơi vào tay những người cộng sản Bắc Việt Nam làm Trung Quốc bất ngờ, họ rất sợ một tiểu bá theo đuôi Liên Xô chống lại Trung Quốc.
Trung Quốc bắn tin cho tổng thống VNCH Dương Văn Minh kêu gọi một giải pháp hoà b́nh và đề nghị Trung Quốc can thiệp, nhưng Dương Văn Minh đă bác bỏ.
Ngay lập tức Trung Quốc nghĩ ra một kế sách khác nhằm đưa Việt Nam về quỹ đạo Trung Quốc.
Trung Quốc gặp gỡ những lănh đạo Khrme Đỏ, kích động về một Việt Nam tiểu bá sẽ chớp thời cơ thôn tính Campuchia.
Mối hận thù lịch sử trong quá khứ với người Việt Nam bị kích động - Khrme Đỏ chống lại Việt Nam.
Liên Xô không thể nuôi báo cô cả một hệ thống các quốc gia XHCN đàn em, không thể viện trợ cho Việt Nam được nữa.
Việt Nam bị cô lập không c̣n cách nào lại quay về quỹ đạo Trung Quốc với ngụy biện của TBT Nguyễn Văn Linh “Trung Quốc tuy bá quyền, nhưng theo con đường XHCN, ta không thể theo Mỹ theo CNTB”
(C̣n tiếp).
VIETBF Diễn Đàn Hay Nhất Của Người Việt Nam

HOT NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOME

Breaking News

VietOversea

World News

Business News

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

History

Thơ Ca

Sport News

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

Canada Tin Hay

USA Tin Hay

Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Gibbs's Avatar
Release: 2 Days Ago
Reputation: 583411


Profile:
Join Date: Nov 2006
Posts: 27,555
Last Update: None Rating: None
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	VBFjhfhjghgh.jpg
Views:	0
Size:	81.4 KB
ID:	2499831
Gibbs_is_offline
Thanks: 28,520
Thanked 18,646 Times in 8,336 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 768 Post(s)
Rep Power: 75 Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Old 2 Days Ago   #2
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 27,555
Thanks: 28,520
Thanked 18,646 Times in 8,336 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 768 Post(s)
Rep Power: 75
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

