Những bảng hiệu mới và câu hỏi cũ
Thỉnh thoảng lướt Facebook, không ít người thắc mắc: tại sao dạo này ở Mỹ, Canada hay châu Âu, đi đâu cũng bắt gặp tiệm ăn hoặc cơ sở thương mại do làn sóng người Việt mới nhập cư làm chủ? Lại có những tài khoản thân cộng “hả hê”, vỗ tay cho đó là “thắng lợi” của cộng sản Việt Nam, rằng chế độ đă “thống lĩnh” hệ thống kinh doanh Việt tại hải ngoại. Nghe qua tưởng cũng ghê gớm lắm, nhưng nếu chịu khó nh́n lại cả một chặng đường hơn 40 năm lịch sử của cộng đồng tị nạn, ta sẽ thấy mọi thứ hoàn toàn không phải như vậy.
Làn sóng tị nạn sau 1975 và những quán ăn đèn vàng leo lét
Sau năm 1975 và kéo dài đến khoảng đầu thập niên 2000, làn sóng người tị nạn Việt Nam đặt chân đến Mỹ và Tây Âu trong tâm thế trắng tay. Ra đi không phải để làm giàu, mà để thoát khỏi một chế độ. Những năm đầu nơi xứ lạ, không ngôn ngữ, không bằng cấp, không quan hệ, đa số người Việt chỉ có hai bàn tay và ư chí không muốn trở thành gánh nặng cho quốc gia cưu mang. Từ đó, những quán phở, tiệm cơm, chợ nhỏ, tiệm nail… mọc lên khắp nơi, như những pháo đài bé nhỏ giúp cả gia đ́nh bám víu, nuôi con cái ăn học. Nhiều gia đ́nh đầu tắt mặt tối, mở cửa từ tờ mờ sáng đến khuya lắc khuya lơ, không nghỉ lễ, không cuối tuần. Qua từng bát phở, từng dĩa cơm là mồ hôi, là giấc ngủ thiếu nợ, là ước nguyện duy nhất: thế hệ sau không phải vùi ḿnh trong bếp lửa và chậu rửa bát như cha mẹ.
Khi con cái thành tài và bài toán “ai sẽ giữ tiệm?”
Nhiều thập niên trôi qua, giấc mơ đó dần thành hiện thực. Con cái của những người chủ quán phở, quán cơm ngày nào nay đă trở thành bác sĩ, kỹ sư, luật sư, dược sĩ, quản trị, chuyên gia trong đủ mọi ngành nghề. Thế hệ thứ hai không c̣n bị trói chân bởi rào cản ngôn ngữ, cũng không phải mang trên vai gánh nặng mưu sinh như cha mẹ thuở ban đầu. Cha mẹ bước vào tuổi xế chiều, chuẩn bị hưởng chút an nhàn sau mấy chục năm “cày” trong bếp, ngoài chợ. Và cũng chính lúc đó, câu hỏi hiện ra: ai sẽ kế thừa cơ sở làm ăn? Nhưng làm sao bắt những đứa con đă chứng kiến hết thảy cảnh cha mẹ thức khuya dậy sớm, tay chân nứt nẻ, lưng đau gối mỏi, quay lại đúng con đường mà cả đời cha mẹ chỉ mong chúng thoát ra? Với một bác sĩ hay kỹ sư sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ, Canada hay châu Âu, bỏ nghề chuyên môn để quay vào bếp đứng chiên xào là điều gần như không tưởng.
Làn sóng chủ mới: những bước chân lặp lại sau 40 năm
Khoảng trống ấy được lấp đầy bởi một làn sóng người Việt khác, đến sau với đủ loại diện: du sinh, xuất khẩu lao động, kết hôn với người bản xứ, con nhà khá giả trong nước, thậm chí có cả con cháu cán bộ mang sứ mệnh rửa tiền, đưa tài sản tham nhũng ra ngoài. Dù xuất phát điểm khác nhau, họ vẫn gặp lại những khó khăn na ná thế hệ tị nạn trước: ngôn ngữ hạn chế, bằng cấp trong nước không được đánh giá cao, hội nhập gian nan mà lại không có hệ thống trợ giúp ban đầu như diện tị nạn. Thế là con đường dễ nh́n thấy nhất, ít đ̣i hỏi giấy tờ lằng nhằng nhất, vẫn là mua lại hoặc thuê lại các tiệm ăn, tiệm nail, cơ sở kinh doanh đă có sẵn khách quen của cộng đồng người Việt cũ. Dần dần, rất nhiều cửa tiệm được sang tay; một số khác đơn giản là đóng cửa v́ không c̣n ai trong thế hệ tị nạn muốn tiếp tục kiểu làm ăn kiệt sức ấy nữa. Nếu chỉ nh́n tấm bảng hiệu mới mà không nh́n lịch sử phía sau, rất dễ nhầm lẫn đó là “chiến thắng” của một chế độ, trong khi thực chất chỉ là sự chuyển giao tự nhiên giữa các thế hệ người Việt xa xứ.
Đừng để luận điệu tuyên truyền đánh tráo niềm hănh diện
Chính v́ không hiểu (hoặc cố t́nh không hiểu) bối cảnh ấy, mới xuất hiện những luận điệu kiểu: “Cộng đồng tị nạn phải xấu hổ v́ các khu phố Việt như Paris hay Little Saigon bây giờ toàn người qua sau làm chủ.” Đó là một cách nói vừa sai sự thật, vừa phục vụ rất khéo cho tuyên truyền Nghị quyết 36 của cộng sản, đánh tráo bản chất của câu chuyện. Thật ra, cộng đồng tị nạn Việt Nam trên khắp thế giới có đầy lư do để hănh diện: sau mấy chục năm, con cháu họ không c̣n nhu cầu bám vào ngành nhà hàng để mưu sinh nữa, mà đă chen chân và đứng vững trong những lĩnh vực chuyên môn cao của xă hội bản xứ. Những người đang làm chủ các cơ sở kinh doanh Việt ngày hôm nay – dù là du học sinh ở lại, lao động vượt khó hay con nhà khá giả ở Việt Nam – chỉ đang đi lại những bước chân mà hơn một triệu người tị nạn đă đi cách đây hơn 40 năm. Tấm bảng hiệu có thể đổi tên chủ, nhưng lịch sử của những bàn tay chai sần mở đường cho cộng đồng lại không thể bị xóa đi chỉ bằng vài status “hả hê” trên mạng xă hội. Và nếu có một “thắng lợi” nào cần nhắc tới, th́ đó chính là thắng lợi của những gia đ́nh tị nạn đă biến quán phở đèn vàng leo lét năm xưa thành bệ phóng để con cháu họ bước ra thế giới, ngẩng cao đầu bằng chính trí tuệ và lao động lương thiện.