
Chúng tôi không hiểu người dân Thủ đô Sài Gòn quan niệm thế nào về các hoạt động khủng bố giết người của bọn cộng sản Bắc Việt? Những vụ giật mìn, phá hoại, tiếng súng nơi đầu xa lộ, phía bót Quận Tám... tất cả những điều đó liệu đã đủ để người dân Sài Gòn có khái niệm rõ ràng về chiến tranh?
Hai tiếng nổ làm sập nhà ở đường Nguyễn Cư Trinh, người chết ở Tòa Đại Sứ Mỹ – tất cả cũng chỉ đủ gây nên một thắc mắc nhỏ: “Bọn khủng bố cộng sản làm sao đặt được chất nổ?” Tai ương chiến tranh được đặt ngang với một bộ phim trinh thám OSS rẻ tiền.
Người dân Sài Gòn có bao giờ biết rằng những hoạt động khủng bố phá hoại đó là kết quả của cả một quá trình phối hợp nội – ngoại tuyến đầy tinh vi và tỉ mỉ? Có ai biết rằng mỗi lần có biểu tình, xuống đường, là lựu đạn, chất nổ lại được tuồn vào thủ đô nhiều hơn?
Bọn đặc công cộng sản áp sát Nhà Bè, xa lộ, phi trường Tân Sơn Nhất. Mỗi cuộc họp báo, mỗi vụ tự thiêu lại là cơ hội cho những toán khủng bố trà trộn vào Sài Gòn, đem theo thuốc nổ đã gắn ngòi, chuẩn bị sát hại dân lành.
Bao quanh Thủ đô là Trung đoàn 165A – lực lượng đặc công chuyên chiến đấu cận chiến trong đô thị. Tiểu đoàn 6 của trung đoàn này xuất phát từ mật khu Lý Văn Mạnh, hoạt động tại Bà Hom, Bà Quẹo. Một phần lớn lực lượng đã bị Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù của QLVNCH đánh tan tại ấp Vĩnh Hạnh đầu năm 1967.
Tiểu đoàn này đưa một đại đội tiến sát khu vực do chúng tôi kiểm soát để thám sát, phối hợp cùng ba trung đội du kích ở Bình Trị Đông, Phú Lâm, Phú Thọ Hòa.
Và du kích khủng bố là ai? Là chính những người sống ở các vùng đó, từng "ra bưng" rồi quay về sống như dân thường. Lớp người này cung cấp tin tức, chỉ điểm cho đối phương, dẫn đường cho lực lượng chủ lực tiến vào Sài Gòn, rồi rút lui an toàn.

Những vụ pháo kích vào phi trường Tân Sơn Nhất là kết quả của sự phối hợp giữa du kích địa phương và bộ đội chính quy.
Để đối phó, ta có lực lượng chủ lực, Địa phương quân, tổng trừ bị... Nhưng phần lớn gánh nặng bảo vệ thủ đô vẫn đặt trên vai những người lính không đồng phục, không cấp bậc, không quy chế.
Họ là những người lính từ lũy tre làng, sinh ra và sống trên đồng ruộng – Nghĩa quân. Họ nhận diện từng tên du kích, biết rõ tên Thảo chỉ huy vùng Vĩnh Lộc là con ai, vợ ai, trốn ở đâu.
Chính họ – những người lính gối đầu trên đôi dép Nhật, ngủ dưới hàng cây bên đường làng – đêm đêm tập hợp lại thành tiểu đội, trung đội, khi cần. Và đó là “nông thôn vùng lên” – giành lại quyền sống, quyền làm người, không cần tuyên ngôn, không cần hội thảo hay biểu tình xuống đường.
Tôi biết anh từ năm 1964 – lúc Sài Gòn hỗn loạn giữa hai phe tôn giáo. Việt Cộng lúc đó tạm ngưng hoạt động lớn để chuẩn bị đánh vào thủ đô. Phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Trong áp lực địch nặng nề, anh đã theo tôi, chỉ dẫn từng địa thế, từng gương mặt nghi vấn.
