Huyện Quan Hóa gửi công văn hỏa tốc đề nghị được cứu đói
Nhiều nông dân xứ Thanh lại đối mặt với cái đói. Toàn tỉnh Thanh Hóa hiện có 12 huyện với 66.537 nhân khẩu đang thiếu lương thực. Ước tính, số gạo cần được cứu tế cho đồng bào thiếu đói là 1.522 tấn. Các hộ đói tập trung ở các huyện miền núi và vùng ven biển. Trong đó khu vực miền núi chiếm số đông.
Đói đến nỗi anh Kiếp phải đếm từng củ sắn trên gác bếp để phân chia cho 4 miệng ăn được 3-5 ngày tới
Bà Phạm Thị Hoa – PCT UBND huyện miền núi Quan Hóa vừa có công văn hỏa tốc gửi Chủ tịch UBND tỉnh về việc đề nghị được cứu đói cho nhân dân trong thời kỳ giáp hạt tháng 3. Công văn này cho biết, toàn huyện hiện có 18 xă, thị trấn có số hộ đói đến mức báo động đỏ với tổng số 922 hộ (4.610 nhân khẩu). Trước t́nh h́nh cấp bách người dân hết gạo ăn, các loại lương thực khác như khoai, sắn, ngô cũng đang cạn kiệt dần nên lănh đạo huyện Quan Hóa đề nghị tỉnh cứu tế cho nhân dân 207.450 kg gạo trong thời gian 3 tháng với 1 khẩu 15kg/tháng.
Theo PCT Phạm Thị Hoa th́ t́nh h́nh đói của nhân dân vượt quá khả năng cứu tế của huyện nên rất cần sự cứu trợ của tỉnh. Tuy nhiên, đă sau 10 ngày, hiện công văn này chưa nhận được phúc đáp từ phía cấp trên, đồng nghĩa cái đói của đồng bào cứ thế kéo dài thêm.
Có mặt tại các xă Thanh Xuân, Phú Sơn, Phú Thanh, Trung Sơn, Nam Tiến và Nam Động của huyện Quan Hóa những ngày này mới thấm thía được cái đói đến lay lắt biết nhường nào của đồng bào. Nguyên nhân chính dẫn đến t́nh trạng đói kéo dài thời gian qua là do người dân ở đây thiếu đất sản xuất để có thể tự túc lương thực. Như xă Thanh Xuân có gần 8 ngàn ha đất tự nhiên nhưng chỉ có 30ha đất nông nghiệp. Vậy th́ rất khó để đảm bảo nguồn lương thực cho 2.450 nhân khẩu trong xă hiện nay.
Bên cạnh đó là địa h́nh phức tạp, đường sá đi lại khó khăn, dân trí thấp, con em ít được học văn hóa và học nghề v́ hoàn cảnh gia đ́nh khó khăn; thêm vào đó là đẻ nhiều đă khiến cho cuộc sống của đồng bào nơi rẻo cao này khó khăn chồng chất. T́nh trạng thiếu đất sản xuất nông nghiệp là thực trạng chung ở hầu hết các xă ở huyện Quan Hóa. C̣n diện tích nương rẫy gieo trồng ngô, lúa nương trong các năm 2010-2011 lại bị hạn hán kéo dài, mất mùa trên diện rộng nên bà con nông dân chưa thể tự túc được lương thực.
Vượt hơn 180km từ TP Thanh Hóa, chúng tôi đă đến được với đồng bào dân tộc bản Tân Sơn, xă Thanh Xuân, huyện Quan Hóa. Con đường từ trung tâm xă vào bản chỉ có 4km nhưng đi mất nhiều thời gian. Xe máy cứ lên số 2 về số 1 gầm rú, qua hết chỗ cua khúc khuỷu này lại qua chỗ cua tay áo kia. Cứ thế sau nhiều đoạn cua thót hết cả tim v́ suưt ngă, chúng tôi mới đến được bản Tân Sơn. Ông Hạt – PCT xă thở phào sau khi xe đỗ trước nhà trưởng bản: “Hôm nay trời nắng c̣n đi vào được sớm chứ gặp phải trời mưa th́ sáng đi, chiều mới tới nơi v́ không những không chạy được xe máy mà đi bộ cũng hết sức khó khăn”.
Cũng với câu chuyện về đường sá, trưởng bản Phạm Bá Cập bày tỏ: “Ở miền xuôi các xă có điều kiện lại được DN tham gia góp kinh phí cùng nhân dân xây dựng nông thôn. Ở đây vốn dĩ khó khăn, không có DN tài trợ, năm vừa rồi, cả bản quyết tâm măi mới góp được mỗi hộ 200 ngàn để thuê máy ủi vào đây tạo h́nh hài một con đường để có chỗ đi lại”.
Rít điếu thuốc lào, mịt mù khói bay, trưởng bản Cập tâm sự: “Đất ít, đá nhiều đă hạn chế rất lớn đến phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống của đồng bào. Cả bản có 57/138 hộ đói nghèo và riêng thời điểm này có 30 hộ đói lay lắt không thể kiếm đâu ra lương thực mà ăn”.
Được trưởng bản dẫn đường, chúng tôi đến thăm nhà anh Phạm Bá Kiếp, 45 tuổi, một trong những gia đ́nh khó khăn nhất hiện nay của bản.

