Quan hệ Việt – Trung: Thực tế bẽ bàng hơn nhiều (Nguyễn Gia Kiểng)
“…Nếu ở Việt Nam có một người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc th́ người đó chính là Lê Đức Anh…”
*
*
Giờ này, khi mà nhiều người nghĩ và tin rằng Việt Nam chỉ c̣n một chọn lựa là ra khỏi thế lệ thuộc Trung Quốc và nhanh chóng tiến đến thế đồng minh chiến lược với Hoa Kỳ và các nước dân chủ, chúng ta cần nhận định lại quan hệ Việt Trung một cách chính xác hơn. Lư do là v́ sự thực c̣n phũ phàng hơn nhiều người nghĩ. Và nếu quá khứ có khả năng tiết lộ những ǵ có thể sẽ tới th́ chúng ta phải rất cảnh giác nếu không muốn hụt hẫng một lần nữa.
Cho tới nay, theo cái nh́n của nhiều người, Trung Quốc, sau khi thất bại trong chiến tranh biên giới 1979, *đă cố lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ và đă thành công; Đại Hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đă là một bước đổi mới đầy hy vọng không may bị khựng lại và đảo ngược; Nguyễn Văn Linh là con người của một cách canh tân dang dở; trong nội bộ ĐCSVN đă có đấu tranh giữa hai phe canh tân thân phương Tây và bảo thủ thân Trung Quốc và sau cùng phe bảo thủ đă thắng v.v. Nhưng sự thực rất khác.
* Cái nh́n này không giải thích được một cách thuyết phục tại sao ĐCSVN đă có thể đổi hẳn chính sách đối với Trung Quốc từ thế tử thù sang thế chư hầu ngoan ngoăn mà không gây ra một chấn động lớn, bằng cớ là cho đến nay ít người có thể nói một cách quả quyết ĐCSVN đă quyết định thay đổi thái độ đối với Trung Quốc vào lúc nào, hay tại sao mặc dù Việt Nam hết sức chiều ḷng Trung Quốc mà Trung Quốc lại cứ tiếp tục hạ nhục và chèn ép Việt Nam. Lư do là v́ nó vẫn nằm trong một logic b́nh thường theo đó mọi chính quyền trước hết mưu t́m quyền lợi cho đất nước ḿnh, họ có lầm lẫn hay không là chuyện khác. Logic này không đúng trong trường hợp của quan hệ Việt – Trung *như chúng ta sẽ thấy.
Nh́n lại quan hệ Việt – Trung đ̣i hỏi một phân tích thấu đáo những ǵ đă xảy ra, điều này không dễ v́ sự đảo ngược quan hệ Việt Trung đă diễn ra một cách bí mật trong nội bộ của nhóm cầm quyền cao nhất trong đảng cộng sản, nghĩa là bộ chính trị (BCT) và ban bí thư (BBT), ngay cả tuyệt đại bộ phận đảng viên cao cấp cũng không biết. Hơn nữa nó lại chủ yếu được quyết định qua những thảo luận miệng trong tập đoàn lănh đạo mà các biên bản hoặc không có hoặc vẫn c̣n được giữ kín. Trong hoàn cảnh đó ta chỉ có thể dựa vào hồi kư của những người trong cuộc cuối đời hoặc có những tâm sự muốn nói ra hoặc có những ân oán giang hồ muốn thanh toán.
Tập Hối Ức và Suy Nghĩ của Trần Quang Cơ là một tài liệu quí. Ít ai có điều kiện để theo dơi biến chuyển trong quan hệ Việt – Trung bằng ông. Ông chủ tŕ nhóm CP87 một nhóm nghiên cứu chiến lược đối ngoại của đảng vào giai đoạn chuyển hướng này. Ông cũng là thứ trưởng đặc trách vấn đề Campuchia, vấn đề gai góc nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc vào lúc đó. Ông đại diện Việt Nam đàm phán với đại diện Trung Quốc Từ Đôn Tín vào tháng 6-1990, cuộc đàm phán gay go cuối cùng trước khi chính quyền cộng sản Việt Nam thực sự đầu hàng, đúng ra là được Trung Quốc cho phép hàng phục. Quan trọng hơn, Trần Quang Cơ là một trong những người hiếm hoi có kiến thức về thế giới và bang giao quốc tế, một khả năng mà không ai trong số những lănh tụ cộng sản cao nhất có. Tuy vậy ông Cơ chỉ là một người thừa hành ngoan ngoăn. Nếu đôi khi ông có những tâm sự u uất th́ đó cũng chỉ là những trăn trở của một tôi trung. Trần Quang Cơ không có cái nh́n của người lấy quyết định, do đó ông quan tâm trước hết đến những ǵ thuộc phần nhiệm của ḿnh. V́ vậy trong hồi kư này các sự kiện không được chọn lựa và sắp xếp theo tầm quan trọng đối với chính sách đối ngoại mà theo tầm quan trọng của chúng đối với cá nhân ông. Ông kể khá chi tiết những thảo luận về giải pháp Campuchia và những cuộc phỏng vấn của ông với các báo dù chúng chỉ có một giá trị rất tương đối nếu ta muốn t́m hiểu động cơ và năo trạng của những người quyết định chính sách của Việt Nam vào lúc đó. Những điều Trần Quang Cơ kể lại v́ vậy cần được hội nhập vào ḍng thời sự của cả một giai đọan dài mới có giá trị giải thích và soi sáng.
Trước hết hăy nh́n lại một cách tổng quát quan hệ Việt Trung.
