Một cựu binh Úc từng tham gia chiến tranh Việt Nam đă lưu giữ bài thơ của một người lính Việt Nam trong suốt 40 năm và canh cánh, khắc khoải chừng đó năm về người lính, về bài thơ, về cuộc chiến mà khi tham gia ông chỉ có những hiểu biết "nhảm nhí".
Vào thời gian cựu binh Úc tới Việt Nam, một trong những “kẻ thù” bên kia chiến tuyến của ông được cử ra trận đă dừng lại sau một đêm hành quân. Người lính ngồi xuống, mang cây bút và cuốn vở học sinh ra và viết lên đó một bài thơ. Người lính đă gọi đó là “Lá thư xuân” và gửi nó cho “t́nh yêu của tôi nơi quê nhà”.
Wildeboer của hiện tại.
T́nh yêu của người lính không bao giờ được thấy bài thơ và nét vẽ tinh tế trên đó. Nhưng binh sỹ Úc đă được thấy, mặc dù ông không thể đọc, nhưng hiểu rơ ư nghĩa lớn lao của bài thơ.
Ngoài t́nh yêu, người lính Việt Nam viết về nghĩa vụ yêu nước thiêng liêng của ḿnh, về mặt trận, về đêm trước cuộc chiến mà anh hi vọng sẽ đánh bại được giặc ngoại xâm, chúng sẽ “bị chôn xuống bùn đen”. Anh đă viết bài thơ bằng nét chữ nghiêng phóng khoáng, trang trí bên trên bài thơ bằng một bức vẽ với con chim nhỏ đậu trên cành cây mảnh dẻ nở đầy hoa.
Người lính Việt Nam đă không sống để được thấy những ǵ anh mong ước, thậm chí khi giặc ngoại xâm đă bị đánh đuổi. Anh có thể đă nằm trong đất mẹ.
Lá thư Xuân trong cuốn sổ của người lính họ Phan.
Người lính Úc cũng không được chứng kiến chiến tranh kết thúc. Đến nay ông vẫn không được thấy, mặc dù vẫn sống và đă trở về nước, mang theo bài thơ của người lính bên kia chiến tuyến.
Người lính Úc đó là Laurens Wildeboer. Ông đến miền nam Việt Nam vào tháng 1/1968, khi 20 tuổi, để ở bên kia chiến tuyến của Việt Cộng. Phan Van Ban, người lính viết bài thơ, là một trong những chiến sỹ Việt Cộng. Tháng 1/1968, anh cũng 20 tuổi.
Vào thời điểm người lính viết “Lá thư xuân”, quân ta đang tiến hành một cuộc tổng tấn công, cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Cuộc chiến đă khiến nhiều chiến sỹ họ Phan ngă xuống, song quy mô và sức tấn công của nó đă khiến quân Mỹ (và cả Úc) choáng váng và nó đă trở thành ngă rẽ chính trị quan trọng trong cuộc chiến.
Wildeboer chưa bao giờ gặp người lính Phan Van Ban đó, và mới gần đây ông vẫn không hề biết tên của anh, nơi anh sinh, liệu anh có gia đ́nh hay không – mặc dù ông đă canh cánh suốt 40 năm.
Nhưng trong suốt 40 năm ấy, ông đă giữ bài thơ viết tay của người lính Việt Nam, một cuốn sổ với chi tiết về cuộc đời anh, cùng một chiếc khăn quàng, mà ông nhặt nhạnh từ chiến trường người lính họ Phan đó ngă xuống vào tháng 3/1969.
Wildeboer, giờ đây đă 64 tuổi và đang sống ở Kyneton cùng với vợ Roni. Việt Nam, cuộc chiến không bao giờ nguôi ngoai trong ông. Đến cuối tháng này, ông sẽ trở lại Việt Nam, đất nước ông đă lần đầu tiên đặt chân đến từ 43 năm trước.
Ông sẽ mang theo cuốn sổ và chiếc khăn, bởi giờ đây ông đă biết người lính Phan là ai. Ông biết người lính Phan có một gia đ́nh, và mẹ người lính Phan vẫn c̣n sống. Tên bà là Nguyen Thi Hieu, hiện đă 85 tuổi. Ông sẽ trả lại cho bà những ǵ của con trai bà. Ông hi vọng bà sẽ được an ủi phần nào và bản thân ông sẽ được thanh thản đôi chút.
Hành tŕnh đến với bài thơ
Những vần thơ trong trang nhật kư của người Việt Nam ông Wildeboer lưu giữ.
Làm thế nào Wildeboer có được và giữ được những bài thơ của người lính Phan là cả một câu chuyện. Và làm thế nào những cựu binh Việt Nam có thể t́m ra danh tính và t́m ra gia đ́nh người lính họ Phan lại là một câu chuyện khác.