PHẦN 2
“Không có kẻ thù măi măi, không có bạn bè măi, chỉ có lợi ích quốc gia là măi măi “
Winston Leonard Spencer-Churchill.
“Chủ quyền, toàn vẹn lănh thổ” là những ngôn từ chúng ta thường nghe thấy trong hệ thống tuyên truyền, nó khích động ḷng tự hào dân tộc, nhưng ḷng tự hào dân tộc nhiều khi là thứ độc dược nhấn ch́m một dân tộc vào những mỹ từ “Vinh quang và chiến thắng” trong những cái đầu mụ mị.
Trên thực tế tại nhiều quốc gia đó là ảo tưởng, công cụ biến dân tộc đó thành nô lệ cho giới cầm quyền khi chính họ là những kẻ cam tâm bán đứng quyền lợi dân tộc để duy tŕ quyền lực.
Lịch sử chứng minh rằng, nếu thực sự v́ quốc gia dân tộc không có một chính phủ nào có thể “kiên định” sách lược trong một thế giới đầy toan tính và thỏa hiệp, bạn thù măi măi… và một dân tộc muốn tồn tại và vươn lên cần có những lănh đạo thao lược, có những chính sách phát triển đất nước trên những giá trị hiện thực với bản sắc văn hóa và dân trí cao, hội nhập, học tập với các cường quốc tự do, dân chủ – Đây là cách tốt nhất để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ.
Để làm rơ điều này, cần nghiên cứu về nước Nhật, và quan hệ Mỹ - Nhật Bản.
- QUAN HỆ MỸ - NHẬT BẢN.
NHẬT BẢN TRỞ THÀNH ĐẾ QUỐC:
Nhật bản trở thành đế quốc sau Cuộc cách mạng Minh Trị diễn ra từ năm 1866 đến năm 1869.
Trước đó Nhật Bản là một quốc gia tŕ trệ trong bốn bức tường sau hơn 200 năm thống trị của chế độ Mạc phủ Tokugawa, Thiên Hoàng chỉ là bù nh́n.
Minh Trị canh tân đă mở toang cánh cửa đưa Nhật Bản đến với thế giới phương Tây một cách toàn diện- Một nước Nhật mới với bản Hiến pháp đầu tiên, tồn tại từ năm 1889 đến năm 1945, gọi là Hiến pháp Đế quốc, Hiến pháp Minh Trị hay Hiến pháp Đại Nhật Bản.
Để soạn thảo bản Hiến pháp này, năm 1882 Thiên hoàng Minh Trị đă gửi một phái đoàn do Itō Hirobumi (Y Đằng Bác Văn) đến các quốc gia ở châu Âu để tham khảo pháp luật của các quốc gia này. Cuối cùng nhóm khảo sát quyết định chọn hiến pháp của Phổ để làm khuôn mẫu cho hiến pháp tương lai của Nhật Bản.
Trên cơ sở của bản Hiến pháp Thiên hoàng tuyên bố từ bỏ những tập tục có hại và sẵn sàng học hỏi phương Tây. Người Nhật trở nên nhiệt t́nh với bunmei kaika (văn minh khai hóa).
Để xóa quyền lực của các đại danh, triều đ́nh đă thực hiện phế phiên, lập huyện, băi bỏ hệ thống lănh địa và danh hiệu của các đại danh. Đồng thời, họ tuyên bố "tứ dân b́nh đẳng", nghĩa là bốn tầng lớp gồm vơ sĩ, nông dân, thợ thủ công và thương nhân giờ đây không c̣n bị phân biệt. Điều này gây bất b́nh ở tầng lớp vơ sĩ, nên triều đ́nh Minh Trị phải vừa đàn áp vừa xoa dịu bằng cách bồi thường bằng tiền. Khoản tiền nhận được từ triều đ́nh cộng với tri thức mà tầng lớp vơ sĩ được trang bị đă biến tầng lớp vơ sĩ thành giai cấp tư sản. Giai cấp vơ sĩ quư tộc tư sản chủ trương xây dựng Nhật Bản theo con đường quân sự là nguyên nhân dẫn đến việc Nhật Bản sau này trở thành đế quốc quân phiệt.
Triều đ́nh c̣n ban bố quyền tự do buôn bán (kể cả ruộng đất) và đi lại, thiết lập chế độ tiền tệ thống nhất (đồng Yên), xây dựng cơ sở hạ tầng (đặc biệt là đường sắt) và phát triển chủ nghĩa tư bản đến tận các vùng nông thôn. Triều đ́nh c̣n ra lệnh phế đao, không người dân tự ư mang đao kiếm.
Nhiều phái đoàn được cử sang phương Tây học hỏi về cách thức quản lư hành chính và về kỹ thuật. Toà án mới (kiểu phương Tây) được thành lập. Nhiều cải cách quan trọng về giáo dục được thi hành trong đó có việc thành lập các trường Đại học để đào tạo tầng lớp lănh đạo chính quyền và kinh doanh. Cơ sở hạ tầng bắt đầu được quan tâm phát triển. Nhiều chuyên gia phương Tây được mời tới Nhật Bản để phổ biến kiến thức và kỹ thuật.
Về quân sự, quân đội được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây. Lục quân theo mô h́nh Lục quân Đức, Hải quân theo mô h́nh Hải quân Anh, các công xưởng và nhà máy vũ khí theo mô h́nh công binh Pháp, hệ thống hậu cần học hỏi rất nhiều từ Hoa Kỳ. Quân đội Nhật Bản áp dụng chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh và tăng cường mua và sản xuất vũ khí, đạn dược. Kèm theo đó là mời các giảng viên quân sự nước ngoài về để giảng dạy và đưa các sinh viên sĩ quan đến một số nước như Anh, Pháp học tập.
Về giáo dục, đưa những thành tựu khoa học khoa học-kỹ thuật vào giảng dạy và áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc. Các môn học chuyển chủ yếu từ học thuộc Kinh Sử sang Khoa học-Kỹ nghệ-Thương mại. Mô h́nh tự trị-tự chủ Đại học được áp dụng theo h́nh mẫu phương Tây.
Tư nhân được phép mở trường. Chất lượng dạy học cũng như chương tŕnh chịu ảnh hưởng Hoa Kỳ và Phương Tây nhiều mặt.
Điển h́nh như việc soạn sách: 80% sách vở và tài liệu chuyên ngành được biên soạn theo mẫu Phương Tây. Trong thời gian đầu cải cách Giáo dục, ước tính có tới 500 giảng viên nước ngoài trong số 15 Đại học đầu tiên của Nhật. Các giảng viên này được trả lương rất cao - 300 Yên/ tháng so với lương Công chức Nhật thời bấy giờ là 30 Yên/tháng và hỗ trợ tốt về ăn ở, đi lại nhằm mục đích để họ cống hiến hết ḿnh, truyền bá các kinh nghiệm của bản thân. Giảng Viên Nhật có thể học hỏi phương pháp của các Giáo sư nước ngoài này. Những học sinh giỏi được cử sang du học ở nước ngoài.
KẾT QUẢ:
Sau 40 năm Canh Tân Minh Trị (Chưa bằng thời gian từ năm 1975 đến nay tại Việt Nam) từ năm 1900 tới 1940, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng khá nhanh. Tính theo thời giá năm 1990, năm 1900 GDP của Nhật Bản là 52 tỷ USD, năm 1940 đă tăng lên 210 tỷ USD (302 tỷ nếu tính thêm cả thuộc địa Triều Tiên, Măn Châu), để so sánh GDP của Mỹ trong năm 1940 là 931 tỷ USD Quy mô kinh tế Nhật Bản đă vượt qua Pháp và Ư, đứng thứ 5 thế giới (sau Mỹ, Liên Xô, Đức và Anh).
Sự gia tăng trong sản xuất công nghiệp Nhật là do việc gia tăng rất lớn ngân sách quân sự, tập trung vào các ngành công nghiệp nặng, cơ sở để sản xuất bất kỳ máy móc quân sự hiện đại nào. Sản lượng thép hàng năm tăng từ 1,8 lên đến 6,8 triệu tấn. Năm 1930, Nhật Bản chỉ sản xuất được 500 xe vận tải và 400 máy bay. Mười năm sau, sản lượng xe vận tải hàng năm là 48.000 chiếc, và Nhật Bản đă sản xuất hơn 5.000 chiếc máy bay mỗi năm. Đóng tàu tại Nhật Bản cho thấy mức tăng tương tự trong những năm này. Việc đóng tàu cho hải quân trong giai đoạn này tổng cộng là 476.000 tấn, việc đóng mới các tàu buôn tăng từ 92.093 tấn trong năm 1931 lên 405.195 tấn vào năm 1937.
Tháng 12/1941, quân đội Nhật Bản có trong tay 51 sư đoàn bộ binh. Không quân lục quân có 660 máy bay ném bom, 550 tiêm kích và 290 máy bay trinh sát. Không quân hải quân có 684 máy bay cho các tàu sân bay, 443 máy bay ném bom, 252 tiêm kích, 92 máy bay ném ngư lôi và 198 máy bay các loại khác.
Năm 1941, trọng tải tàu chiến của Nhật Bản đă tăng lên 1.059.000 tấn, gấp hơn hai lần năm 1922. Trong đó bao gồm 10 thiết giáp hạm, 6 tàu sân bay cỡ lớn và 4 tàu sân bay cỡ nhỏ, 18 tàu tuần dương hạng nặng, 18 tàu tuần dương hạng nhẹ, 113 khu trục hạm và 63 tàu ngầm. Hạm đội Nhật có tổng tải trọng đứng thứ 3 thế giới (sau Anh và Mỹ), nhưng xét ở riêng khu vực Thái B́nh Dương th́ đội tàu của Nhật mạnh hơn lực lượng hải quân Hoa Kỳ và Anh đóng ở đây cộng lại. Ở thời điểm 1941, hải quân của Nhật có 2 lĩnh vực được coi là tiên tiến nhất thế giới là ngư lôi và tiêm kích trên tàu sân bay.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Days Ago   #3
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 27,555
Thanks: 28,520
Thanked 18,646 Times in 8,336 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 768 Post(s)
Rep Power: 75
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

