Trong lịch sử Trung Hoa, hiếm có một vị hoàng đế nào mang vận mệnh đối lập sâu sắc như Tống Huy Tông: tài hoa xuất chúng trong nghệ thuật nhưng lại chịu kết cục bi thương đến tận cùng, đi từ vị trí chí tôn thiên tử đến cảnh tù nhân lưu đày nơi đất khách.
Tống Huy Tông, tên thật là Triệu Cát, sinh ngày 2 tháng 11 năm 1082, là vị hoàng đế thứ tám của triều Bắc Tống. Ông trị vì từ năm 1100 đến năm 1126, trước khi trở thành Thái thượng hoàng và rồi bị bắt trong biến cố Tĩnh Khang năm 1127.
Triệu Cát vốn là hoàng tử thứ 11 của Tống Thần Tông nhưng là hoàng tử thứ ba còn sống đến tuổi trưởng thành. Sớm bộc lộ tư chất thông minh và tài năng nghệ thuật, ông được đánh giá là một tài tử phong lưu, có khả năng thi ca, thư pháp bậc nhất thời bấy giờ. Khả năng hội họa của ông được hậu thế ca tụng, đến mức nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nếu không làm vua, Tống Huy Tông vẫn sẽ là nghệ thuật gia kiệt xuất của thời trung đại Trung Hoa. Ông tự sáng tạo kiểu chữ Thúy thư nổi tiếng, tinh tế, thanh thoát và đạt đến độ thượng thừa. Khi còn là hoàng tử, Triệu Cát đã ham mê âm luật, hội họa, sưu tầm đồ cổ, và dành phần lớn thời gian cho thư phòng hơn là triều chính, tư chất vừa tao nhã vừa phóng đãng đúng chất một công tử phong lưu.

Tống Huy Tông. Ảnh minh hoạ.
Biến cố đưa Triệu Cát lên ngôi diễn ra vào năm 1100, khi Tống Triết Tông – anh ông – qua đời mà không có con nối dõi. Các đại thần tranh luận dữ dội, còn Hướng Thái hậu cuối cùng quyết định lập Đoan vương Cát kế vị bất chấp việc nhiều người nghi ngại tính cách khinh bạc của ông. Vừa lên ngôi, Tống Huy Tông tỏ ra là vị vua khoan hòa, ban xá thiên hạ, trọng dụng hiền thần, phục hồi danh dự cho nhiều người từng bị o ép dưới các triều trước. Triều chính trong những năm đầu nhờ đó mà sáng sủa trở lại.
Thế nhưng, bản chất yêu thích nghệ thuật hơn chính sự khiến Tống Huy Tông nhanh chóng sa vào vòng xoáy của bày tôi gian nịnh. Từ một vị hoàng đế có khả năng cải cách, ông lại trở thành người dung dưỡng bè đảng, để chúng thao túng triều cương. Trong số đó, nổi tiếng nhất là Thái Kinh – gian thần khét tiếng thời Bắc Tống. Thái Kinh nhờ sự khéo léo, luồn lọt trong và ngoài cung, dần dần chiếm được lòng tin tuyệt đối của Tống Huy Tông. Được chống lưng bởi các phe cánh như Đồng Quán, Vương Hậu, y nhanh chóng loại bỏ các đối thủ, khôi phục Tân pháp của Vương An Thạch, và thậm chí lập bia “phe đảng Nguyên Hựu” để sỉ nhục những hiền thần từng phục vụ cho triều đại. 120 đại thần bị khắc tên vào bia đá, bị triều đình bêu riếu chỉ vì không theo phe Thái Kinh. Nạn đảng tranh dưới thời Tống Huy Tông vì thế rơi vào mức độ trầm trọng nhất trong lịch sử Bắc Tống.
Song song với sự lũng đoạn triều chính là lối sống xa hoa của nhà vua. Tống Huy Tông dồn sức vào xây dựng cung điện, vườn tược, tìm kiếm đồ cổ, mở rộng Hàn lâm thư họa viện, tuyển chọn các nghệ nhân xuất sắc nhất để phục vụ sở thích của ông. Kho tàng nghệ thuật cung đình thời kỳ này phong phú đến mức hơn 6.000 bức tranh được lưu lại trong danh mục hoàng gia. Dù điều này làm rạng rỡ nền nghệ thuật Trung Hoa, nhưng triều đình lại hao người, tốn của, ngân khố cạn kiệt. Cuộc sống xa xỉ, những công trình tráng lệ theo ý vua khiến dân chúng oán thán, nhiều vùng nổi dậy khởi nghĩa.