Một cách ngắn gọn có thể nói cho tới cuối thâp niên 1960 ĐCSVN đă giữ được thế cân bằng của một đứa em ngoan giữa anh cả Liên Xô và anh hai Trung Quốc, dù có phần gần với Trung Quốc hơn v́ lúc đó Liên Xô không khuyến khích cuộc chiến chinh phục miền Nam mà ĐCSVN coi là mục tiêu sống c̣n. Năm 1957 Liên Xô c̣n đề nghị cho cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Nhóm "xét lại chống đảng" chung quanh ông Hoàng Minh Chính đă bị đàn áp thẳng tay v́ bị t́nh nghi là theo đường lối "xét lại" của Khruchev. Tuy vậy sau khi triệt hạ xong nhóm bị coi là thân Liên Xô này, ban lănh đạo ĐCSVN, đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, vẫn duy tŕ quan hệ mật thiết với Liên Xô. Thế cân bằng này đă dần dần thay đổi sau khi Brezhnev lên thay Khruchev (tháng 10-1964) và chọn đường lối cứng rắn hơn trong chiến tranh lạnh, trong khi Trung Quốc suy yếu v́ những tranh chấp nội bộ mà cao điểm là cuộc "Đại Cách Mạng Văn Hóa" không c̣n khả năng để yểm trợ đắc lực cuộc "chiến tranh giải phóng miền Nam" của Hà Nội nữa. Sang đầu thập niên 1970, khi xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô trở thành dữ dội và Trung Quốc rơ ràng t́m cách bắt tay với Hoa Kỳ *(Kissinger bí mật sang Bắc Kinh tháng 6-19971 chuẩn bị cho Nixon sang thăm Trung Quốc tháng 2-1972 mà kết quả là Tuyên Ngôn Thượng Hải mở đầu tiến tŕnh b́nh thường hóa quan hệ giữa hai nước), Hà Nội chọn đứng hẳn về phía Liên Xô, và quan hệ Việt Trung dần dần chuyển từ bạn sang thù. Năm 1976 Đảng Cộng Sản Trung Quốc không gửi phái đoàn tham dự Đại Hội* IV của ĐCSVN. Nước Việt Nam thống nhất chọn toàn bộ mô h́nh tổ chức Đảng và Nhà Nước của Liên Xô. Trung Quốc xúi dục và hỗ trợ chính quyền Khmer Đỏ gây chiến với Việt Nam, Việt Nam đem quân đánh đổ chế độ Pol Pot tháng 12-1978, một tháng sau khi gia nhập khối COMECON và kư xong hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô. Trung Quốc đem quân tấn công tàn phá các tỉnh biên giới phía Bắc để "dạy cho Việt Nam một bài học". Các báo đài của hai bên mạt sát nhau thậm tệ. Trung Quốc bới móc đời tư để bôi bẩn Hồ Chí Minh trong khi Việt Nam lố bịch hóa Mao Trạch Đông như một bạo chúa quê mùa lỗ măng không tắm, không đánh răng, khạc nhổ bừa băi và mắc bệnh tim la. Nhân dân hai nuớc được huy động để xuống đường lên án đối phương hàng ngày. Chính quyền CSVN xua đuổi người Việt gốc Hoa.
Năm 1980 hiến pháp Việt Nam được sửa đổi để thêm vào lời nói đầu một đoạn tuyên chiến với Trung Quốc. Trong đại hội đảng V, tháng 3-1982, bản điều lệ của ĐCSVN cũng được sửa đổi với lời nói đầu đề cao cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung như một chiến công lịch sử oanh liệt. Nguyễn Văn Linh, người có công lớn trong cuộc "chiến tranh giải phóng miền Nam" bị loại khỏi bộ chính trị v́ lập trường thân Trung Quốc. Nhiều công thần bị loại chỉ v́ có tội là người Việt gốc Hoa. Chiến tranh biên giới giữa hai nước vẫn tiếp tục. Thế thù địch đạt đến cực điểm.
Thế rồi, một cách lặng lẽ nhưng nhanh chóng và quả quyết, t́nh thế đă thay đổi hẳn. Việt Nam trở thành một chư hầu khép nép của Trung Quốc. Thay đổi đă diễn ra như thế nào và vào lúc nào?
Mặc dù t́nh hữu nghị Việt – Trung đă nhạt dần và hầu như không c̣n ǵ vào thời điểm Đại Hội IV tháng 12-1976 nhưng ng̣i nổ đă đưa đến xung đột vũ trang giữa hai nước là cuộc chiến Campuchia trong đó cả hai bên đều có những mưu tính không thú nhận. Cuộc chiến khởi đầu tháng 4-1977 khi quân Khmer Đỏ, với sự hỗ trợ và xúi dục của Trung Quốc, tấn công các tỉnh biên giới phía Tây Nam. Cuối năm 1978 Việt Nam đem quân đánh chiếm Campuchia, lập nên chính quyền Heng Samrin – Hun Sen và chỉ rút quân năm 1989 trước áp lực quốc tế, đặc biệt là áp lực Trung Quốc.
Với thời gian người ta có thể nhận thấy là vào thời điểm 1977 chế độ Pol Pot là một gánh nặng cho Trung Quốc vào lúc mà Đặng Tiểu B́nh muốn t́m kiếm sự hợp tác của Hoa Kỳ và các nước dân chủ. Chế độ diệt chủng Pol Pot quá hung bạo và bị cả thế giới lên án như một bọn quỉ sứ, nhưng nó cũng là một chư hầu của Trung Quốc và v́ thế nó khiến Trung Quốc cũng bị lên án lây. C̣n ǵ tốt hơn cho Trung Quốc là chế độ Pol Pot bị Việt Nam tràn ngập? Trung Quốc bớt được một gánh nặng và Việt Nam, kẻ thù đáng ghét nhất của Trung Quốc, bị thế giới nh́n như một mối nguy cho vùng Đông Nam Á và bị cô lâp. Ngược lại chế độ CSVN cũng muốn đánh gục chính quyền Pol Pot và dựng lên một chính quyền chư hầu tại Campuchia. Lúc đó những người lănh đạo cộng sản Việt Nam đang say men chiến thắng. Họ đặt điều kiện để cho phép Mỹ được b́nh thường hóa quan hệ với Việt Nam. Họ tưởng ḿnh vĩ đại, chủ nghĩa Mác-Lênin nhất định toàn thắng và sắp toàn thắng đến nơi, chủ nghĩa tư bản đang dẫy chết. Ư đồ tái lập Liên Bang Đông Dương như một không gian Việt Nam nới rộng là có thực chứ không phải chỉ là một bịa đặt vu khống của Trung Quốc, dù danh xưng "Liên Bang Đông Dương" không được sử dụng. Trong những năm kế tiếp cuộc xâm lăng Campuchia không ngày nào các báo đài Việt Nam không đưa tin về "ba nước Đông Dương". Một định chế được thành lập và thường được nhắc tới là "Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương". Cụm từ "ba nước Đông Dương" được đưa vào lời nói đầu của hiến pháp 1980 cùng cụm từ "bọn bá quyền Trung Quốc". Một danh xưng được đề nghị lúc đó là KALAVI (Kampuchia, Lào, Việt Nam) để chỉ thực thể bao gồm ba nước thay cho cụm từ Đông Dương.