PHẦN 3
“Không có kẻ thù măi măi, không có bạn bè măi, chỉ có lợi ích quốc gia là măi măi “
Winston Leonard Spencer-Churchill.
QUAN HỆ MỸ- NHẬT BẢN.
- KẺ THÙ KHÔNG ĐỘI TRỜI CHUNG.
Sức mạnh quốc gia tăng lên th́ Nhật Bản cũng lại đi theo chủ nghĩa đế quốc, họ chủ trương bành trướng lănh thổ, giành giật châu Á với các cường quốc phương Tây.
Người Nhật c̣n tin rằng họ bị các đế quốc phương Tây đe dọa v́ lư do chủng tộc. Vào năm 1919, tại hội nghị ḥa b́nh Paris, Nhật đă đưa ra một đề nghị để bảo đảm b́nh đẳng chủng tộc tại Hội Quốc Liên, nhưng Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đă ngăn cản đề nghị này.
Cùng năm đó, hoàng thân Konoe Fumimaro, người trở thành thủ tướng vào năm 1937, đến thăm Mỹ, và nạn phân biệt chủng tộc mà ông chứng kiến khiến ông tin rằng Anh - Mỹ sẽ không bao giờ coi nước Nhật ngang hàng với họ. Ông viết “Người da trắng, đặc biệt là người Anglo-Saxon, căm ghét người da màu là một sự thật hiển nhiên, điều này rất rơ ràng ở Mỹ thông qua cách người Mỹ đối xử với người da đen”
Tại Nhật Bản, các tổ chức dân tộc chủ nghĩa cực đoan nở rộ, mà nhà lănh đạo nổi tiếng nhất là Ikki Kita, người đă đưa ra "Phác thảo Đại cương các Biện pháp cho cuộc Tái thiết Nhật Bản", trong đó chủ trương chống chủ nghĩa cộng sản, giải phóng châu Á khỏi sự thống trị của thực dân phương Tây và đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia thống trị tại châu Á (và thậm chí là thế giới). Nhân dân Nhật Bản được tuyên truyền tâm lư cho cuộc viễn chinh ở Đông Á với hai khẩu hiệu từ quá khứ. Một là "kokutai" - quốc túy, và cái kia là "Kodo" - Vương Đạo, được dẫn giải rằng "trật tự và ḥa b́nh thế giới phải được hoàn thành qua việc Nhật Bản kiểm soát Đông Á".
3 nước Nhật, Đức và Ư ngày càng củng cố khuynh hướng chủ nghĩa đế quốc và nuôi mộng xâm chiếm thuộc địa với lập luận: Anh, Pháp đă có được thuộc địa rộng c̣n họ th́ chưa, vậy họ cũng có quyền đi chiếm thuộc địa, và nếu cần th́ phải buộc Anh, Pháp nhường bớt cho họ.
Tuy vậy, các nước đế quốc đă chiếm nhiều thuộc địa với lănh thổ rộng lớn như Anh, Pháp, Mỹ lại không muốn nhường bớt các thuộc địa nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế của riêng ḿnh. Do đó, các thế lực đế quốc mới nổi và chậm chân trong cuộc chia chác thuộc địa thế giới, nghĩa là Đức, Ư và Nhật, muốn phát động chiến tranh để chiếm lấy thuộc địa của Anh - Pháp - Mỹ.
Vào năm 1940, dựa vào điều khoản trong Đạo luật Kiểm soát Xuất khẩu, phía Hoa Kỳ đă hoăn lại mọi chuyến hàng xuất khẩu các loại máy bay, linh kiện, máy công cụ và xăng máy bay, điều mà phía Nhật Bản xem là một hành động không thân thiện. Hoa Kỳ không ngưng toàn bộ việc xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật vào lúc đó một phần là v́ quan điểm đa số tại Washington cho rằng hành động như vậy có thể quá cực đoan, do Nhật c̣n bị phụ thuộc vào dầu mỏ Hoa Kỳ, và dễ bị phía Nhật xem là một hành động khiêu khích.
Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương, Hoa Kỳ đă cấm xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật vào mùa Hè năm 1941, một phần do các giới hạn mới của Hoa Kỳ trong việc tiêu thụ dầu mỏ trong nước. Tổng thống Franklin D. Roosevelt trước đó đă đưa Hạm đội Thái B́nh Dương đến Hawaii và yêu cầu xây dựng một lực lượng quân sự tại Philippines với hy vọng có thể làm nản ḷng Nhật Bản trong việc tiếp tục xâm chiếm Viễn Đông.
Nhưng giới lănh đạo quân sự tối cao Nhật Bản nhận định (một cách nhầm lẫn) rằng mọi hành động chống lại các thuộc địa Anh Quốc ở Đông Nam Á sẽ thúc đẩy Hoa Kỳ can dự vào chiến tranh, một cú tấn công phủ đầu được xem như là giải pháp duy nhất để Nhật Bản tránh được sự can thiệp của Hải quân Hoa Kỳ. Nhật Bản cũng cân nhắc đến việc xâm lược Philippines và cho đó là cần thiết trong kế hoạch chiến tranh của Nhật; trong khi về phía Hoa Kỳ, việc chiếm lại quần đảo này đă được quy định trong Kế hoạch Cam trong những năm giữa hai cuộc thế chiến.
- NHẬT BẢN ĐẦU HÀNG.