Căn nhà tuềnh toàng của anh Phạm Bá Kiếp
Trong căn nhà tuềnh toàng, rách nát ấy, bố con anh Kiếp đang chuẩn bị bữa tối bằng việc lấy sắn trên gác bếp xuống để nấu. Anh Kiếp cho hay: “Nhà có 4 người mà sắn không c̣n nhiều nên phải tính xem c̣n bao nhiêu củ để chia cho từng người trong mấy bữa ăn”. Theo lời anh Kiếp th́ mỗi bữa, một người chỉ được một củ sắn luộc mà thôi. Nếu như vậy th́ chừng ấy sắn trên gác bếp của nhà anh may chỉ đủ kéo dài 3-5 ngày nữa là cùng. Trong khi nhà không c̣n thóc, gạo, chẳng có ngô, khoai ǵ cả. Ở cái tuổi trung niên ấy, ở dưới xuôi người ta khỏe mạnh có thể làm được nhiều việc nặng nhưng với anh Kiếp chỉ việc đứng dậy lấy mấy củ sắn mà lập cập không vững. Thiếu gạo, ngày ngày ăn sắn đă làm sức lực anh ngày một kiệt quệ.
Chúng tôi đến nhà anh Cao Văn Nhâm cùng bản với anh Kiếp. Ngôi nhà sàn lợp bằng lá cọ đă dột nát của anh Nhâm rộng chừng vài chục mét vuông nhưng trong đó có 6 người sinh sống. V́ hoàn cảnh khó khăn nên đứa con gái lớn đă bỏ học, ở nhà trông em, giúp bố mẹ làm việc đồng áng. Quần quật quanh năm với một sào ruộng lúa và mấy sào sắn, ngô nhưng lương thực vẫn không đủ cho cả gia đ́nh ăn. Anh Nhâm cho hay, gia đ́nh chỉ có thể tự túc được gạo trong khoảng 2-3 tháng. Thời gian c̣n lại trong năm là sắn và ngô.
Anh Cao Văn Nhâm đang bón từng miếng sắn cho hai đứa con nhỏ ăn thay bữa cơm tối
Mỗi bữa ăn của những gia đ́nh nghèo đói ở miền tây Thanh Hóa như bản Tân Sơn mà tôi bắt gặp luôn chỉ có màu bàng bạc sắn và khoai lang. Than ôi, so hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng trong những vụ bê bối liên quan bọn tham nhũng, bọn cơ hội, những đám cưới xa xỉ, những nhóm lợi ích con ông cháu cha dây mơ rễ má mà báo chí vẫn liên tục, liên tục đề cập – chúng ta sẽ thấy một nỗi đau cứa vào thịt da mỗi người. Và không bất ngờ khi đồng nghiệp của tôi phải ngồi sụt sùi khóc với câu hỏi tương lai của đám trẻ nơi đây sẽ ra sao. Đâu là cái văn hóa v́ cộng đồng, cái lư của lối sống bác ái bật ra từ nỗi ám ảnh ấy, từ phép so sánh ấy…
Thương nhất là lũ trẻ, chúng chẳng có đủ cơm. Đứa con út của anh hơn hai tuổi, mắt vàng như củ nghệ cắt đôi, ho hanh hách nước mắt choèn ra nhoẹt ướt đôi má xanh phù, ọng nước. Thấy có người lạ, chúng cứ trố mắt ra nh́n. Trong gian nhà bé nhỏ ấy hiển hiện góc bếp choán gần hết nửa diện tích. Căng mắt lên một chút có thể thấy nồi niêu, dao rựa lổn nhổn giữa đống ḥm xiểng lăn lóc ở xó nhà. Mùi cứt gián, mùi ẩm mốc, mùi nước đái trẻ con khai khai.
Xung quanh bếp lửa, các con của anh đang háo hức chờ đợi một sự sống nào đó từ trong cái nồi có vẻ to bự kia. Ngọn lửa bốc cháy cao hơn, mùi sắn chui qua khe hở của vung thơm ngọt làm bụng tôi cũng cồn cào huống hồ chi bọn trẻ.
- Sắn cháy. Tôi buột miệng.
Cháy một chút mới ngon, anh bảo thế và nhắc nồi xuống rồi đổ úp vào một cái rổ con con. Anh Nhâm nói: “Nhà hết gạo lâu rồi, cả tháng nay lũ trẻ đều ăn sắn như thế cả. Mời các chú ăn sắn cùng với bố con tôi”. Đồng bào dân tộc vậy đó, đói nhưng sẵn sàng san sẻ. Tôi nh́n bọn trẻ, khuôn mặt của chúng như sáng hẳn lên trong ánh lửa. Thấy lũ trẻ h́ hục vừa thổi phù phù vừa cắn ngốn ngấu những miếng sắn mới luộc tôi thấy thương chúng cả tháng nay không biết hạt cơm tṛn hay méo. Nh́n chúng h́ hục ngốn từng miếng sắn mà ḷng tôi quặn thắt và thầm nghĩ biết lúc nào th́ dân Tân Sơn có đủ cơm gạo ăn hằng ngày, áo quần ấm áp quanh năm?!
Ước ao có một bữa cơm no của mấy đứa trẻ ở bản Tân Sơn thật khó khăn. Các cháu c̣n nhỏ, bố mẹ vẫn lam lũ nhưng không đủ gạo. Tôi dám chắc rằng sẽ c̣n có rất nhiều đứa trẻ ở nơi này đang có những khát khao như thế, chúng không ước ao ǵ khác ngoài được bữa cơm no thay cho khoai và sắn. Chẳng lẽ cái dạ dày và sự háu đói của các cháu đă quen với sự đạm bạc măi thế sao? Ăn vẫn ngon, vẫn hết vèo cả củ sắn lớn hơn tay chân của chúng. Những năm tháng thơ ấu vẫn có vẻ như an b́nh dù các cháu hầu như không biết đến thịt, trứng, sữa hay thứ lương thực, thực phẩm nào khác ngoài cơm trắng một vài tháng, trong khi khoai, sắn lại cứ dài dài…
Văn Hùng
Nguồn: nongnghiep.vn