Chính sách khôn ngoan cho Việt Nam vào lúc đó là chỉ đẩy lùi và đánh tê liệt quân Khmer Đỏ nhưng không tràn vào chiếm đóng Campuchia. Như thế Trung Quốc sẽ không khạc được khúc xương Khmer Đỏ và sẽ tiếp tục bị thế giới lên án như là quan thày của chế độ diệt chủng gớm ghiếc Pol Pot. Nhưng chính sách này ban lănh đạo ĐCSVN không hề nghĩ đến. Họ đang say men chiến thắng và tự đặt cho ḿnh sứ mạng cao cả là làm đội tiên phong kiên cường của phong trào cộng sản thế giới do Liên Xô lănh đạo mà theo họ thắng lợi đă gần kề. Hơn nữa họ cũng tin một cách mù quáng vào sức mạnh của Liên Xô và họ tin Liên Xô thừa sức che chở cho họ. Tháng 11-1978 Việt Nam gia nhập khối COMECON và kư hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô, một tháng sau quân Việt Nam tràn vào Campuchia. Các biến cố kế tiếp nhau theo một kế hoạch. Vào thời điểm này tuy kinh tế Việt Nam *đang suy sụp bi đát - trong các tiệm ăn người ta cân từng bát cơm - và Hoa Kỳ không c̣n sẵn sàng b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao không điều kiện nữa, nhưng niềm tin vào "chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng" vẫn c̣n nguyên vẹn v́ ảnh hưởng của Liên Xô vừa mở rộng một cách ngoạn mục. Trong ṿng năm năm, từ 1975 đến 1980, một loạt quốc gia theo nhau rơi vào quỹ đạo Liên Xô -Việt Nam, Lào, Somalia, Yemen, Ethiopia, Granada, Nicaragua, Angola, Afghanistan… Chính sự ph́nh to này đă khiến Liên Xô kiệt quệ và sụp đổ nhanh chóng sau đó nhưng trong nhất thời nó khiến ban lănh đạo cộng sản Việt Nam mê cuồng đến mất trí. Trong khi đó Trung Quốc dưới Đặng Tiểu B́nh, ngược lại, dồn mọi cố gắng để tranh thủ sự hợp tác của phương Tây và khai thác triệt để thái độ hung hăng đắc thắng của Việt Nam để xuất hiện như một lực lượng bảo vệ ḥa b́nh tối cần thiết tại Đông Nam Á. Đặng Tiểu B́nh không ngần ngại tuyên bố "Trung Quốc là NATO ở phương Đông, Việt Nam là Cuba ở phương Đông". Thực tế đă cho thấy Trung Quốc khôn ngoan bao nhiêu th́ Việt Nam khờ dại bấy nhiêu. Khi Trung Quốc tấn công Việt Nam tháng 2.1979, trừ Liên Xô và một vài đồng minh, thế giới gần như cho rằng đây là hành động đúng và cần thiết.
Trung Quốc không phải chỉ đă tấn công để "dạy cho Việt Nam một bài học" rồi thôi. Quân Trung Quốc vẫn c̣n liên tục tấn công vào Việt Nam sau đó. Đă có hai đợt tấn công lớn sau 1980, đợt đầu trong hai tháng 1 và 2.1982, đợt sau trong từ tháng 4 đến tháng 7.1984. Đợt sau cùng này đặc biệt dữ dội, trong đó có trận Lăo Sơn (hay Cao Điểm 1509, thuộc huyện Vị Xuyên, Hà Giang). Nhiều tài liệu Trung Quốc nói rằng ba quân đoàn của họ đă đánh lui và gây thiệt hại nặng cho ba sư đoàn Việt Nam trong trận này. Lăo Sơn ngày nay đă thuộc về Trung Quốc. Trận này được nhớ tới như là một chiến công lớn của quân đội Trung Quốc. Ngay sau trận đánh tổng bí thư Hồ Diệu Bang đă đến khen thưởng binh sĩ Trung Quốc. Trong Thế Vận Bắc Kinh 2008 trường đua xe đạp được đặt tên là Lăo Sơn. Hoàn cảnh Việt Nam lúc đó hoàn toàn tuyệt vọng, kinh tế sụp đổ, sa lầy tại Campuchia và bị cả thế giới lên án. Liên Xô đă không cứu giúp c̣n khuyên Việt Nam nên* ḥa với Trung Quốc. Lúc đó chính Liên Xô cũng đang t́m cách b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc – các cuộc thương luợng giữa hai bên đă bắt đầu từ năm 1982 - nên không thể có vấn đề Liên Xô giúp Việt Nam đánh nhau với Trung Quốc. Hơn nữa, t́nh trạng bi đát của Liên Xô ngày càng rơ rệt: kiệt quệ về kinh tế, sa lầy về quân sự tại Afghanistan và chao đảo ngay trong nội bộ. Hoa Kỳ dưới sự lănh đạo của Ronald Reagan đang phục hồi một cách ngoạn mục và quả quyết đánh sụp Liên Xô. Reagan thản nhiên gọi Liên Xô là "Đế Quốc Ác Quỷ" (Evil Empire) và thách thức chạy đua vơ trang trong khi Liên Xô đă kiệt quệ. Trong các nước vừa lọt vào quỹ đạo Liên Xô các lực lượng chống cộng phản công dữ dội và ngày càng thắng thế. Andropov, kế vị Brezhnev từ tháng 11.1982, nh́n nhận t́nh trạng nguy ngập và tuyên bố nhu cầu cải tổ toàn diện, điều mà sau đó Gorbachev sẽ làm nhưng cũng không cứu được Liên Xô. Phải hiểu rằng ban lănh đạo cộng sản Việt Nam đă rất hốt hoảng. Cũng cần phải nói lại rằng chiến tranh biên giới hoàn toàn không phải là một chiến thắng cho Việt Nam. Trong cả ba đợt tấn công Việt Nam đă tổn thất hơn hẳn Trung Quốc; trong đợt cuối cùng trận Lăo Sơn là một thất bại nặng cho Việt Nam. Cái ảo tưởng chiến thắng chỉ là một sản phẩm tuyên truyền của chính quyền CSVN. Trung Quốc đă không cải chính tuyên truyền này v́ nó có tác dụng che giấu sự kiện họ lấn chiếm lănh thổ Việt Nam: Việt Nam thắng trận th́ không thể mất đất. Nhưng sự thực là Việt Nam đă mất nhiều đất, trong đó có Lăo Sơn, Bản Giốc, Nam Quan. Có thể lấy tháng 7.1984 như là thời điểm mà Hà Nội , sau khi thua trận Lăo Sơn, không c̣n sức để phản công và cũng không c̣n chỗ dựa Liên Xô, đă quyết định cầu ḥa với Trung Quốc.