Mặc dù không có tuyên bố chính thức chiến tranh, Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, dẫn đến việc Hoa Kỳ sau đó quyết định tham gia vào hoạt động quân sự trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Cuộc chiến đẫm máu giữa Nhật Bản và Mỹ diễn ra 4 năm và kết thúc bằng việc Nhật đầu hàng đồng minh sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki đánh gục ư chí của Nhật Hoàng.
Tưởng rằng quan hệ Nhật- Mỹ sẽ là mối thâm thù truyền kiếp với những điều khoản trong văn kiện đầu hàng khiến nước Nhật không thể ngóc đầu lên được, các điều khoản của tuyên bố nêu rơ:
• Loại bỏ "vĩnh viễn quyền lực và ảnh hưởng của những kẻ đă lừa dối và làm lạc lối người dân Nhật Bản khiến họ tham muốn chinh phục thế giới"
• Chiếm đóng "các điểm trên lănh thổ Nhật Bản do Đồng minh xác định"
• Rằng "chủ quyền của Nhật Bản sẽ được giới hạn trong các đảo Honshū, Hokkaidō, Kyūshū, Shikoku và các đảo nhỏ do chúng tôi xác định." Như đă được công bố trong Tuyên bố Cairo vào năm 1943, Nhật Bản sẽ bị thu hẹp về lănh thổ của họ trước năm 1894 và bị tước bỏ phần đế quốc trước chiến tranh bao gồm Triều Tiên và Đài Loan, cũng như tất cả những cuộc chinh phục gần đây của nước này.
• Rằng "các lực lượng quân sự Nhật Bản, sau khi được giải giáp hoàn toàn, sẽ được phép trở về nhà của họ với cơ hội có một cuộc sống ḥa b́nh và sản xuất."
• Rằng "chúng tôi không có ư định nô dịch dân tộc Nhật Bản hoặc tiêu diệt quốc gia này, nhưng công lư nghiêm khắc sẽ áp dụng cho tất cả tội phạm chiến tranh, kể cả những người đă hành hạ tù nhân của chúng tôi một cách tàn ác."
Mặt khác, tuyên bố nêu rơ:
• "Chính phủ Nhật Bản sẽ loại bỏ mọi trở ngại đối với việc khôi phục và củng cố các khuynh hướng dân chủ trong nhân dân Nhật Bản. Tự do ngôn luận, tôn giáo và tư tưởng, cũng như tôn trọng nhân quyền cơ bản sẽ được thiết lập."
• "Nhật Bản sẽ được phép duy tŕ những ngành công nghiệp để giúp duy tŕ nền kinh tế của ḿnh và để cho phép chi trả bồi thường bằng hiện vật, chứ không phải những ngành cho phép Nhật Bản tái vũ trang cho chiến tranh. V́ mục đích này, việc tiếp cận nguyên liệu thô sẽ được cho phép, trừ nguyên liệu bị kiểm soát. Sau cùng sẽ cho phép Nhật Bản tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế."
• "Các lực lượng chiếm đóng của Đồng minh sẽ rút khỏi Nhật Bản ngay sau khi các mục tiêu này đă được hoàn thành, và một chính phủ có khuynh hướng ḥa b́nh và có trách nhiệm đă được thiết lập, phù hợp với ư chí tự do bày tỏ của nhân dân Nhật Bản."
Thuật ngữ "đầu hàng vô điều kiện" xuất hiện lần duy nhất ở cuối tuyên bố:
• "Chúng tôi kêu gọi chính phủ Nhật Bản ngay bây giờ tuyên bố tất cả các lực lượng vũ trang Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện và đưa ra những đảm bảo đúng đắn và đầy đủ về thiện chí của họ trong hành động đó. Lựa chọn thay thế cho Nhật Bản là hủy diệt nhanh chóng và hoàn toàn."
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, bài phát biểu đầu hàng trước công chúng Nhật Bản thiên hoàng Hirohito, nói:
“…Hơn nữa, kẻ địch đă bắt đầu sử dụng một loại bom mới và tàn ác nhất, sức sát thương của nó thực sự là khôn lường, cướp đi sinh mạng của nhiều người vô tội. Nếu chúng ta tiếp tục giao chiến, điều đó không chỉ dẫn đến sự sụp đổ và xóa sổ cuối cùng của dân tộc Nhật Bản mà c̣n dẫn đến sự diệt vong hoàn toàn của nền văn minh nhân loại.
Trong trường hợp đó, làm thế nào Chúng ta có thể cứu được hàng triệu thần dân của Chúng ta, hoặc tạ lỗi trước thần linh của Hoàng tổ hoàng tông của Chúng ta? Đây là lư do tại sao Chúng tôi đă ra lệnh chấp nhận các điều khoản trong Tuyên bố chung của các cường quốc...
Những gian khổ, đau khổ mà đất nước ta sau này phải gánh chịu chắc chắn sẽ không tầm thường. Chúng tôi nhận thức sâu sắc những t́nh cảm sâu sắc nhất của các thần dân của Chúng tôi. Tuy nhiên, theo tiếng gọi của thời vận mà Chúng tôi đă quyết tâm mở đường cho thái b́nh của tất cả các thế hệ mai sau bằng cách chịu đựng những điều không thể chịu đựng được và nhẫn nhịn những điều không thể nhẫn nhịn được…”
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Days Ago   #4
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 27,555
Thanks: 28,520
Thanked 18,646 Times in 8,336 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 768 Post(s)
Rep Power: 75
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