Năm 17 tuổi Wildeboer gia nhập quân đội v́ hiếu kỳ. Ông không hề có chút khái niệm nào về cuộc chiến đang bùng nổ ở Việt Nam. “Tôi không biết ǵ hết”, ông nói. “không một chút nào. Tôi không biết rằng một số kẻ nhẫn tâm thực ra muốn đưa tôi đến một cuộc chiến và cuối cùng là bắn vào mọi người”.
Tất cả những ǵ ông biết là những ǵ ông được nói: “Tất cả những chuyện nhảm nhí về mối đe dọa của Việt Cộng, những từ xúc phạm họ dùng để làm mất tính người trong cuộc huấn luyện của họ”.
Tại Việt Nam ông ở trong đội Kỹ sư điện máy hoàng gia Úc, sửa chữa và bảo dưỡng những thiết bị lớn, như xe tăng. Nh́n nhận của ông về cuộc chiến bắt đầu thay đổi và ông bị giằng xé giữa những ǵ đă được dội vào tai khi huấn luyện và những ǵ thực sự nh́n thấy. Ông đă tự nhủ: “tôi chỉ là du khách”. Và đó là cách ông tự tách ḿnh ra khỏi những ǵ đang diễn ra xung quanh ông.
Vào tháng 3/1969, ông đóng gần căn cứ Mỹ ở Long B́nh, đông bắc Sài G̣n khi đó.
“Chúng tôi ở đó vài ngày và có rất nhiều cuộc giao tranh xảy ra. Một ngôi làng địa phương đang bị tấn công. Tất cả những thứ vớ vẩn này lởn vởn quanh đầu tôi…”, ông dừng lại.
“Tôi nghĩ sáng hôm sau khi lính bộ binh trở lại, tôi nghĩ họ là người Australia, sẽ có một đống đồ họ để lại gần căn cứ của chúng tôi. Và chuyến du lịch của tôi sắp kết thúc. Tôi nghĩ tôi sẽ vớ một số đồ.”
Đồ mà ông nói đến gồm cả vũ khí, ba lô của những người lính bên kia chiến tuyến được lấy từ chiến trường. Cũng có cả những cuốn nhật kư có thể hữu ích cho thông tin t́nh báo. Nhưng một cuốn sổ thơ và những h́nh ảnh đẹp không có giá trị cho quân Mỹ, Úc.
“Tôi đă giở qua những cuốn sổ”, Wildeboer. “Tôi chỉ nh́n vào đó và ngay lập tức cảm thấy t́nh người ẩn chứa bên trong. Nh́n vào những nét bút tuyệt đẹp và bài thơ, tôi càng bị thôi thúc: “Tại sao chúng tôi ở đây, gây ra sự đổ vỡ này?”
Nhưng ông đă ở trong quân ngũ đến tận năm 1985, về hưu sau 20 năm và 3 ngày phục vụ. Năm 1992, ông bị chẩn đoán rối loạn stress hậu sang chấn.
Nỗi dằn vặt 40 năm
Wildeboer trong một lần chuẩn bị đi tuần ở Việt Nam năm 1968.
Trong suốt bấy nhiên năm, ông đă canh cánh về người lính đă viết những bài thơ. Ông đă canh cánh làm thể nào để có thể gửi lại những cuốn sổ tay và chiếc khăn cho người đáng giữ chúng.
Rồi sau đó, vào khoảng ngày Anzac (25/4) năm ngoái, ông đă đọc được bài viết trên tờ
The Sunday Age về công việc của những cựu binh như ông, hiện giờ là những nhà nghiên cứu khoa học. Họ đă làm bản đồ mộ của những người Việt Nam đă chết và khuyến khích các cựu binh trả lại thư, nhật kư cùng ảnh họ đă lấy trong chiến trường.
Các nhà nghiên cứu là Bob Hall và Derrill de Heer tại trung tâm nghiên cứu xung đột vũ trạng và xă hội Úc tại Đại học New South Wales, Học viện quốc pḥng Úc.
V́ vậy Wildeboer đă liên hệ với họ. Đổi lại, họ cho ông gặp Ernie Chamberlain, nhà ngôn ngữ tiếng Việt, cựu thiếu tướng và từng làm t́nh báo trong quân đội Úc.
Chamberlain đă giúp xác định danh tính, đơn vị của người lính Phan, đơn vị trinh sát đặc nhiệm được biết đến với cái tên C205.
Người lính Phan tham gia du kích năm 1963, tự miêu tả ḿnh là một “nông dân nghèo”. Và cuốn sổ ghi những chi tiết cá nhân có tên của cha mẹ người lính. Người lính đă được nhận giấy khen trong trận chiến chống Mỹ vào năm 1967. Anh em trai của người lính Phan, cũng là một chiến sỹ Việt Cộng, đă hi sinh trong cuộc chiến năm 1965. Và người lính đó thú nhận có hai điểm yếu: “dễ buồn” và “dễ nóng giận”.