Và sự hàng phục đă diễn ra một cách rất thành khẩn. Ngôn ngữ chống Trung Quốc biến mất trong diễn văn của các lănh tụ hàng đầu, sau đó trên các báo, đài Việt Nam. Tháng 6.1985, Nguyễn Văn Linh, con người đă thất sủng v́ thân Trung Quốc, được đưa trở lại bộ chính trị, để rồi một năm sau trở thành thường trực ban bí thư, nghĩa là nhân vật thứ 2 trong đảng, nhưng thực tế là nhân vật toàn quyền v́ Lê Duẩn đă chết, Trường Chinh đă già nua lỗi thời. Lê Đức Thọ, người kiểm soát bộ máy đảng không c̣n chọn lựa nào khác là ủng hộ Nguyễn Văn Linh. Một năm sau ông Linh trở thành tổng bí thư sau Đại Hội VI. Phải hiểu rằng đây là sự hàng phục chúng ta mới giải thích được thái độ quỵ lụy của ĐCSVN đối với Trung Quốc sau đó.
C̣n một chọn lựa khác cho ĐCSVN là quả quyết ḥa giải với Hoa Kỳ và sáp lại với các nước dân chủ để được bảo vệ bởi công pháp quốc tế và để phát triển đất nước qua trao đổi và hợp tác với các nước giầu mạnh, nhưng chọn lựa này, vào thời điểm đó và cho tới hết thập niên 1980 không một lănh tụ cộng sản Việt Nam nào nghĩ đến. Một lư do là v́ những vết thương của cuộc chiến và của chính sách tiếp thu miền Nam vẫn c̣n quá mới, đảng cộng sản đă đi quá xa trong thái độ huênh hoang đắc thắng, nhiều sĩ quan và viên chức miền Nam vẫn c̣n trong các trại cải tạo, thế giới vẫn c̣n xúc động v́ làn sóng thuyền nhân. Nhưng đây không phải là lư do chính.
Lư do chính là tất cả các lănh tụ cộng sản lúc đó, không trừ môt ngoại lệ nào, đều tin một cách cuồng nhiệt vào chủ nghĩa Mác-Lênin và thù ghét dân chủ. Trong mọi trường hợp họ chỉ t́m kiếm những giải pháp trong khuôn khổ chủ nghĩa Mác-Lênin. Với logic này một khi không dựa vào Liên Xô được nữa th́ chỉ c̣n một con đường là theo Trung Quốc. Đặc điểm chung của các cấp lănh đạo cộng sản Việt Nam là họ rất thiếu văn hóa, họ chỉ biết có một chủ nghĩa Mác-Lênin mà họ học một cách cung kính như một giáo lư chứ không phải một cách có phê phán như một tư tưởng chính trị. Đối với họ chủ nghĩa Mác-Lênin là một tín ngưỡng tuyệt đối. Đă thế họ c̣n trưởng thành trong chiến tranh và được huấn luyện để không bao giờ thắc mắc về đường lối và mệnh lệnh. Đặc tính của những người thiếu văn hóa là họ thường có những xác quyết chắc nịch không thể thay đổi. Các lănh tụ cộng sản lúc đó đều coi bảo vệ chủ nghĩa xă hội là bổn phận trước hết và trên hết. Kể cả ông Nguyễn Cơ Thạch, con người hiểu biết và sáng suốt nhất trong các thành viên bộ chính trị. Ông Thạch chỉ chủ trương mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ và các nước phương Tây để đừng quá cô lập và bị Trung Quốc bắt chẹt chứ ông không hề nghĩ là phải kết bạn với những nước* này. Ông Trần Quang Cơ thuật lại lời phát biểu của ông Thạch trong một cuộc thảo luận tháng 5.1987 *của tổ CP87: *"Phải thỏa thuận cả với Mỹ, chỉ húc đầu vào một con đường nói chuyện với Trung Quốc là không đúng."* Ư kiến này, theo ông Cơ, là một ư kiến động trời vào lúc đó, v́ nói tới quan hệ với các nước phương Tây là một điều húy kỵ. C̣n chính ông Trần Quang Cơ? Cuốn "Hồi ức và suy nghĩ" của ông có thể khiến người đọc nghĩ rằng ông là một người rất cởi mở, nhưng trong báo cáo tŕnh bộ chính trị vào năm 1993 ông vẫn coi "diễn biến ḥa b́nh", nghĩa là chuyển hóa về dân chủ, như một mối nguy và tới năm 2000, khi viết những ḍng cuối cùng của cuốn sách, ông vẫn thấy lập trường này "xem ra chưa phải đă lỗi thời". Quan điểm của ông Cơ đáng chú ư ở chỗ ông không phải là thành viên bộ chính trị hay ban bí thư, ông chỉ là một người thừa hành và một chuyên gia và do đó có thể nói thực những ǵ ḿnh nghĩ. Chính v́ thế mà những ǵ ông nói phản ánh một cách thực thà "năo trạng cộng sản" lúc đó.