PHẦN 4
“Không có kẻ thù măi măi, không có bạn bè măi, chỉ có lợi ích quốc gia là măi măi “
Winston Leonard Spencer-Churchill.
QUAN HỆ MỸ- NHẬT BẢN.
-KẺ THÙ THÀNH ĐỒNG MINH BẠN BÈ.
Ngày 02/09/1945, trên Chiến hạm Missuri neo đậu trong vịnh Tokyo, các đại diện có thẩm quyền của Đế quốc Nhật Bản kư biên bản xác nhận sự đầu hàng vô điều kiện của họ trước đại diện toàn quyền các nước đồng minh chống phát xít.
Sau đoạn kết vô cùng nghiệt ngă, hai quả bom nguyên tử của Mỹ ném xuống Nagasaki và Hiroshima - Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một thứ vũ khí hủy diệt được sử dụng, người Nhật đă gục ngă hoàn toàn. Nước Mỹ là kẻ chiến thắng.
Người Nhật tan nát, nước Mỹ sẽ là kẻ thù truyền kiếp? Nước Mỹ sẽ không cho người Nhật cơ hội trỗi dậy? Sự tàn khốc của cuộc chiến, những tư tưởng nhồi sọ về đối đầu một mất một c̣n của hai bên trong cuộc chiến, làm người ta tin rằng đó không phải là câu hỏi, mà sự thật sẽ diễn ra đúng như vậy.
Lịch sử đă có câu trả lời, không giống như những ǵ tiên đoán.
Nước Nhật trở thành nền kinh tế hàng đầu thế giới, những giá trị về con người thông qua mức sống, giáo dục, y tế, môi trường, khoa học công nghệ ...là tấm gương cho cả thế giới học tập.
Quan hệ Mỹ Nhật là một h́nh mẫu trong quan hệ quốc tế. Mỹ- Nhật trở thành bạn bè, đồng minh, quan hệ nhân dân thân thiện hữu nghị, tôn trọng bản sắc văn hóa của nhau.
Tiếp quản nước Nhật là Douglas MacArthur, 65 tuổi, được bổ nhiệm làm Tư lệnh tối cao tại Nhật Bản của Lực lượng Đồng minh (SCAP) vào tháng 8/1945, ông trở thành người quyết định số phận của đất nước châu Á này sau chiến tranh Thế giới lần thứ hai.
Nước Nhật lúc này quá bi đát.
Một quốc gia thịnh vượng trước chiến tranh, một dân tộc tự hào là nơi mặt trời mọc phải đối mặt với những ǵ khủng khiếp nhất: nước Nhật tan hoang bởi bom đạn, phần đông dân số rơi vào cảnh đói ăn trầm trọng, 30% dân số không có nhà ở, 6 triệu người lính và dân thường từ khắp các vùng chiến sự ở Thái B́nh Dương quay trở về Nhật/
66 thành phố chính bị tàn phá nặng nề, cuộc sống ở khu vực nông thôn chỉ c̣n tương đương 65% so với trước Chiến tranh.
Tại Tokyo, 65% các khu vực dân cư bị phá hủy hoàn toàn, con số này tại các thành phố Osaka, Nagoya (thành phố lớn thứ 2 và thứ 3 tại Nhật ở thời điểm đó) lên đến 57% và 89%.
Sau khi đến Nhật Bản, MacArthur đă ngay lập tức cấm quân đội Đồng minh tấn công người Nhật và lấy thức ăn của họ. Ông yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ cung cấp cứu trợ thực phẩm khẩn cấp cho Nhật Bản để ngăn chặn nạn đói và bất ổn chính trị. Sau chiến tranh, Nhật Bản ở trong t́nh trạng nghèo đói với 9 triệu người vô gia cư, 13 triệu người thất nghiệp và 10 triệu người đang sống trong nạn đói.
Trong năm tài chính 1946, Chính phủ Hoa Kỳ đă cung cấp cứu trợ thực phẩm khẩn cấp trị giá 92 triệu đô la Mỹ. Quốc hội Hoa Kỳ đă đáp ứng tất cả các yêu cầu để chu cấp cho những người Nhật đang đói khát theo đề nghị của MacArthur.
Kết quả là vào năm 1948, các công chức Nhật Bản được hưởng chế độ ăn 2.000 calo mỗi ngày. Năm 1949, trữ lượng lương thực của Nhật lên tới 3 triệu tấn, trong khi sản lượng gạo năm 1950 đạt 9,5 triệu tấn.
Ngay từ ban đầu, bất chấp sự phản đối từ đại diện các nước đồng minh khác, Douglas MacArthur từ chối trừng phạt Nhật hoàng Hirohito.
Ông nghiên cứu lịch sử của những người thắng cuộc trước đó bao gồm Alexander, Napoleon và Hitler và đi đến kết luận rằng tất cả hoạt động chiếm đóng của họ đă thất bại bởi họ lấy máu để trả thù máu.
Nếu Mỹ kiên quyết xử tội Nhật Hoàng Hirohito, có lẽ Nhật Bản đă rơi vào tay cộng sản.
Giữa lúc ḷng căm thù phát xít Đức và quân phiệt Nhật đang dâng tràn khắp thế giới, sự khoan dung độ lượng của MacArthur đối với kẻ thù vừa gục ngă đă vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của các nước Đồng minh, ngay trong chính giới Mĩ, Anh, nhất là từ phía Liên Xô. Ngoại trưởng Molotov và trung tướng Derevyanko – trưởng đoàn Liên Xô tại Hội đồng Đồng minh về Nhật – nhiều lần cáo giác rằng chính sách chiếm đóng của Tướng MacArthur sẽ “làm dễ dàng cho sự phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Nhật” và đ̣i Hoa Ḱ cách chức ông ta. Tuy nhiên, được tổng thống Truman ủng hộ, MacArthur vẫn không thay đổi quan điểm của ḿnh.
Về việc bồi thường chiến tranh, Hoa Ḱ có khuynh hướng làm giảm bớt gánh nặng cho Nhật Bản.