Những nhà nghiên cứu đă liên lạc tiếp với một thượng tá về hưu ở Việt Nam, Nguyễn Thị Tiến, người dành suốt nhiều thập niên qua để t́m kiếm những người đă mất trong chiến tranh và trả lại hài cốt cho gia đ́nh họ.
Người mẹ của người lính họ Phan trong bức ảnh chụp cùng người thân của bà.
Từ Hà Nội, bà xác nhận danh tính của người lính Phan và cho biết mẹ anh vẫn c̣n sống. Ngoài ra bà c̣n có 2 người con gái và 2 cháu gái. Song bà rất yếu và gần đây đă phải nằm viện.
Do bà đă cao tuổi, nên rất cần phải trả lại những vật dụng của con trai bà ngay. Với Wildeboer, việc t́m lại được người thân của người lính Phan đă giúp ông vượt qua được mặc cảm tội lỗi ông mang từ trong chiến tranh, mặc cảm khiến ông không dám trở lại Việt Nam.
Khi được hỏi ông cảm thấy có lỗi về điều ǵ, ông nói: “Sự đổ vỡ. Giết chóc ở một nước Thứ Ba, hầu hết là làng mạc. Chúng tôi đă đi qua và dùng tất cả những thiết bị đồ sộ và tinh vi của chúng tôi. Chúng tôi lái qua những cánh đồng lúa, hất đổ hàng rào. Chúng tôi phá hủy làng mạc của họ. Hủy hoại người dân c̣n kinh tởm hơn”.
Khi được hỏi khi nào ông sẽ trở lại, ông cho biết: “Rất khó nói. Nhưng đó là điều tôi phải làm, cố t́m chút b́nh yên, giống như bạn, bởi trong tôi không có nhiều b́nh yên”.
“Khi Derrill de Heer nói với tôi họ đă t́m thấy người mẹ, điều quan trọng nhất với tôi là trả lại những cuốn sổ cho bà. Liệu điều đó kỳ lạ hay không, tôi không biết là dùng từ ǵ, nhưng tôi đă có mối liên hệ này và tôi muốn trả lại những thứ đó cho người mẹ, cho gia đ́nh”.
Wildeboer cũng được vợ Roni động viên. Bà có mối liên hệ với Việt Nam theo cách riêng, với tư cách là người thành lập “Các nghệ sỹ mồ côi”, một tổ chức từ thiện gây quỹ cho những em nhỏ mồ côi Việt Nam.
Bà muốn ông thực hiện chuyến đi, nhưng bà cũng rất lo lắng. “Tôi lo cho ông ấy”, bà nói. “Nhưng tôi hi vọng ông ấy sẽ tới đó và thấy “Ồ, Việt Nam thật đẹp”. Tôi hi vọng điều đó sẽ cho ông ấy chút thanh thản”.
Lá thư xuân
Từ buổi ấy xa em biền biệt
Thấm thoát thoi đưa mấy độ xuân về
Hỡi em yêu c̣n ở chốn quê
Chắc ngoài ấy đang tung trời vui cánh én
Viết thư cho em đầu xuân sáu tám
Ngoài quê hương em đang rét run người
Xuân trong này cũng lạnh lắm em ơi
Đừng khóc nữa nhớ anh nhiều em nhé
Nhớ buổi ra đi nh́n nhau lặng lẽ
Giọt lệ sầu thương cho tiếng tiễn đưa
Mà hôm nay đă mấy độ xuân về
Nhớ em lắm
Nhớ quê hương đang bừng nổi dậy
Tàu chiến Mỹ ăn đ̣n bốc cháy
Giặc nhà trời cũng vùi xác biển đen
C̣n trong này anh đứng giữa tiền duyên
Giao thừa đến vui tiếng kèn xung trận”
Đêm hành quân mừng xuân sáu tám
Vắng đào thơm mà ngát nhụy mai vàng
Trên người anh rung cành lá ngụy trang
Theo nhịp bước đoàn quân xuống đường quyết thắng.
Đón xuân
Bính Ngọ năm nay ăn tết dọc đường
Vui cùng đồng chí khắp bốn phương
Chân cứng đá mềm băng ngàn dặm
Đến xuân sau ăn tết QUÊ HƯƠNG.
Xuân sang
Bính ngọ hoa xuân nở đầy cành
Dạt dào phơi phới tuổi thanh xuân
Đón xuân chan chứa niềm tin tưởng
THỐNG NHẤT ḥa b́nh. Em với anh!