Người duy nhất trong số các lănh đạo cấp cao dám có lập trường đổi mới mạnh dạn, dù muộn màng, là ông Trần Xuân Bách. Ông là thành viên của cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và phát biểu lập trường đa nguyên đa đảng trong một bài nói chuyện tại trường đảng Nguyễn Ái Quốc tháng 1 năm 1990. Ngay sau đó ông bị kỷ luật, khai trừ khỏi cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và cả trung ương đảng.
Có lẽ chỉ trừ ông Trần Xuân Bách tất cả bộ chính trị đều tán thành đường lối cầu ḥa với Trung Quốc. Sự khác nhau chỉ là ở chỗ có những người, như Nguyễn Cơ Thạch, muốn đa dạng hóa quan hệ để đừng bị cô lập và chèn ép; có những người chấp nhận phục tùng Trung Quốc nhưng vẫn c̣n ấm ức như Vơ Chí Công, Vơ Văn Kiệt, c̣n đa số hầu như không có tâm sự nào cả.
Riêng hai ông Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh th́ không những chỉ chấp nhận mà c̣n tỏ ra rất nhiệt t́nh với lập trường qui phục Trung Quốc không điều kiện. Nguyễn Văn Linh vốn là một người thân Trung Quốc và đă từng bị loại khỏi bộ chính trị trong Đại Hội V, năm 1982. Trong cuộc gặp gỡ với tổng bí thư đảng cộng sản Lào Kaysone Phomvihan tháng 10.1989, Đặng Tiểu B́nh trong khi phê phán nặng lời Lê Duẩn đă hết lời ca tụng Nguyễn Văn Linh, nhắc lại năm 1963 đă tổ chức đưa ông Linh sang Bắc Kinh qua ngả Hồng Kông để gặp Đặng. Việc ông trở lại bộ chính trị rồi ngay sau đó lên làm tổng bí thư đánh đấu sự toàn thắng của khuynh hướng cầu ḥa với Trung Quốc. Trong tất cả mọi phát biểu của Nguyễn Văn Linh lập trường trước sau như một là phải b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc bằng mọi giá. Câu nói quen thuộc của ông là: "Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xă hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu của đế quốc Mỹ xóa bỏ chủ nghĩa xă hội, phải cùng nhau chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau". Lê Đức Anh cũng hăng say không kém Nguyễn Văn Linh trong lập trường qui phục Trung Quốc. Nhân vật Lê Đức Anh đặc biệt ở chỗ là ông đă được thăng thưởng rất nhanh chóng trong giai đoạn thù địch với Trung Quốc - từ đại tá lên đại tướng bộ trưởng quốc pḥng và ủy viên bộ chính trị trong vài năm - nhưng lại đột ngột trở thành thân Trung Quốc sau khi Nguyễn Văn Linh trở lại cầm quyền, có lẽ là v́ hai người đă thân nhau từ giai đoạn cùng chỉ huy cuộc chiến tại miền Nam. Từ khi Nguyễn Văn Linh trở lại Lê Đức Anh hoàn toàn rập khuôn theo ông Linh trong thái độ đối với Trung Quốc. Đôi khi Lê Đức Anh c̣n tỏ ra thù ghét "đế quốc Mỹ" và ngưỡng mộ Trung Quốc hơn cả Nguyễn Văn Linh. Thí dụ như khi sang Phnom Penh, cùng với Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười, để thuyết phục chính quyền Hun Sen chấp nhận cái mà Hà Nội gọi là "giải pháp Đỏ" ông nói: "Mỹ muốn xóa cộng sản. Nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất, phải t́m đồng minh, đồng minh là Trung Quốc". Nhờ lập trường này và sự hỗ trợ của Nguyễn Văn Linh mà Lê Đức Anh gần như trở thành nhân vật quyền lực thứ nh́ trong chế độ. Tuy chỉ là quân nhân và hoàn toàn không biết ǵ về bang giao quốc tế ông lấn át cả ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong chính sách đối ngoại.