Tháng8.1946, MacArthur đưa ra kế hoạch tháo dỡ 505 xí nghiệp Nhật để bồi thường cho Đồng minh. Nhưng đa số các nước khác trong Ủy ban Viễn Đông muốn rằng người Nhật phải bồi thường thỏa đáng cho những thiệt hại mà họ đă gây ra cho các nước Đồng minh. Theo yêu cầu của các nước này, việc tháo dỡ các xí nghiệp công nghiệp nặng của Nhật phải được thực hiện trên một quy mô rộng lớn hơn nhiều so với kế hoạch của Mĩ. Cuộc tranh căi kéo dài không kết quả giữa các nước Đồng minh đă làm cho Nhật Bản hầu như thoát khỏi việc bồi thường.
Nhật áp dụng hiến pháp mới (nhiều khi người ta gọi đó là hiến pháp MacArthur bởi người Mỹ đóng vai tṛ chủ chốt trong việc soạn thảo ra nó). Hiến pháp này khác hoàn toàn với hiến pháp thời Thiên hoàng Minh trị năm 1889. Những thay đổi quan trọng nhất trong hiến pháp Nhật năm 1946 bao gồm:
Theo Hiến pháp năm 1946 của Nhật Bản, thần quyền – cội nguồn sâu xa của tư tưởng phong kiến quân phiệt Nhật và quyền lực chuyên chế của Nhật Hoàng – đă bị xóa bỏ. Giải thích ngôi vị của Thiên hoàng không phải do “mệnh trời” mà do nhân dân giao phó, Hiến pháp quy định Thiên hoàng là “tượng trưng của quốc gia và sự đoàn kết dân tộc”.
Chủ quyền của đất nước này thuộc về nhân dân, nên Quốc hội (gồm Thượng viện và Hạ viện) trở thành cơ quan quyền lực cao nhất, sẽ cử ra Chính phủ và Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Nguyên tắc “tam quyền phân lập” giữa các ngành lập pháp (Quốc hội), Hành pháp (Chính phủ) và Tư pháp (Ṭa án Tối cao) được chính thức xác định.
Hiến pháp quy định mọi công dân Nhật được đảm bảo mọi quyền tự do cơ bản của con người: tự do lập nghiệp, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, đảng phái, đoàn thể… Quyền b́nh đẳng giữa các công dân về quyền lợi và nghĩa vụ được ghi nhận; những di sản của quá khứ về sự phân biệt đẳng cấp và phẩm tước bị xóa bỏ. Điều mới lạ nhất đối với người Nhật là việc phụ nữ được b́nh đẳng với nam giới về mọi phương diện. Chính điều này đă làm thay đổi hoàn toàn thân phận của phụ nữ Nhật so với trước kia.
Douglas MacArthur được coi như “đấng cứu thế” cho b́nh đẳng giới của phụ nữ Nhật.
Nếu như trong quá khứ, phụ nữ Nhật từng không được đi học, nhiều người không biết đọc biết viết.
Ngay từ trong hiến pháp, ông quy định phụ nữ được phép đi học. Ông mở thêm 26 trường đại học dành riêng cho phụ nữ. Sau đó, trong Luật Lao động, ông góp phần đưa ra quy định trả lương công bằng cho phụ nữ. Trong Luật Bất động sản, phụ nữ được đứng tên cùng chồng với những tài sản mua sau hôn nhân và tài sản được chia trong trường hợp ly dị. Phụ nữ cũng được đảm bảo toàn bộ quyền giám hộ con cái nếu hai vợ chồng chia tay.
MacArthur đă hướng dẫn những người lính Mỹ tôn trọng người dân địa phương, bao gồm cởi giày trước khi vào nhà, tôn trọng các chuẩn mực văn hóa và giúp đỡ những trẻ em kém may mắn.
Những điều nhỏ bé như vậy đă làm thay đổi thái độ của người Nhật đối với lính Mỹ, từ sợ hăi sang tôn trọng.
Trong ṿng 6 tháng ngắn ngủi trên đất Nhật Bản, người dân địa phương đă không cảm thấy mối đe dọa nào từ phía lính Mỹ.
MacArthur không đi du lịch nhiều ở Nhật Bản và hiếm khi tiếp xúc với người Nhật, mà chỉ gặp gỡ với một vài quan chức cấp cao của Nhật Bản, nhưng một số lượng lớn người Nhật vẫn bị ông chinh phục.
Hầu hết các công dân đối xử với ông bằng sự tôn trọng giống như cách họ đối xử với Hoàng đế của ḿnh và coi ông như là vị cứu tinh của Nhật Bản.
Họ tặng ông vô số quà tặng và gửi tới ông khoảng nửa triệu lá thư. Nhiều người bày tỏ ḷng biết ơn đối với các chính sách hào phóng của ông.
Ông đă trao lại quyền lực cho chính phủ Nhật Bản nhưng vẫn ở lại Nhật Bản cho đến khi được Tổng thống Harry S. Truman triệu hồi vào ngày 11/4/1951.
Trên đường từ nơi cư trú đến sân bay Atsugi, hàng trăm ngàn người Nhật đă đứng xung quanh ṭa nhà để tiễn ông. Họ đi cùng ông với tiếng hô vang dội: Nguyên soái!
Sự khôn ngoan và hiểu biết chính trị của ông, cùng với sự bao dung của ông đă chạm đến trái tim của hàng triệu người dân Nhật Bản. Ông đă giúp Nhật Bản chuyển sang một kỷ nguyên phát triển mới, trong 10 năm, Nhật Bản trở thành nền kinh tế hùng mạnh thứ hai trên thế giới, tự hào là một xă hội ổn định và phát triển.
Hiến pháp mới của Nhật ra đời người Mỹ đă hoàn thành sứ mệnh, nước Nhật được trao trả nền độc lập ra nhập Liên hợp quốc vào năm 1956 với đầy đủ chủ quyền của một quốc gia.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Days Ago   #5
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 27,555
Thanks: 28,520
Thanked 18,646 Times in 8,336 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 768 Post(s)
Rep Power: 75
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

