Tàu sân bay Washington CVN73
Tàu sân bay hạt nhân USS George Washington CVN-73 thường được gọi tắt là tàu Washington, là tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp Nimitz thứ 6 của Mỹ. Hạ thủy năm 1990, tàu sân bay Washington là tàu chiến thứ 2 mang tên người sáng lập nước Mỹ George Washington, đồng thời cũng là một trong những loại vũ khí có uy lực lớn nhất toàn cầu hiện nay. Tàu Washington được biên chế vào Hạm đội 7 năm 2008, để thay thế cho tàu USS Kitty Hawk ngừng hoạt động. Tàu Washington là tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên đóng tại Nhật Bản, với cảng chính là Yokosuka ở tỉnh Kanagawa.
 |
Tàu sân bay hạt nhân USS George Washington CVN-73 thường được gọi tắt là tàu Washington, mang tên người sáng lập nước Mỹ George Washington. |
- Biên chế: 3.500 thủy thủ, 2.500 nhân viên hàng không, 72 lính thủy đánh bộ.
- Lượng choán nước: chuẩn 73.973 tấn, tối đa 102.000 tấn.
- Thân tàu: dài 332,8 m, rộng 40,8 m. Đường băng: dài 335,6 m, rộng 77,4 m. Mớn nước: 11,9 m.
- Vũ khí trang bị: 3 thiết bị phóng tên lửa hạm đối không Sea Sparrow, 4 hệ thống vũ khí cận chiến Phalanx, radar tìm kiếm đối không SPS-49.
- Máy bay: 10 – 14 chiếc máy bay chiến đấu F-14 Tomcat, 36 chiếc máy bay chiến đấu/tấn công F/A-18 Hornet, máy bay tác chiến điện tử EA-6B Prowler, máy bay cảnh báo sớm E-2C Hawkeye, máy bay chống tàu ngầm S -3B Viking, máy bay trinh sát điện tử ES-3A, máy bay trực thăng chống tàu ngầm SH-60F/HH-60H, 4 hệ thống phóng máy bay.
- Xăng dầu mang theo: 9.000 tấn.
- Thiết bị động cơ: 2 ḷ phản ứng hạt nhân A4W, 4 tuabin hơi nước.
- Công suất động cơ: 209.000 KW. Tốc độ tối đa: 35 hải lý/giờ.
Tàu sân bay Stennis CVN74
Tàu sân bay USS John C. Stennis CVN-74 hoặc gọi tắt là tàu sân bay Stennis, là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ 7 của Mỹ, hạ thủy năm 1993, biên chế chính thức ngày 9/12/1995, cảng chính là Bremerton ở Washington, hạm đội tàu sân bay Stennis là một trong những đơn vị vũ lực chủ lực của hải quân Mỹ ở nước ngoài.
Tàu sân bay USS John C. Stennis và liên đội máy bay số 9 của nó (CVW-9) có nhiệm vụ chính là có đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ chiến đấu liên tục trong các hành động quân sự toàn cầu. CVW-9 bao gồm 8 – 9 phi đội máy bay chiến đấu, sử dụng các loại máy bay như máy bay chiến đấu F/A-18 Hornet, máy bay tác chiến điện tử EA-6B Prowler, máy bay chống tàu ngầm S-3B Viking, máy bay cảnh báo sớm E-2C Hawkeye và máy bay trực thăng SH-60 Seahawk. CVW-9 có khả năng phá hủy các loại vũ khí như máy bay tác chiến, tàu chiến, tàu ngầm và mục tiêu mặt đất của đối phương, hoặc tiến hành nhiệm vụ thả mìn trên không từ xa. Vì vậy, nó thường được coi là lực lượng tấn công chủ yếu, chi viện cho chiến đấu mặt đất, bảo vệ an toàn cho hạm đội tàu sân bay và các chiến hữu khác, đồng thời còn có thể hoàn thành nhiệm vụ phong tỏa trên biển và trên đất liền.
 |
Tàu sân bay USS John C. Stennis CVN-74 hoặc gọi tắt là tàu sân bay Stennis. |
Khi làm nhiệm vụ thường trực, tàu sân bay Stennis thường đóng vai trò trung tâm của hạm đội tàu sân bay, hoặc thậm chí được sử dụng như là tàu chỉ huy, trong chiến đấu thường còn có 4 – 6 các loại tàu chiến khác hỗ trợ. Hai lò phản ứng hạt nhân giúp Stennis có khả năng chạy liên tục hầu như không hạn chế, tốc độ cao nhất đạt 35 hải lý/giờ. 4 máy phóng hơi nước và 4 cáp chắn trên tàu có thể đảm bảo cho máy bay cất/hạ cánh liên tục, còn đường băng xiên và diện tích đủ lớn có thể đồng thời tiến hành nhiệm vụ cất/hạ cánh của máy bay chiến đấu, nâng cao lớn hiệu suất tác chiến. Tuy bản thân sử dụng nguồn năng lượng hạt nhân là động lực, nhưng tàu Stennis vẫn mang theo khoảng 3 triệu gallon dầu nhiên liệu, chủ yếu là cung cấp cho máy bay và tàu hộ tống sử dụng.
