Trong khi cộng đồng quốc tế đổ dồn chú ư cho những diễn biến tại khu vực biển Đông và châu Á - Thái B́nh Dương, Trung Quốc lại có những động thái thâm nhập sâu hơn vào Ấn Độ Dương. Kế hoạch xây dựng căn cứ hải quân ở Seychelles chính là bước đệm mới trong chiến lược can dự Ấn Độ Dương của Bắc Kinh.
Can dự bằng kinh tế
Bằng cách tăng cường sự có mặt và ảnh hưởng trên đất liền ở các nước trong khu vực, Bắc Kinh dần thắng thế so với Ấn Độ tại khu vực Ấn Độ Dương.
Sự hiện diện của Trung Quốc tại các quốc gia ven Ấn Độ Dương không ngừng tăng lên thông qua các chương tŕnh hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, sân bay, thành phố kinh tế và thương mại ở Maurtius; xây dựng sân bay quốc tế và cảng thương mại Hambantota, mở rộng và hiện đại hoá cảng Colombo, sửa chữa và xây dựng đường bộ và đường sắt ở Sri Lanka; xây dựng hải cảng mới tại Kyaukryu tới tỉnh Vân Nam để có thể chuyển khí đốt và dầu mở sản xuất tại Myanmar cũng như dầu mỏ do các tàu chở dầu chuyển từ khu vực Tây Á và châu Phi thẳng về Trung Quốc mà không cần phải đi qua eo biển Malacca; và xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc kết nối Rănggun với Vân Nam.
Trung Quốc cũng đang thương lượng với Bangladesh về hiện đại hoá cảng Chitagong và kết nối hệ thống đường sắt của Bangladesh với hệ thống đường sắt của Myanmar.
Trong chuyến thăm Maurtius hồi tháng 2/2009, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tuyên bố cho nước này vay 260 triệu USD với lăi suất thấp để hiện đại hoá và mở rộng sân bay ở nước này. Ngoài ra, ông c̣n công bố khoản cho vay không tính lăi trị giá 5,9 triệu USD và viện trợ không hoàn lại 30 triệu nhân dân tệ. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào c̣n cam kết đẩy nhanh việc xây dựng khu vực kinh tế và thương mại trị giá 730 triệu USD do Trung Quốc cấp vốn ở khu vực phía Bắc Maurtius.
Tàu hải quân Seychelles cập cảng.
Từ năm 1972 tới chuyến thăm của ông Hồ Cẩm Đào 2/2009, tổng số tiền trợ giúp của Trung Quốc dành cho Maurtius là 117 triệu USD. Giới phân tích nhận định, mục tiêu của Trung Quốc là sử dụng Maurtius như một bàn đạp phục vụ cho các dự án xây dựng và kinh doanh tại miền Nam châu Phi.
Tuy nhiên, chỉ sử dụng công cụ kinh tế chưa đủ để đảm bảo và mở rộng lợi ích, ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với các nước Ấn Độ Dương. Lănh đạo Bắc Kinh cho rằng, Trung Quốc cần có một căn cứ quân sự - đặc biệt là căn cứ hải quân - tại khu vực này, từ đó làm bàn đạp để thâm nhập sâu hơn.
Trong thời gian dài, Trung Quốc bén rễ sâu hơn vào khu vực này thông qua các dự án cung cấp vũ khí và thiết bị quân sự có ư nghĩa chiến lược cho Pakistan, Sri Lanka và Myanmar. Đặc biệt, kế hoạch xây dựng căn cứ hải quân ở quốc đảo Seychelles là một bước ngoặt trong chiến lược quân sự của Trung Quốc. Bởi đây là căn cứ quân sự ở nước ngoài đầu tiên của Bắc Kinh, được xây dựng tại khu vực có vị trí địa chiến lược quan trọng.
Seychelles - căn cứ tiền tiêu?
Ngày 1/12 vừa qua, một phái đoàn 40 người của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) do Bộ trưởng Quốc pḥng Lương Quang Liệt dẫn đầu thăm quốc đảo Seychelles, đạt được thỏa thuận xây dựng một căn cứ hải quân hỗ trợ các chiến dịch chống cướp biển.
Seychelles là một trong những địa điểm chiến lược tại Ấn Độ Dương, nằm trên những tuyến hàng hải quan trọng kết nối châu Á, châu Âu và Trung Đông. Bộ Quốc pḥng Trung Quốc nêu rơ động thái trên không đồng nghĩa với việc xây căn cứ quân sự tại Ấn Độ Dương. Bắc Kinh khẳng định tàu hải quân Trung Quốc sẽ hoạt động “minh bạch và không gây lo ngại cho các nước khác” tại khu vực này. Tuy nhiên, động thái này khiến nhiều nước, đặc biệt là Ấn Độ hết sức quan ngại.
Trước đó, vào đầu năm nay, Bắc Kinh đă tặng hai máy bay do thám Y-12 cho đảo quốc Seychelles trong khuôn khổ một thỏa thuận hỗ trợ quốc pḥng năm 2004. Tiếp đó, tháng 4/2011, hai tàu khu trục của Trung Quốc cũng viếng thăm quốc đảo này.
