Mỗi người một ngày chỉ 30 ngàn
Ngay tại trên con đường đi vào khu du lịch sang trọng Rusalka thuộc thành phố Nha Trang, có một gia đ́nh gồm 11 người sống trong 3 cái bạt dựng thành lều. Họ làm nghề ṃ rong, đến từ xă Ninh Thủy, cách đó 30km.
Ba tấm bạt dựng thành lều cho một đại gia đ́nh 11 người. Phía xa là khu du lịch resort Rusalka, Nha Trang.
Họ gọi nghề ṃ rong biển là “nghề đi mơ”. Ông Vơ Mót, 70 tuổi là người già nhất trong gia đ́nh. Ông nói ở làng ông cũng có nghề đi mơ nhưng “ở ngoài đó nhiều người làm quá nên rong biến dần dần hết.”
Ông Mót với bà vợ Nguyễn Thị Bầu 67 tuổi dắt díu con cái vào Nha Trang, dựng mấy tấm bạt làm lều, 11 người lớn bé sống trong đó, ṃ rong kiếm sống.
Khánh Ḥa cũng như nhiều vùng đất khác tại miền Trung khác có rất nhiều dăy hoành sơn từ dăy núi Trường Sơn đâm ra, chạy dài đến tận biển Đông. Từ điểm cuối của những dăy hoành sơn này tạo ra nhiều ghềnh đá, đó là nơi rong biển sinh sôi và phát triển, một loại thực vật được con người sử dụng như một loại thuốc quư để chữa những bịnh về thận và gan. Để lấy được những loại rong biển này, người dân phải lặn sâu dưới biển, sát những ghềnh đá để ṃ bứt chúng.
Đó là những ngư dân nghèo, họ không có ghe thuyền để đánh bắt hải sản ngoài biển cũng như nuôi trồng hải sản gần bờ, mà chỉ biết dựa vào sức khỏe và ông trời. Dân chuyên đi ṃ rong biển gọi đó là nghề Đi Mơ.
Phụ nữ ở nhà không đi lặn biển th́ phơi rong để sau đó đem đi bán.
Nghề đi mơ kiếm về không được bao nhiêu. Hái rong biển thôi th́ không đủ sống, người ta c̣n lụm ve chai và làm lặt vặt kiếm thêm tiền.
Rong biển thường phát triển mạnh nhất vào từ khoảng tháng 2 đến tháng 7 Âm lịch. Vào những tháng này, dọc theo triền biển có rất nhiều người đi ṃ rong và phơi đầy trên đường cái. Họ thường đi thành nhóm, có thể là thân bằng quyến thuộc hoặc hàng xóm với nhau v́ công việc không cho phép họ làm việc một ḿnh đơn độc mà phải cần ít nhất là hai người.
Một người lặn, c̣n người kia ở trên mặt nước kéo lên. Cứ thế, họ thay đổi công việc cho nhau. Bắt đầu làm việc từ 7 giờ sáng và kết thúc vào khoảng 2-3 giờ chiều, tùy thuộc vào thời tiết, khí hậu. Nếu như ngày hôm đó trời ít gió, biển lặng, nắng to họ có thể làm sớm hơn và kết thúc muộn hơn. Cá biệt có những ngày trời mưa gió th́ chỉ biết ngồi ở nhà mong ngày mai trời sẽ nắng.
Là những ngư dân nghèo khổ, cho nên dù cái nghề ṃ rong buộc họ phải lặn sâu dưới ghềnh đá sâu tận 5-6 sải tay, nhưng vào những ngày trời nhiều gió họ chẳng cần sử dụng bất kỳ thiết bị hỗ trợ lặn nào. Những thứ thiết bị dường như cần thiết đó là một thứ xa xỉ và đôi khi c̣n gây nguy hiểm cho họ. Tuy thế, vào những ngày trời đứng gió, để việc ṃ rong đạt được nhiều sản lượng hơn, họ cũng sử dụng thiết bị tạo khí từ b́nh ắc-quy rồi dùng ống dẫn khí cho vào miệng để lặn được lâu hơn.
Ông Nguyễn Văn Hùng người trong nhóm đi lặn rong biển. Con của ông chỉ được học đến lớp 4, lớp 5 là phải nghỉ do không đủ tiền cho con học tiếp.
Để lặn được xuống dưới sâu, họ sỏ một sợi dây qua 3-4 cục đá quấn quanh người thay cho những cục ch́ làm cho cơ thể nặng hơn để dễ dàng xuống sâu dưới biển. Rồi từ đó sử dụng đôi bàn tay để ṃ, bứt rong biển mọc trên đá. Dường như đôi kính để lặn dưới nước là thiết bị duy nhất họ phải mua để khi lặn dưới nước sâu thấy được rong biển mà bứt.