– Đằng sau cái nhà vuông có con đường xe bò, tụi nó hay gài mìn. Thiếu úy coi chừng!
– Trong bản đồ tôi không thấy gì cả?
– Đường xe bò đi, bản đồ đâu có ghi! Nhà bà già sát quán nước ấp Vĩnh Hạnh có đứa con đi thoát ly... Nó tên Long, đi từ tháng Tư năm ngoái, tháng Sáu đứa em gái về rồi...
Anh kể từng chi tiết quý giá mà không một cơ quan tình báo nào có thể nắm được.

Năm 64, 65, 66... đơn vị tôi thay đổi vùng hành quân liên tục. Người cũ hy sinh, mất tích. Những gương mặt mới – quá trẻ trước sự tàn ác của chiến tranh – thay thế.
Nay tôi trở lại vùng cũ, gặp lại anh Ba. Anh nhận ra tôi trước.
– Thiếu úy... À, Trung úy có nhớ tôi không? Tôi tưởng Trung úy chết ở trận Đồng Xoài rồi chứ?
– Không chết, chỉ bị thương thôi.
– Còn mấy người đi với Trung úy trước? Cái anh Tây lai nhỏ nhỏ?
"Anh Tây lai nhỏ" – tôi thắt lại trong lòng. Thái, thằng nhỏ theo tôi suốt bao năm. Trẻ con, nông nổi, thích đội nón đỏ, mặc đồ saut. Khi chết, xác không nhận diện được.
– Mấy người theo tôi đều đã chết hết. Giờ tôi ở tiểu đoàn mới. Còn anh, có gì khác không?
– Cảm ơn Trung úy, giờ tôi được làm Trung đội trưởng.
Anh Ba vẫn vậy. Gian khổ hình như không thể làm anh đen hơn hay gầy hơn.
– Còn anh Heo giờ sao rồi?
– Heo bị thương một lần. Khoảng tháng Tám năm ngoái, tụi nó vừa đến ấp Vĩnh Tín thì đụng trận. Bảy người, chết ba, bốn bị thương, cầm cự đến 4 giờ sáng...
– Anh có lần nào như vậy không?
– Có, lai rai... một lần ở Vĩnh Phước.
Chỉ là một trong vô số trận đánh giữa nông dân và du kích. Giữ từng bờ ruộng, từng con đường làng. Không phi pháo, không yểm trợ – chỉ có tình yêu quê hương, tinh thần trách nhiệm và lòng can đảm.
Bọn cộng sản Bắc Việt đã và đang thổi bùng hận thù, gieo rắc chia rẽ bằng tuyên truyền hèn hạ, ngụy biện, man rợ. Nhưng người miền Nam vẫn kiên trì chiến đấu không phải vì hận thù, mà vì sự sống, vì nhân cách.
Trong lời anh, tôi không thấy thù hận – chỉ có nhẫn nại và chịu đựng.
Tôi bắt tay anh, hẹn ngày mai gặp lại. Anh ngồi bên vệ đường, lặng nhìn cánh đồng. Anh có ước mơ gì không – người trung đội trưởng Nghĩa quân, lương tháng một ngàn bốn trăm đồng, bao gạo và vài lít dầu ăn?
Chiếc phản lực xé trời phía trên đầu – anh có bao giờ so sánh, tị hiềm?
Tôi chắc anh không biết chủ nghĩa cộng sản là gì. Nhưng anh biết rõ: ngày nào còn bọn khủng bố Việt cộng về ấp giết người, hãm hiếp, cướp bóc, tuyên truyền dối trá... thì ngày đó anh còn chiến đấu.
Anh biết tên Thảo – đội trưởng du kích vùng Xuân Thới Thượng – đã cắt cổ ba trưởng ấp. Anh chiến đấu vì điều đó làm anh phẫn nộ.
Sài Gòn ồn ào, nhảy múa, nhân danh người lính, nhân danh Tổ quốc – mặc kệ! Anh sống quay lưng lại nó.
Sài Gòn – thành phố đè trên vai anh.
Phan Nhật Nam – Bà Điểm, tháng 4/1966