Việc ly thân chưa được Luật Hôn nhân và Gia đ́nh quy định, do đó dù vợ chồng đă xa nhau thời gian dài th́ cũng không phải lư do để ṭa xử cho ly hôn. Ly thân chỉ là một trong các dấu hiệu phản ánh t́nh trạng hôn nhân.
Hiện nay, khi cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nhưng v́ con cái đă lớn nên nhiều cặp không ly hôn mà chọn giải pháp ly thân. Tuy nhiên, ly thân lại chưa được Luật Hôn nhân và Gia đ́nh quy định, do đó dù vợ chồng đă xa nhau thời gian dài th́ cũng không phải lư do để ṭa xử cho ly hôn. Việc ly thân và thời gian ly thân chỉ là một trong các dấu hiệu phản ánh t́nh trạng hôn nhân mà trên cơ sở đó ṭa án xem xét có chấp thuận cho việc ly hôn hay không.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đ́nh th́ khi xét xử, ṭa án xét thấy “t́nh trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được th́ Toà án quyết định cho ly hôn”.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Ṭa án nhân dân tối cao th́:
1. Được coi là t́nh trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thương yêu, quư trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao th́ sống, đă được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đăi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đă được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại t́nh, đă được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại t́nh;
2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được phải căn cứ t́nh trạng hiện tại của vợ chồng đă đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại mục 1 nói trên. Nếu thực tế cho thấy đă được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại t́nh hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đăi hành hạ, xúc phạm nhau, th́ có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có t́nh nghĩa vợ chồng; không b́nh đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
Tuy nhiên, luật không đ̣i hỏi t́nh trạng mâu thuẫn vợ chồng phải thỏa măn tất cả các dấu hiệu nêu trên như: đánh chửi nhau, xúc phạm nhau, vợ hoặc chồng ngoại t́nh… th́ Ṭa mới xử cho ly hôn. Nhiều trường hợp t́nh trạng mâu thuẫn chỉ là ngoại t́nh nhưng ṭa án xét thấy t́nh cảm vợ chồng không c̣n, không thể hàn gắn được th́ ṭa cũng xem xét xử cho ly hôn.
Về việc vợ chồng anh đang ly thân nhưng nếu anh lại chung sống với người phụ nữ khác th́ không những vi phạm pháp luật mà c̣n vi phạm đạo đức. Khi Ṭa án chưa xử cho ly hôn và bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật th́ anh và vợ anh vẫn là vợ chồng, vẫn trong thời kỳ hôn nhân. Luật Hôn nhân và gia đ́nh cũng như Bộ luật h́nh sự nghiêm cấm người đang có vợ hoặc có chồng lại chung sống với người khác như vợ chồng.
Tùy theo mức độ, hậu quả gây ra mà người vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm h́nh sự. Về mức xử phạt vi phạm hành chính, theo quy định tại Nghị định 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 th́ người nào đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng th́ bị phạt tiền từ 100.000 đến 500.000 đồng.
Nếu gây hậu quả nghiêm trọng th́ người vi phạm có thể th́ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến một năm. Phạm tội trong trường hợp đă có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy tŕ quan hệ đó th́ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm (Điều 147 Bộ luật H́nh sự)
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty Luật Bảo An, Hà Nội