PHẦN 5
“Không có kẻ thù măi măi, không có bạn bè măi, chỉ có lợi ích quốc gia là măi măi “
Winston Leonard Spencer-Churchill.
QUAN HỆ MỸ - ĐỨC.
Nước Đức hiện giờ là nền kinh tế đứng đầu châu Âu và thứ tư thế giới sau Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản.
Đức là nước bại trận trong cả hai cuộc chiến thế giới thứ nhất và thứ hai và là quốc gia khơi mào cả hai cuộc chiến này.
Chiến tranh thế giới thứ hai nước Đức bị kiệt quệ v́ những cuộc ném bom có tính hủy diệt của không quân đồng minh và đặc biệt là Mỹ, Berlin và hầu hết các thành phố công nghiệp của Đức bị tàn phá thành một b́nh địa…
Vậy tại sao nước Đức có thể phục hồi một cách thần kỳ như vậy?
Trả lời được câu hỏi này, chúng ta sẽ nhận thấy lá mặt lá trái, tính cơ hội của người Đức, và tại sao hiện nay tổng thống Trump có thái độ “dị ứng” với các nhà lănh đạo Đức như bà thủ tướng Merkel và ông Olaf Scholz, cũng như hoài nghi về một nền ḥa b́nh ở châu Âu khi cuộc chiến Nga- Ukraine chưa kết thúc bởi tính hai mặt của Đức đă lan rộng trong một liên minh châu Âu thống nhất…
(Trong các phần tiếp theo sẽ nêu rơ tính hai mặt và cơ hội của nước Đức một cách cụ thể hơn)
-KẾ HOẠCH MARSHALL CỦA MỸ TÁI THIẾT NƯỚC ĐỨC.
Nước Đức phát xít năm 1949 đă chính thức chia làm hai miền Đông Đức, và Tây Đức. Năm 1949 tây Đức chấm dứt sự chiếm đóng và quản lư của các nước đồng minh tại ba khu vực do người Mỹ, Anh, Pháp kiểm soát, thành một thể thống nhất gọi tên là nước Cộng ḥa Liên bang Đức.
Tây Đức sau chiến tranh cũng như nước Đức nói chung bị tàn phá nặng nề và kinh tế suy sụp. Khu vực Tây Đức được coi là rất giàu có trước chiến tranh v́ các tài nguyên, các khu công nghiệp sản xuất đều nằm ở đây. Trong chiến dịch dải thảm bom khủng khiếp của đồng minh Mỹ, Anh trong thế chiến thứ 2 đă phá hoại toàn bộ các cơ sở sản xuất vũ khí, hậu cần chiến tranh của Hitler. Các thành phố, nhà máy gần như bị xóa sổ hoàn toàn. Chiến dịch dải thảm bom tàn khốc có thể nói là hủy diệt, nhưng để chiến thắng và tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, hành động này là một điều bắt buộc, cho dù cũng có tiếng nói lên án, đây là một tội ác chống lại con người. Nhưng lịch sử cũng cần phải biết phân biệt, phải phân định giữa cuộc chiến của hai thế lực tà và ác, để có phán xử.
Trong khi tại Đông Đức, Liên Xô dựng nên một nhà nước theo chế độ CS, th́ Tây Đức phát triển kinh tế TBCN với nhà nước tự do, dân chủ, do nhân dân bầu ra. Cuộc sống của người Tây Đức thịnh vượng rất nhanh, nền kinh tế phát triển vượt bậc c̣n nhanh và mạnh hơn nước Anh và nước Pháp- hai nước chiến thắng. Có thể nói là đứng đầu thế giới.
Tây Đức phát triển có mấy nguyên nhân chính:
- Tây Đức tự chủ trong các chính sách kinh tế của ḿnh. Nền kinh tế TBCN là động lực cho thị trường cạnh tranh công khai và minh bạch, phát huy được tiềm lực của tài nguyên, trí tuệ con người.
- Các chính sách của chính phủ luôn hướng đến sự giải phóng con người, tạo động lực cho con người được phát triển, có công ăn việc làm và thu nhập cao, trong một hệ thống an sinh xă hội tốt đẹp.
Tỷ lệ đầu tư vốn rất cao nhờ mức tiêu thụ thấp và nhu cầu đầu tư vốn thay thế rất nhỏ (do nguồn vốn vẫn c̣n nhỏ) đă thúc đẩy sự phục hồi này trong những năm 1950. Mức sống cũng tăng đều đặn,[9] với sức mua của tiền lương tăng 73% từ năm 1950 đến 1960. Theo ghi nhận của nhà báo người Anh Terence Prittie vào đầu những năm 60:
Ngày nay, người đàn ông làm việc ở Tây Đức có một cuộc sống thoải mái và mặc một chiếc áo ghi lê đầy đặn. Anh ấy ăn tốt, và thức ăn của anh ấy - mặc dù nấu ăn của Đức thiếu sự thanh lịch của Pháp - rất lành mạnh và ngon miệng. Anh ấy mua quần áo tốt, và anh ấy mặc quần áo cho vợ con rất tốt. Anh thường có tiền để dự pḥng cho các chương tŕnh truyền h́nh, các chuyến du ngoạn cuối tuần và các trận bóng đá. Và anh ấy không sợ ăn mừng đôi khi ở quy mô lớn hơn.
Thuế suất thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt, giảm đáng kể. Trước đây, thuế suất đối với bất kỳ thu nhập nào trên 6.000 Deutschmark là 95%. Sau cải cách thuế, tỷ lệ 95% này chỉ áp dụng cho thu nhập hàng năm trên 250.000 Deutschmark. Đối với người Tây Đức với thu nhập hàng năm khoảng 2.400 Deutschmark vào năm 1950.
Nhưng một nguyên nhân cực quan trọng là có sự giúp đỡ của nước Mỹ. Nước Mỹ đă không bắt Tây Đức phải bồi thường chiến tranh. Không những vậy, Mỹ có một kế hoạch tái thiết các nước theo tự do trong khối Tây Âu, trong đó có Tây Đức. Kế hoạch đó gọi là Marshall (tiếng Anh: Marshall Plan), nhằm đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Kế hoạch Marshall được khởi sướng từ ngoại trưởng Mỹ George Marshall.
Marshall nói:
- "Điều rất hợp lư là Hoa Kỳ cần phải làm tất cả những ǵ có thể để giúp mang lại trạng thái lành mạnh cho nền kinh tế thế giới, mà không có nó sẽ không có sự ổn định chính trị và không có nền ḥa b́nh vững chắc. Chính sách của chúng ta là không chống lại bất kỳ quốc gia nào, mà chống lại đói kém, nghèo nàn, tuyệt vọng và hỗn loạn. Bất kỳ chính phủ nào sẵn ḷng giúp một tay để tái thiết sẽ nhận được sự trợ giúp toàn tâm toàn ư của nước Mỹ". Marshall tin tưởng chắc chắn rằng ổn định kinh tế sẽ mang lại ổn định chính trị tại châu Âu. Ông đề xuất viện trợ, nhưng các quốc gia châu Âu sẽ phải tự tạo ra các chương tŕnh hành động của chính họ.
Kế hoạch Marshall không phân biệt nước thắng hay thua trận. Nước Mỹ có chỉ thị JCS 1779, nhấn mạnh "Một châu Âu trật tự, phồn vinh đ̣i hỏi phải có sự đóng góp kinh tế từ một nước Đức ổn định và hiệu quả".
Chỉ thị JCS 1067 đă có hiệu lực trong ṿng hơn hai năm. Những hạn chế áp đặt lên nền sản xuất công nghiệp của Đức phần nào trở nên thông thoáng hơn, cho phép sản xuất thép tăng lên từ mức 25% trước chiến tranh tới định mức 50% năng suất trước thế chiến.
Sử dụng viện trợ từ Kế hoạch Marshall theo các nguyên tắc của ECA, 60% các quỹ đó phải được dùng để đầu tư vào công nghiệp. Điều này rất đáng chú ư tại Đức, nơi các quỹ do chính phủ quản lư đóng một vai tṛ quan trọng trong việc cho các công ty tư nhân vay tiền để tiến hành tái thiết. Các quỹ này đóng vai tṛ trung tâm trong việc tái công nghiệp hóa nước Đức. Ví dụ như trong những năng 1949-1950, 40% các khoản đầu tư cho công nghiệp than ở Đức đến từ các quỹ này. Quỹ Đặc biệt này, khi đó được quản lư bởi Bộ Kinh tế Liên bang, trị giá tới hơn 10 tỷ mark Đức năm 1971.
Năm 1997, nó lên tới 23 tỷ mark. Nhờ vào hệ thống cho vay quay ṿng, quỹ này cho tới năm 1995 đă có thể dành các khoản vay lăi xuất thấp cho người dân Đức với tổng trị giá lên tới 140 tỷ mark. Khoảng 40% c̣n lại của quỹ đối ứng được dùng để trả nợ, b́nh ổn tiền tệ, hoặc đầu tư vào các chương tŕnh phi công nghiệp.
Theo cuốn Marshall Plan 1947–1997 A German View bởi Susan Stern, nhiều người Đức vẫn c̣n tin là nước Đức là quốc gia duy nhất hưởng lợi từ chương tŕnh này, rằng nó bao gồm những khoản viện trợ cho không gồm những món tiền lớn, rằng chương tŕnh này là chương tŕnh độc nhất mang lại sự phục hồi kinh tế nước Đức trong thập niên 1950.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 1 Day Ago   #6
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 27,555
Thanks: 28,520
Thanked 18,646 Times in 8,336 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 768 Post(s)
Rep Power: 75
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