Không thể chấp nhận
Giới phân tích nhận định, dù các chiến dịch chống cướp biển ở khu vực ngoài khơi Somali và vịnh Aden là rất quan trọng, không chỉ đối với Trung Quốc mà đối với tất cả các tàu thương mại đi qua khu vực này, nhưng việc Bắc Kinh xây dựng một căn cứ hải quân ở quốc đảo Seychelles là điều không thể chấp nhận được.
Các chuyên gia lập luận rằng, các chiến dịch chống cướp biển và xây dựng các căn cứ hải quân là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Đối với chiến dịch chống cướp biển, hợp tác với hải quân các nước khác là điều thường thấy; do đó có thể nhận được hỗ trợ về mặt hậu cần từ các nước bạn bè trong khu vực thực hiện chiến dịch. Các tàu hải quân Trung Quốc tận dụng vấn đề này từ khi triển khai các tàu tới thực hiện sứ mệnh tại khu vực bờ biển ngoài khơi Somali từ cuối năm 2008.
Sự tạm ngừng chiến lược
Vào giữa những năm 1990, một tài liệu về chính sách chiến lược của Trung Quốc cho rằng, Bắc Kinh nên triển khai ngoại giao quân sự với các quốc gia nhỏ khu vực Ấn Độ Dương để thâm nhập vào các nước này. Với việc đưa ra các chương tŕnh viện trợ kinh tế và ủng hộ các trang thiết bị quân sự, Trung Quốc có thể gia tăng ảnh hưởng tại khu vực này. Tài liệu đó gọi đây là “cái giá của t́nh bạn”.
Gia tăng can dự và ảnh hưởng ở các quốc gia vành đai Ấn Độ Dương là một chiến lược lớn của người Trung Quốc, được tiết lộ trong các tài liệu quân sự của nước này trong năm 2004. Theo chiến lược đó, Trung Quốc sẽ giành vị trí thống trị khu vực, kéo dài từ Ấn Độ Dương sang Thái B́nh Dương. Trong thập kỷ qua, tham vọng của chiến lược quân sự này đă được giới lănh đạo Bắc Kinh bộc lộ, bao gồm việc tuyên bố toàn bộ chủ quyền ở biển Đông thông qua các biện pháp quân sự.
Trung Quốc cũng xây dựng cảng nước sâu Gwadar ở Pakistan. Xét đến quan hệ gần gũi giữa hai nước, đặc biệt là quân đội hai bên, Trung Quốc có thể sử dụng các cơ sở căn cứ ở Pakistan vào bất cứ thời điểm nào. Tuy nhiên, Trung Quốc được cho là đă có sự tạm ngừng chiến lược trong tham vọng xây dựng các căn cứ quân sự/hải quân ở Pakistan, Sri Lanka, Bangladesh và Myanmar. Điều này xuất phát từ quan điểm đại cục của giới lănh đạo Bắc Kinh. T́nh h́nh chính trị diễn biến phức tạp ở biển Đông không có lợi để Trung Quốc thực hiện chiến lược này.
Tuy nhiên, đây chỉ là sự tạm ngừng. Sau cái chết của trùm khủng bố al Qaeda Osama bin Laden ở Pakistan vừa qua, tiếp sau đó là sự căng thẳng trong quan hệ song phương Mỹ - Pakistan, Bộ trưởng Quốc pḥng Pakistan Mukhtar Abbas đă công khai mời gọi Trung Quốc xây dựng một căn cứ ở Pakistan. Tuy nhiên, Bắc Kinh từ chối đề nghị này.
Thoạt nh́n, đây có thể là điều vô lư, v́ tại sao Trung Quốc không tận dụng cơ hội đó để kéo Pakistan gần hơn nữa về phía ḿnh. Tuy nhiên, lời từ chối đó đă được giới lănh đạo Bắc Kinh suy đi tính lại kỹ lưỡng. Bắc Kinh không muốn điều này phá hoại quan hệ Mỹ - Trung vốn cơm chẳng lành canh chẳng ngọt.
Hơn nữa, điều đó không phù hợp với quan điểm chống khủng bố của Bắc Kinh. Trung Quốc không thể khuyến khích Pakistan sử dụng những phần tử hồi giáo cực đoan. Những người Hồi giáo ly khai Duy Ngô Nhĩ ở Trung Quốc nhận được sự hậu thuẫn và lẩn trốn ở Pakistan. Do đó, nếu lợi dụng cơ hội này để tăng cường quan hệ với Pakistan, Trung Quốc vừa phá hỏng quan hệ với Mỹ, vừa tạo cớ cho các phần tử Hồi giáo ly khai hoạt động.
Bằng cách tăng cường sự có mặt và ảnh hưởng trên đất liền ở các nước khu vực, Trung Quốc bước đầu thắng thế so với Ấn Độ. Hải quân Trung Quốc hiện vẫn chưa thể sánh với sự hiện diện trên biển của hải quân Ấn Độ ở khu vực Ấn Độ Dương; tuy nhiên sự có mặt và ảnh hưởng của Trung Quốc tại các nước khu vực sẽ tạo ra thách thức ngày càng tăng đối với chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
Thế Phương
Theo ĐấtViệt