Ông Trần Quang Cơ thuật lại rằng trước khi ông đàm phán với đại diện Trung Quốc Lê Đức Anh đă gọi ông cho chỉ thị và ông đă nghe lời khiến ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải hỏi gằn một cách bực bội: "Vậy đồng chí theo ư kiến bộ trưởng quốc pḥng hay bộ trưởng ngoại giao?". Trong Đại Hội VII năm 1991 tuy phải nhường chức tổng bí thư cho Đỗ Mười nhưng quyền lực của ông cũng ngang ngửa với tổng bí thư. Ông là uỷ viên thường trực bộ chính trị kiêm bí thư trung ương phụ trách ba ngành quốc pḥng, ngoại giao và an ninh, đồng thời là chủ tịch nước. Tại sao ông phải ôm cả ngoại giao và an ninh nếu không phải là để đảm bảo rằng chính sách phục tùng Trung Quốc vẫn tiếp tục và để bóp nghẹt những tiếng nói phản đối? Trong dịp đại hội 11 năm trước Lê Đức Anh, dù đă 91 tuổi, bỗng nhiên tái xuất hiện kêu gọi ủng hộ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và lên án ông Nguyễn Phú Trọng là "tay sai Trung Quốc". Khi được một người bạn trong nước báo tin và hỏi ư kiến tôi đă trả lời: "Đừng nên lấy thái độ, nếu ở Việt Nam có một người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc th́ người đó chính là Lê Đức Anh". Sau lưng Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh là những người hoặc ủng hộ tận t́nh lập trường hàng phục Trung Quốc hoặc chống Mỹ kịch liệt và do đó phải chấp nhận cầu ḥa với Trung Quốc.
Điều đáng lưu ư là cách suy nghĩ rất lạ của những người lănh đạo cộng sản mà một cách vô t́nh cuốn hồi kư của Trần Quang Cơ mô tả khá rơ. Họ không lư luận một cách b́nh thường như người ta có thể h́nh dung: Trung Quốc muốn ǵ, sẽ làm ǵ, có thể làm ǵ, có những điểm mạnh và điểm yếu nào, có thể giúp ǵ hay gây thiệt hại nào cho Việt Nam, ngược lại Việt Nam có thể bị đe dọa như thế nào và có thể làm ǵ v.v. Họ lư luận một cách thuần túy ư thức hệ, theo đó Trung Quốc có hai mặt, một mặt xă hội chủ nghĩa và một mặt bá quyền. Trong bảy năm trời lư luận của ĐCSVN chỉ loanh quanh xem mặt nào quan trọng hơn với kết luận sau cùng là cả hai mặt đều quan trọng. Nghị quyết 13 của bộ chính trị, ngày 25.05.1988, nhấn mạnh là "phải khắc phục những tư tưởng lệch lạc chỉ thấy Trung Quốc là bá quyền mà không thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xă hội hay chỉ thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xă hội mà không thấy Trung Quốc là bá quyền".Dầu vậy mục tiêu của Đảng vẫn là "phấn đấu b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau". Trong các "vấn đề khác" có vấn đề Trường Sa v́ hai tháng trước đó, ngày 14.03.1988 hải quân Trung Quốc đă đánh chiếm một số đảo của Việt Nam tại Trường Sa và làm thiệt mạng hơn 60 binh sĩ Việt Nam. Cách lư luận này ngày nay nh́n lại ta có thể cho là dở hơi nhưng nó nói lên năo trạng của những người lănh đạo cộng sản vào lúc đó và nó cũng có hậu quả cụ thể là ĐCSVN chấp nhận trước những thiệt tḥi và mất mát đối với Trung Quốc, v́ đă chấp nhận "b́nh thường hóa quan hệ" dù biết trước Trung Quốc có bản chất bá quyền. Theo ông Trần Quang Cơ đây không phải là b́nh thường hóa quan hệ mà chỉ là lệ thuộc hóa. Vả lại, điều khó tin nhưng có thực, quyền lợi quốc gia không hề là một quan tâm của các lănh tụ cộng sản vào lúc đó. Theo Trần Quang Cơ chỉ măi về sau này trong cuộc họp kéo dài ba ngày của bộ chính trị từ 15 đến 17.05.1991, khi chính sách đối với Trung Quốc đă quyết định xong, câu hỏi mới được đặt ra là nên chọn đồng minh theo "lợi ích dân tộc" hay theo ư thức hệ. Và câu trả lời cũng vẫn là phải chọn đồng minh theo ư thức hệ.
Trái với một nhận định khá phổ biến, Nguyễn Văn Linh không phải là con người của của đổi mới mà là con người của Trung Quốc. Đại Hội VI, tháng 12.1986, không phải là đại hội đổi mới và một cơ hội dân chủ hóa không thành mà chỉ là đại hội của chọn lựa thần phục Trung Quốc và chống dân chủ. Cái gọi là "đổi mới" của đại hội này chỉ là rập khuôn theo mô h́nh "kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa" của Trung Quốc. Đại Hội VII kế tiếp là đại hội khẳng định dứt khoát sự thần phục đối với Trung Quốc, những phần tử có chút tâm sự lấn cấn với lập trường này, như Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch, đều bị loại khỏi ban lănh đạo. Các đại hội VIII và IX chỉ tiếp tục một đường lối đă thành nền nếp. Khuynh hướng đối đầu với Trung Quốc trong đảng chỉ bắt đầu xuất hiện từ đại hội X trở đi và xuất phát từ lớp đảng viên trẻ sau hai thập niên trao đổi với phương Tây, trong bối cảnh chủ nghĩa xă hội đă trở thành vô nghĩa và nhất là v́ Trung Quốc quá xấc xược.