Trong đối ngoại, Tống Huy Tông càng bộc lộ sự thiếu quyết đoán. Khi người Nữ Chân nổi dậy chống lại nhà Liêu và thành lập nhà Kim năm 1115, triều Tống đứng trước cơ hội liên minh với họ để diệt Liêu. Thái Kinh thúc đẩy đường lối “hợp Kim diệt Liêu”, khiến Tống dấn thân vào cuộc chiến mà họ không hề đủ sức mạnh. Sau khi diệt Liêu, nhà Kim lập tức quay sang tấn công Tống – điều mà nhiều đại thần từng cảnh báo nhưng bị Thái Kinh và phe cánh dập tắt. Từ đây, định mệnh bi kịch của Tống Huy Tông chính thức được định đoạt.
Những năm cuối trị vì, Tống Huy Tông dần nhận ra sự bất lực của mình trước nguy cơ nhà Kim tấn công. Năm 1126, khi quân Kim lần đầu tiến đến Biện Kinh, Tống Huy Tông hoảng loạn nhường ngôi cho con là Tống Khâm Tông, mong thoát khỏi trách nhiệm. Nhưng việc thoái vị không cứu nổi triều đình. Nhà Kim quay lại lần thứ hai vào đầu năm 1127, trực tiếp công phá Biện Kinh, bắt giữ toàn bộ hoàng tộc, bao gồm cả Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông, cùng hàng nghìn cung phi, hoạn quan, triều thần.
Biến cố này được ghi vào sử với tên gọi “Sự kiện Tĩnh Khang”, một trong những nỗi nhục lớn nhất trong lịch sử Trung Hoa. Khi bị giải về phương bắc, Tống Huy Tông – từng là thiên tử phong lưu trong ngọc cốt – chỉ còn là một tù nhân bị áp giải giữa trời lạnh. Những bảo vật mà ông dành nửa đời để sưu tầm trở thành chiến lợi phẩm cho quân Kim. Triều Bắc Tống sụp đổ, thiên hạ từ đây phân chia Nam – Bắc Tống.
Từ một vị vua sống giữa hoa lệ và tráng lệ, Tống Huy Tông trải qua 8 năm cuối đời trong cảnh tù đày ở Ngũ Quốc Thành, thuộc đất Kim. Cuộc sống của ông trong thời gian này tăm tối và bị hạn chế hoàn toàn. Nhà Kim ban cho ông tước hiệu “Hỗn Đức công” – một cách chế giễu hơn là vinh danh. Bấy nhiêu cũng đủ cho thấy số phận ông thê thảm đến nhường nào.
Có lần, cha con Tống Huy Tông gặp một ông lão đến từ thành Biện Kinh. Hồi tưởng lại chuyện cũ, ba người họ ôm nhau khóc rống, bị thống lĩnh quân Kim nhìn thấy, ra lệnh cho quân lính quật cho hai cha con mỗi người 50 roi. Đêm đó, Tống Huy Tông cắt quần áo thành dải, làm dây chuẩn bị tự sát. Tống Khâm Tông thấy thế, bèn lao ra đỡ cha từ xà nhà xuống, xong hai cha con lại ôm nhau mà khóc.
Để sống sót qua mùa đông giá buốt ở phương Bắc, hai cha con Tống Huy Tông phải chui vào hầm sâu mấy thước mà sống. Cuối cùng, tóc của ông bị rụng hết, tai điếc, mắt mờ, khóc không ra nước mắt. Ông chết ở tuổi 52.
Khi Tống Khâm Tông phát hiện ra thi thể của cha mình, nó đã lạnh cứng như đá. Quân Kim đem thi thể Tống Huy Tông dựng vào hố đá mà thiêu. Được nửa chừng, họ đổ nước vào hố để dập lửa, rồi đưa thi thể cháy dở vào cái hố khác chứa đầy nước. Họ cho rằng nước ngâm xác chết cháy có thể dùng để chế dầu đốt đèn. Quá đau buồn, Tống Khâm Tông cũng định nhảy xuống hố nước để tự kết liễu đời mình. Quân Kim đã ngăn lại, nói rằng người sống nhảy xuống nước thì không dùng làm dầu đốt đèn được.
Vietbf @ Sưu tầm