Ngoài ra, nó còn cất trữ lượng lớn vũ khí đạn dược để đáp ứng nhu cầu phục vụ chiến đấu ở nước ngoài trong thời gian dài. Tàu Stennis có khả năng tự sửa chữa rất mạnh, trên tàu được phối thuộc một bộ phận duy tu để sửa chữa những máy bay bị hư hỏng giữa đường, một bộ phận sữa chữa trang bị vi điện tử và một vài bộ phận sửa chữa tàu chiến.
Về phương diện khả năng tự vệ, tàu Stennis ngoài việc dựa vào sự bảo vệ của liên đội máy bay số 9 và các tàu hộ tống khác, bản thân tàu này cũng được bố trí tên lửa phòng không tầm ngắn Sea Sparrow RIM-7 của NATO, hệ thống phòng thủ gần chống tên lửa Phalanx CIWS và hệ thống tác chiến điện tử SLQ-32.
Tàu sân bay Truman CVN75
Tàu sân bay USS Harry S. Truman CVN-75 là tàu sân bay động cơ hạt nhân lớp Nimitz thứ 8 của Mỹ, khởi công năm 1993, hạ thủy năm 1996, là một trong những siêu tàu chiến mới nhất thế giới. Tàu Truman đặt theo tên vị Tổng thống thứ 33 của nước Mỹ Harry Truman. Tàu này được biên chế cho Hạm đội Đại Tây Dương của Mỹ vào tháng 7/1998.
 |
Tàu sân bay USS Harry S. Truman CVN-75 đặt theo tên vị Tổng thống thứ 33 của nước Mỹ Harry Truman. |
- Biên chế: 3.500 thủy thủ, 2500 nhân viên hàng không, 72 lính thủy đánh bộ.
- Lượng choán nước: chuẩn 73.973 tấn, tối đa 105.500 tấn.
- Thân tàu: dài 332,8 m, rộng 40,8 m. Đường băng: dài 335,6 m, rộng 77,4 m. Mớn nước: 11,9 m.
- Vũ khí trang bị: 3 thiết bị phóng tên lửa hạm đối không Sea Sparrow, 4 hệ thống vũ khí cận chiến Phalanx, radar tìm kiếm đối không SPS-49.
- Máy bay: Máy bay chiến đấu/tấn công F/A-18 Hornet, máy bay tác chiến điện tử EA-6B Prowler, máy bay cảnh báo sớm E-2C Hawkeye, máy bay chống tàu ngầm S-3 Pirate, 4 máy phóng máy bay.
- Nhiên liệu cung cấp cho máy bay: 9000 tấn.
- Thiết bị động cơ: 2 ḷ phản ứng hạt nhân A4W, 4 tuabin hơi nước.
- Công suất động cơ: 209.000 KW. Tốc độ tối đa: 35 hải lý/giờ.
Tàu sân bay Ronald Reagan CVN76
Tàu sân bay USS Ronald Reagan CVN-76 là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ 9 của Mỹ, cũng là tàu sân bay đầu tiên của Mỹ sau khi bước vào thế kỷ 21. Con tàu này được hoàn thành hạ thủy năm 2001, được đặt theo tên vị Tổng thống Mỹ thứ 40 Ronald Reagan, cảng chính của tàu Reagan là San Diego, California, hiện nay phục vụ cho Hạm đội Thái B́nh Dương của quân Mỹ.
 |
Tàu sân bay USS Ronald Reagan CVN-76 được đặt theo tên vị Tổng thống Mỹ thứ 40 Ronald Reagan. |
- NATO code: biệt danh Reagan.
- Tàu cùng cấp: cvn68, cvn69, cvn70, cvn71, cvn72, cvn73, cvn74, cvn75, cvn76.
- Hệ thống vũ khí: 3 máy phóng tên lửa Mk29 Sea Sparrow, 4 pháo MK15, 1 phi đội F-14 Panda, 3 phi đội F/A-18 Hornet, 4 chiếc EA-6B Prowler, 4 chiếc E-2C Hawkeye, 6 chiếc S-3 Viking, 2 chiếc E3B Shadow, 8 chiếc SH-60F Seahawk, hệ thống điện tử SH-3F Neptune SPS49 (V) 5, SPS48E (V) 3D đối không, SPS 67V đối biển, SPS64 (V) 9 dẫn đường, SQS 23 sonar.
- Chiều dài: 332,8 m.Chiều rộng: 40,8 m.Mớn nước: 11,9 m.
- Lượng choán nước: chuẩn 73.973 tấn; tối đa: 105.500 tấn.Tốc độ tối đa: 32 hải lý/giờ.
- Công suất máy chính: 205.800 KW. Biên chế: 6.093 người. Số lượng máy bay: 80 chiếc.