Đôi bao tay được làm bằng len dày không giúp họ tránh được những cạnh đá bén nhọn. Làm nghề này, đứt tay chảy máu là chuyện thường xảy ra. Chân mang những đôi giày vải hoặc bằng nhựa để tránh đạp phải vật nhọn dưới nước.
Trong những lều bạt tạm bợ nơi chứa những cặp vợ chồng con cái sống chung với nhau, ông Vơ Mót cho biết:
“Ở làng chúng tôi có hàng trăm người cũng làm nghề đi mơ này. Nhưng v́ ở ngoài đó nhiều người làm quá nên rong biển dần dần hết nên chúng tôi phải dắt díu nhau vào đây, chui rúc trong những túp lều tạm bợ này ngày ngày lặn ṃ rong biển để kiếm tiền sống qua ngày.”
Mỗi ngày cứ một nhóm 6 người đi ṃ rong biển th́ họ mang về được khoảng 30-40kg rong. Sau đó đem phơi khô bán cho thương lái ở trong thành phố, cứ mỗi kilogram sau khi đă phơi được bán với giá là 6,000 đồng.
Ông Vơ Mót 70 tuổi vẫn tiếp tục nghề lặn ṃ rong biển, phía sau là người vợ, bà Nguyễn Thị Bầu 67 tuổi bên bữa cơm chiều.
Anh Nguyễn Quang Hải 32 tuổi, là thành viên trong gia đ́nh trên đi cùng với người vợ và đứa con gái nhỏ khoảng 3 tuổi nói về nỗi khổ sống trong căn lều không có nước để uống:
“Đời sống của chúng tôi khó khăn và cực lắm. Nước ngọt để uống và tắm được mua từ những người dân trong làng, cứ mỗi can nhựa 20 lít nước họ bán với giá 1,000 đồng.”
Tiền nước quá cao, người ta không dám tắm, không dám giặt giũ. Anh Hải kể:
“Mà đàn ông th́ rất ít khi tắm chỉ thỉnh thoảng gội đầu cho đỡ ngứa thôi. Chỉ có phụ nữ 3-4 ngày họ mới tắm một lần, mà 20 lít nước đó phải là dành cho 4 người tắm, chứ một người th́ chịu không nổi tiền đâu. C̣n giặt giũ quần áo th́ chỉ có quần áo của phụ nữ và trẻ con, chứ đàn ông th́ không cần, cứ đem phơi khô rồi sau đó mặc vào là được.”
“Đàn ông khỏe hơn, cần ǵ mấy thứ đó,” and Hải nói rồi cười hề hề một cách tự nhiên.
Cái nghề ṃ rong biển này rất bạc, v́ sau hết tháng 7 th́ chẳng c̣n rong để mà lặn ṃ, họ phải quay về quê để đi làm thuê kiếm sống.
Vào buổi tối, họ phải ngủ trong những căn lều mà chẳng có mùng, mùng chỉ để dành cho trẻ con. Cứ mối tối muỗi cắn chịu không nổi phải chui vào trong những chiếc bạt nhựa, quấn quanh người cho muỗi khỏi cắn. Anh Hải chỉ vào tấm bạt nhựa c̣n rất mới cho tôi biết thêm:
Vật dụng để trang bị cho việc ṃ rong biển: Một dây đá quấn quanh người và chiếc phao để đựng rong biển.
“Cái bạt mới mua kia là do anh Việt kiều một lần đi ngang qua đây để ngắm cảnh, thấy đời sống khổ cực của chúng tôi bèn lấy một triệu đồng ra để tặng. Tôi dùng số tiền đó để mua bạt để che nắng che mưa.”
Cái nghề ṃ rong biển của họ chẳng biết c̣n được làm trong bao lâu nữa, v́ theo họ cho biết nghe đâu phong phanh chính quyền bắt đầu nghiêm cấm việc ṃ lặn rong biển, v́ đó là việc khai thác không được phép, nó làm nguy hại đến môi trường biển. Những loại giáp sát như: Tôm, cua, ghẹ... mà thức ăn chủ yếu là rong biển sẽ không sinh sôi nảy nở được. Chỉ nghe thế thôi cũng đă buồn. Chính quyền Việt Nam cứ thấy việc ǵ khuất tất là cấm đoán nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến việc sau khi cấm đoán th́ cuộc sống của người dân sẽ ra sao? Ít ra th́ họ cũng phải định hướng hoặc giúp đỡ những con người này có một công việc nào đó để có thể kiếm tiền đặng nuôi sống gia đ́nh của họ.
Bài và h́nh: Thanh Tú/Người Việt