PHẦN 6
“Không có kẻ thù măi măi, không có bạn bè măi, chỉ có lợi ích quốc gia là măi măi “
Winston Leonard Spencer-Churchill.
QUAN HỆ NGA- ĐỨC.
Cuộc chiến Nga- Ukraine đă đẩy EU vào thế phải ủng hộ Ukraine và nước Đức là quốc gia chi phí nhiều nhất trong EU cho Ukrane, nhưng thực tế Đức là một thủ phạm gây ra cuộc chiến này v́ những toan tính cơ hội với Nga, điều đă có tiền lệ trong lịch sử.
- LIÊN XÔ ĐĂ THỎA THUẬN VỚI HITLER ĐÁNH BA LAN ĐỂ LẤY LẠI UKRAINE.
Ngày 23/8/1939 Liên Xô và Đức kư Hiệp ước ước Molotov – Ribbentrop hay Hiệp ước Hitler – Stalin có tên chính thức là Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô.
Kèm theo Hiệp ước là một nghị định thư được kư bổ sung,trong đó quy định ranh giới Đông Âu nằm trong phạm vi quyền lợi của Đức và Liên Xô trong trường hợp có "sự sắp xếp lại về chính trị đối với lănh thổ" của các quốc gia này.
Nghị định thư quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva và Bessarabia thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Ngoài ra, Đức chấp thuận việc Liên Xô thu hồi lại Tây Ukraine và Tây Belarus (bị Ba Lan đánh chiếm năm 1921).
Nghị định này cho phép thành lập chính quyền thân Liên Xô tại Litva, Latvia, Estonia. Ngày 1 tháng 9 năm 1939 Đức xâm chiếm Ba Lan, và ngày 17 tháng 9 quân đội Liên Xô tiến quân thu hồi Tây Ukraina và Tây Belarus.
Ngày 28 tháng 9 năm 1939, Đức và Liên Xô kư kết Hiệp ước hữu nghị về biên giới. Sau đó, Liên Xô đă sáp nhập các nước Baltic (Estonia, Latvia, Litva), vùng Bessarabia và Bắc Bukovina, và một phần của Phần Lan vào lănh thổ của ḿnh.
Ngày 1 tháng 9 năm 1939 Đức Quốc xă bất ngờ tấn công Ba Lan.
Ngày 17 tháng 9 năm 1939, đến lượt Hồng quân Liên Xô xâm lược Đông Ba Lan.
Nên biết rằng trước đó, ngày 25 tháng 7 năm 1932, Ba Lan và Liên Xô đă kư một hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau.
Trước năm 1939, Ba Lan và Đức Quốc xă là những nước láng giềng có quan hệ rất tốt: Ba Lan là quốc gia châu Âu đầu tiên đă kư hiệp ước không xâm lược lẫn nhau với Đức Quốc xă, sau đó cả Ba Lan và Đức Quốc xă đă cùng nhau xâm lược Tiệp Khắc.
Sự thật lịch sử là như thế, không như chúng ta được dạy rằng, Liên Xô là nước XHCN yêu ḥa b́nh và không xâm lược, không bắt tay với chủ nghĩa phát xít.
Và tại châu Âu mọi quốc gia đều có mưu đồ v́ quyền lợi chẳng có quốc gia nào chính nghĩa, chỉ có bên nào mạnh hơn sẽ chiến thắng và lập lại trật tự bằng sự áp đặt lên quốc gia thất bại.
- NƯỚC ĐỨC TRONG THỜI KỲ LIÊN XÔ CHIẾM ĐÓNG.
Quân đội Liên Xô chiếm đóng phần Đông Đức và một nửa thủ đô Berlin của Đức.
Trong khi Mỹ và đồng minh phương Tây không lấy ǵ của nước Đức theo thỏa thuận Posdam về bồi thường chiến tranh.
Liên Xô ngược lại, tất cả những ǵ c̣n có thể sử dụng được ở nước Đức bị tàn phá đều được vơ vét chở về Liên Xô trên những chuyến tàu chạy hết công suất- Hàng vạn binh lính Đức cũng đi theo làm lao động khổ sai trên những công trường và trại cải tạo khắp Liên Xô.
Nạn cướp bóc, hăm hiếp của quân đội Liên Xô xảy ra khủng khiếp tại tất cả các nơi họ chiếm đóng.
Trong khoảng thời gian này tại các khu vực chiếm đóng, các sử gia ghi nhận nhiều vụ hăm hiếp tập thể hướng tới phụ nữ Đức do quân đội Liên Xô gây ra.
Các số liệu cho thấy có ít nhất 1,4 triệu người phụ nữ là nạn nhân của những vụ hăm hiếp này riêng tại Đông Phổ (thuộc khu vực Ba Lan và Litva ngày nay). Chỉ trong tháng 4 và tháng 5 tại Berlin, thủ đô Đức Quốc Xă, hơn 100.000 người phụ nữ đă bị hiếp dâm, với khoảng 10.000 người chết ngay sau đó.
Theo nhà sử học Antony Beevor, một nhân chứng trong cuộc chiếm đóng Berlin, binh lính của hồng quân Liên Xô đă hăm hiếp phụ nữ và trẻ em từ 8 đến 80 tuổi. Nhiều ghi nhận c̣n cho thấy cả phụ nữ Ba Lan và các nước đồng minh cũng không được tha thứ.
Để trả thù cho những tội ác của người Đức, Bộ tư lệnh Hồng quân cho phép các đạo quân được tự do cướp bóc trong ṿng 3 ngày sau khi thủ đô Berlin và Budapets thất thủ. Đồng thời, lính Xô-viết được gửi “quà” về nhà, với những bọc “chiến lợi phẩm” 10kg, mà số đông quân nhân Liên Xô đă tận dụng triệt để sau những tháng ngày cực nhọc.
Nước Đức Cộng sản được thành lập với tên Cộng Ḥa Dân chủ Đức (Demokratische Republik, DDR).
Dầu vậy, quân đội Liên Xô vẫn đóng trên lănh thổ nước này theo Hiệp định Potsdam giữa bốn cường quốc chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai là Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô.
Cộng ḥa dân chủ Đức có thể nói là một quốc gia chết yểu nhất trong lịch sử các quốc gia trên thế giới. Nó vừa là kết quả và hậu quả của chiến tranh thế giới thứ 2,sau bại trận của chủ nghĩa phát xít và sự h́nh thành mới của hai hệ thống đối lập, cũng như sự chia cắt thành hai miền của Việt Nam,và bán đảo Triều Tiên sau này, khi các cường quốc lớn có quyền quyết định vận mệnh của các quốc gia bại trận và lệ thuộc
Từ khi Đông Đức được thành lập, người Đông Đức chạy sang Tây Đức ngày càng nhiều. Bắt đầu từ năm 1952 biên giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực lượng canh pḥng.
Một khu vực cấm dọc theo biên giới có chiều ngang 5 km được thành lập, người dân chỉ được phép đi vào khi có giấy phép đặc biệt – thông thường là chỉ cho những người dân cư trong vùng. Về hướng biên giới là một giải đất bảo vệ rộng 500 m và tiếp theo ngay sau đó, trực tiếp cạnh biên giới, là một giải đất canh pḥng có chiều ngang 10 m. Ngược lại, ranh giới của các khu vực chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn c̣n bỏ ngỏ, v́ thế mà gần như không thể kiểm soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân chạy qua Tây Berlin. Từ 1949 cho đến 1961 khoảng 2,6 triệu người đă rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn c̣n 47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961.
Ngoài ra Tây Berlin cũng là cửa ngỏ đi đến phương Tây cho nhiều người Ba Lan và Tiệp Khắc. V́ những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt nên việc di dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cuối cùng là cho sự tồn tại của quốc gia này.Thêm vào đó khoảng 50.000 người dân Đông Berlin tuy hằng ngày làm việc ở Tây Berlin nhưng lại sinh sống và cư ngụ dưới những điều kiện rẻ tiền hơn ở Đông Berlin hay ở những vùng ngoại thành Berlin. Vào ngày 4 tháng 8 năm 1961 Hội đồng thành phố Berlin (Đông) ban quy định bắt buộc những người này phải đăng kư và phải trả tiền nhà cũng như những phí tổn phụ (điện, nước) bằng tiền Deutsche Mark của Tây Đức.
Trước khi bức tường được xây dựng, lực lượng Công an Nhân dân của Đông Đức trong Đông Berlin cũng đă kiểm soát nghiêm ngặt các con đường và phương tiện giao thông đi qua phần phía tây của thành phố để ngăn chặn những người "chạy trốn cộng ḥa" và "buôn lậu".
Ngoài ra, nhiều người ở Tây Berlin và người Đông Berlin nhưng làm việc tại Tây Berlin đă dùng tiền Mark Đông Đức được đổi với giá rẻ trên thị trường ngoại tệ chợ đen – tỷ giá hối đoái thời điểm đấy là 1:4 – để mua lương thực thực phẩm tương đối rẻ và các hàng hóa tiêu dùng cao cấp ít ỏi ở Đông Berlin. Qua đó hệ thống kinh tế theo chế độ kinh tế kế hoạch của Đông Đức lại càng suy yếu đi.
Bức tường được xây dựng để phục vụ cho ư định của những người cầm quyền Đông Đức, đóng kín cửa biên giới để chấm dứt cái được gọi một cách b́nh dân là "bỏ phiếu bằng chân" – rời bỏ "quốc gia công nông xă hội chủ nghĩa".
Trong đêm 12 rạng sáng ngày 13 tháng 8 năm 1961 Quân đội Nhân dân Quốc gia, 5.000 người của Cảnh sát biên pḥng (tiền thân của Lực lượng Biên pḥng sau này), 5.000 người thuộc Công an Nhân dân và 4.500 người thuộc lực lượng công nhân vũ trang bắt đầu phong tỏa các đường bộ và đường sắt dẫn đến Tây Berlin.
Quân đội Xô Viết được đặt trong t́nh trạng báo động và hiện diện tại các cửa khẩu biên giới của Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông c̣n tồn tại giữa hai phần Berlin đều bị gián đoạn.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Reply

User Tag List


Phim Bộ Videos PC7

 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

DEM

GOP

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 19:40.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.08526 seconds with 12 queries