Tàu sân bay Bush CVN76
Tàu sân bay hạt nhân George H.W.Bush gọi tắt là tàu sân bay Bush. CVN-77 là sự tiếp nối cải tiến của CVN-76, đường băng không thay đổi lớn như ý tưởng ban đầu, làm nền cho thiết kế cải tiến CVN-78. Đây là con tàu lớp Nimitz cuối cùng của Mỹ. Theo tiết lộ của nguồn tin cấp cao hải quân Mỹ, CVN-77 là tàu thử nghiệm CVX của thế hệ tàu sân bay mới, một số công nghệ sẽ dùng thử trên CVN-77, sau khi hoàn thiện sẽ dùng để chế tạo tàu CVX.
Ngày 9/12/2002, chiếc tàu sân bay này chính thức được đặt tên là Bush. Tàu dài 332 m, từ đường mớn nước của thân tàu trở lên cao khoảng tòa nhà 20 tầng, có thể chở gần 6.000 thủy thủ và thủy quân lục chiến. Tốc độ tối đa 30 hải lư/giờ, lượng choán nước tối đa trên 100.000 tấn, có thể mang theo tối đa 100 máy bay, chi phí chế tạo 6,2 tỷ USD.
 |
Tàu sân bay hạt nhân George H.W.Bush gọi tắt là tàu sân bay Bush. |
Tàu sân bay Bush từ khi chế tạo đến nay đã được 8 năm, khởi công từ năm 2003, làm lễ đặt tên năm 2006. Sau khi hoàn thành thử nghiệm trên biển, ngày 10/1/2009 làm lễ biên chế tại căn cứ hải quân Norfolk, bắt đầu phục vụ chính thức cho hải quân Mỹ.
Tàu Bush là tàu tiên tiến nhất trong những tàu sân bay lớp Nimitz. So với tàu sân bay Ronald Reagan CVN 76, tàu sân bay Bush đã được cải tiến mang tính thực chất và đã áp dụng nhiều công nghệ mới. Chẳng hạn, đã sử dụng hệ thống vệ sinh chân không trên biển mới, hệ thống phân phối nhiên liệu mới (cho máy bay), còn có một lượng lớn hệ thống điều khiển và vật liệu đường ống mới. Những cải tiến này sẽ làm giảm chi phí cho tuổi thọ tàu sân bay.
Tàu sân bay lớp Nimitz là tàu chiến lớn nhất thế giới hiện nay, cũng là tàu sân bay tiên tiến nhất, đặc biệt là tàu George Bush. Do chế tạo muộn, nó đã sử dụng công nghệ tiên tiến hơn, mức độ hiện đại hóa cao hơn. Về động cơ, hai lò phản ứng hạt nhân trên tàu có thể cung cấp cho tàu chiến hoạt động 20 năm mà không cần thêm nhiên liệu.
Về mặt phòng thủ tự vệ, dù cho phòng thủ dưới nước, phòng thủ đối với tên lửa chống hạm, nó đều được coi trọng hơn, bao gồm hai mạn tàu, đáy tàu, kho chứa máy bay, đường băng đều có kết cấu 2 tầng, trong tàu có hàng chục vách ngăn kín nước dày, bộ phận dưới nước được tăng dày cho sàn tàu, khoang chống ngư lôi nhiều tầng.
Về phương diện khả năng tấn công, nó có thể mang nhiều nhất là gần 100 máy bay và có nhiều hệ thống phóng tên lửa đối không và pháo phòng thủ gần.
Do trong tương lai Mỹ sẽ thực hiện phương án thiết kế tàu sân bay hoàn toàn mới, cho nên là tàu sân bay cuối cùng thiết kế theo kiểu cũ, tàu George Bush đã thể hiện được nhiều công nghệ mới nhất hơn, ví dụ nó sở hữu radar và thiết bị dẫn đường tiên tiến hơn, dây cáp và ăng-ten đều được lắp đặt ở bên trong, từ đó làm nổi bật hơn khả năng tàng hình; mức độ quản lý tự động hóa của nó cao hơn, thức ăn vận chuyển 1 lần trên tàu có thể cung cấp cho 6000 binh sĩ cả tàu sử dụng trong vòng 90 ngày.
Tàu sân bay lớp Nimitz đầu tiên là Nimitz CVN-68 được biên chế năm 1975, tàu sân bay thứ 9 là Ronald Reagan CVN-76 được đưa vào sử dụng năm 2003, tàu sân bay tiếp theo là Gerald Ford CVN-78 sẽ được chế tạo theo phương án mới “tàu sân bay thế kỷ 21”. Tàu sân bay lớp Nimitz là tàu chiến lớn nhất thế giới, lượng choán nước vượt 100.000 tấn, dài 330 m, tốc độ trên 30 hải lư/giờ, mang theo tối đa gần 100 máy bay, trong điều kiện bình thường mang theo 60-70 máy bay và trực thăng.
Đức Trọng (
Tổng hợp)
theo KHĐS