Cũng trái với một nhận định đă được phản ánh qua nhiều bài viết, kể cả của nhiều người dân chủ, Trung Quốc không hề có mưu mô lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ. Thực tế bẽ bàng hơn nhiều. Chính quyền cộng sản Việt Nam đă nài nỉ được phụ thuộc Trung Quốc trong khi Trung Quốc xua đuổi; họ chỉ coi ĐCSVN như một bọn bội bạc và tráo trở bị dồn vào đường cùng. Trần Quang Cơ tiết lộ: "Từ năm 1980 đến năm 1988 ta đă ngót hai mươi lần đề nghị đàm phán, Trung Quốc chỉ làm ngơ". Đúng ra là từ 1984 trở đi, khi Hà Nội thấy là không c̣n dựa vào Liên Xô được nữa, như chính ông Cơ kể lại trong cuốn hồi kư. Sự khẩn khoản c̣n gia tăng hơn nữa sau năm 1988. Việt Nam nhiều lần cầu xin Trung Quốc giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xă hội thay thế Liên Xô trong khi Trung Quốc trả lời dứt khoát là họ không có ư định bảo vệ chủ nghĩa xă hội trên thế giới. Ưu tiên của họ là tranh thủ sự hợp tác và các thị trường của phương Tây để hiện đai hóa và phát triển kinh tế. Một lần đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy nói công khai với quan chức Việt Nam trong buổi tiếp tân của đại sứ quán Ai Cập là "Trung Quốc không chủ trương giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xă hội về mặt đối ngoại". Đây phải là chọn lựa rất quả quyết của Trung Quốc nên một đại sứ mới có thể nói công khai và tự nhiên như vậy. Hà Nội muốn lập lại t́nh anh em xă hội chủ nghĩa trong khi Trung Quốc nói thẳng là họ chỉ có thể chấp nhận một quan hệ láng giềng "thân nhi bất cận" (thân nhưng không gần). Nhu cầu ḥa giải với Trung Quốc c̣n mạnh đến nỗi nó khiến ban lănh đạo CSVN thúc đẩy Lào lập quan hệ với Trung Quốc để mong nhờ Lào làm trung gian đàm phán với Trung Quốc. Họ c̣n cố làm một điều tưởng là vừa ḷng Trung Quốc trong khi Trung Quốc không những không muốn mà c̣n bực ḿnh. Đó là "giải pháp Đỏ" cho Campuchia. Sau khi Gorbachev gợi ư rằng Việt Nam nên cố gắng t́m cách thỏa hiệp với Trung Quốc để giải quyết cuộc xung đột tại Campuchia, ban lănh đạo Việt Nam bèn nghĩ ra "giải pháp Đỏ", nghĩa là thỏa hiệp giữa hai phe cộng sản Campuchia - Pol Pot do Trung Quốc đỡ đầu và Hun Sen do Việt Nam dựng lên - gạt phăng đi các lực lượng không cộng sản Sihanouk và Son Sann. Họ tưởng như thế sẽ làm hài ḷng Trung Quốc, nhưng Trung Quốc lại không chấp nhận. Bắc Kinh muốn một giải pháp do Liên Hiệp Quốc bảo trợ và dành ưu thế cho các lực lượng không cộng sản bởi v́ họ đang muốn tranh thủ cảm t́nh của thế giới và nhất là phương Tây. Ban lănh đạo Việt Nam thật quá chậm hiểu! Và đồng minh Hun Sen của Hà Nội cũng không chấp nhận "giải pháp Đỏ" này bởi họ nhất quyết không đội trời chung với bọn Khmer Đỏ. Giải pháp này cũng phản bội cả hàng trăm ngàn bộ đội Việt Nam đă chết hoặc bị thương tật tại Campuchia dưới danh nghĩa tiêu diệt bọn diệt chủng Khmer Đỏ. Với một sự ngoan cố khó tưởng tượng, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh sẽ c̣n cố gắng áp đặt giải pháp này lên Hun Sen trong một thời gian dài để hy vọng cùng với Hun Sen thuyết phục Trung Quốc, ngay cả sau khi đă chấp nhận giải pháp do Trung Quốc đưa ra tại Thành Đô. Kết quả là Hà Nội thất bại và c̣n mất luôn cảm t́nh của chế độ Hun Sen mà họ dựng lên.
Con đường cầu ḥa đă rất nhục nhằn cho Hà Nội. Trung Quốc đă đặt ra nhiều điều kiện để chấp nhận nói chuyện về b́nh thường hoá quan hệ giữa hai nước và mỗi khi Hà Nội thỏa măn xong một điều kiện th́ họ lại đặt ra một điều kiện mới và Hà Nội lại phải thỏa măn. Có khi họ chỉ định cả người đại diện Việt Nam để nói chuyện với họ. Tại hội nghị Paris ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm và được trả lời rằng Tiền Kỳ Thâm không có th́ giờ để tiếp Nguyễn Cơ Thạch nhưng nếu thứ trưởng Trần Quang Cơ muốn gặp th́ đồng ư. Tháng 6.1990, sau sáu năm nhẫn nhục của Hà Nội, khi Trung Quốc cuối cùng chấp nhận gửi Từ Đôn Tín, một trợ lư ngoại trưởng, sang đàm phán với thứ trưởng Trần Quang Cơ, cả Nguyễn Văn Linh lẫn Lê Đức Anh đều đă tiếp riêng đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy trước ngày Từ Đôn Tín sang để tỏ ḷng kính trọng với Trung Quốc. Từ Đôn Tín đă đến một cách ngạo nghễ như một sứ giả thiên triều và tuyên bố: "Lần này tôi sang Hà Nội để xem xét nguyện vọng của các đồng chí…". Từ Đôn Tín tự cho phép mắng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và khi ông Thạch trả lời th́ nổi giận bỏ đi. Năm sau khi Lê Đức Anh (chủ tịch nước) và Hồng Hà (trưởng ban đối ngoại trung ương đảng) sang thăm Trung Quốc họ đă xin gặp Từ Đôn Tín để xin lỗi, mặc dù trước đó ông Thạch đă bị gạt ra khỏi bộ chính trị và mất chức bộ trưởng ngoại giao để làm vừa ḷng Trung Quốc. Lê Chiêu Thống cũng không đến nỗi khúm núm như thế. Nhục nhă hơn nữa cuộc gặp gỡ Thành Đô. Trần Quang Cơ thuật lại như sau: ngày 28.08.1990 đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy thông báo cho chính quyền Việt Nam biết tổng bí thư Giang Trạch Dân và thủ tướng Lư Bằng muốn gặp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và thủ tướng Đỗ Mười cùng với cố vấn Phạm Văn Đồng để bàn về quan hệ giữa hai bên ngày 3.9.1990 tại Thành Đô (thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Đây là lệnh triệu tập chứ không phải đề nghị. Trung Quốc ấn định ngày giờ, địa điểm và những ai sang Trung Quốc. Họ cũng buộc hai nhân vật quyền lực nhất chế độ, tổng bí thư đảng cộng sản và thủ tướng, phải bỏ ngày quốc khánh Việt Nam để sang họp. Theo Trần Quang Cơ Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đă có mặt tại Thành Đô ngày 02.09.1990. (Theo Trương Đức Duy th́ họ đến ngày 3-9). Ba ông này sau đó chấp nhận toàn bộ những ǵ Giang Trạch Dân và Lư Bằng đưa ra. Nhục nhằn như vậy chỉ v́ Hà Nội muốn được Bắc Kinh nhận làm đàn em trong khi Bắc Kinh không cần ǵ cả. Và mối "quan hệ b́nh thường" này sẽ c̣n kéo dài về sau. Trong Đại Hội X, năm 2001, để lật đổ tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh buộc tội Phiêu là đă dâng đất và độc đoán, khi sang Trung Quốc đàm phán về biên giới không đem theo ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm để dễ "thậm thụt". Nguyễn Chí Trung, trợ lư của Lê Khả Phiêu, biện hộ cho Phiêu như sau: Nguyễn Mạnh Cầm không đi v́ thành phần phái đoàn Việt Nam do Trung Quốc quyết định.
Chưa hết, hiện nay mọi người Việt Nam đều phẫn nộ và thế giới cũng phẫn nộ v́ cái lưỡi ḅ liếm hết Biển Đông của Trung Quốc. Nhưng cái lưỡi ḅ đó do đâu mà có? Đó là v́ Bắc Kinh viện cớ họ có một số đảo ở Trường Sa. Đó là những đảo mà họ đă đánh chiếm của Việt Nam năm 1988 sau khi giết hại 64 binh sĩ Việt Nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại sao Trung Quốc không nhân dịp chiếm luôn tất cả mọi đảo của Việt Nam tại Trường Sa mà lại chỉ chiếm một vài đảo đá? Câu trả lời là họ không thể chiếm hết. Thực ra nếu chính quyền CSVN không muốn họ cũng không thể chiếm một ḥn đảo nào cả. Trường Sa nằm ngoài tầm hoạt động của không quân Trung Quốc và trong tầm hoạt động của không quân Việt Nam. Các tầu chiến của Trung Quốc lúc đó cũng c̣n khá sơ sài và chưa đủ sức đương đầu với máy bay chiến đấu. Chính quyền CSVN hoàn toàn có thể phản công lấy lại các đảo đă mất và đuổi tàu chiến Trung Quốc ra khỏi Trường Sa nếu muốn nhưng họ đă không làm. Họ đang muốn cầu ḥa với Trung Quốc bằng mọi giá.
Những ai nghi ngờ điều này có thể nh́n những ǵ xảy ra ngay sau đó. Ngày 14.03.1988 Trung Quốc đánh Trường Sa. Ban lănh đạo CSVN đă im lặng. Báo chí của Đảng và Nhà Nước loan tin qua loa rồi thôi. Hai tháng sau, ngày 25.05.1988 bộ chính trị họp và ra nghị quyết 13 khẳng định phải "phấn đấu b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau". Tháng 9, hiến pháp Việt Nam được tu chỉnh để bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù. Trung Quốc không c̣n là kẻ thù sau khi đă đánh chiếm Trường Sa!
Chúng ta đều phẫn nộ v́ sự thần phục quá đáng của Việt Nam đối với Trung Quốc nhưng ít ai ư thức rằng để được thần phục Trung Quốc đảng CSVN đă bắt nước ta trả giá rất đắt.
Nh́n lại giai đoạn lịch sử vừa qua cũng chua xót như nh́n lại giai đoạn nhà Nguyễn bị quân Pháp chinh phục hồi thế kỷ 19. Cũng bám lấy Trung Quốc và một chủ nghĩa đă lỗi thời để từ chối một thay đổi vừa đúng vừa bắt buộc. Chủ nghĩa lỗi thời lần này là chủ nghĩa Mác-Lênin thay v́ Khổng Giáo. Chính trị Việt Nam vẫn giữ nguyên sự mù quáng sau một thế kỷ. Điểm khác nhau là ngày trước triều Nguyễn bám lấy Trung Quốc để chống một kẻ thù, lần này Đảng Cộng Sản bám lấy chính kẻ thù.
Người ta khó có thể không đặt những câu hỏi tương tự trong hai trường hợp.
Nếu ở thế kỷ 19 nhà Nguyễn thay v́ bám lấy Khổng Giáo và ngoan cố làm chư hầu Trung Quốc mạnh dạn mở cửa ra với phương Tây? *
Nếu sau năm 1975 hay vào năm 1984 thay v́ bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và chọn làm đàn em Liên Xô rồi hàng phục Trung Quốc đảng cộng sản chọn dứt khoát chuyển hóa về dân chủ?
Gần hơn và khẩn cấp hơn, trong lúc này khi mà khả năng đất nước tách khỏi quỹ đạo Trung Quốc và ra khỏi bế tắc khá lớn nhưng chưa chắc chắn, là những câu hỏi nhức nhối:
Tại sao một thay đổi đột ngột và toàn diện như thế trong chính sách đối với Trung Quốc, từ chống đối hung hăng sang thần phục ngoan ngoăn, lại có thể được quyết định và thực hiện bởi một vài người lănh đạo thiển cận mà không bị chống đối? Như vậy có thể nói tới một thành phần sáng suốt trong ĐCSVN không?
Và tại sao các trí thức Việt Nam cũng chỉ nhận ra thay đổi này khi nó đă hoàn tất? Phải đánh giá thế nào tŕnh độ nhận thức chính trị của trí thức Việt Nam?
Sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta tránh né những câu hỏi này. V́ rất có thể chính quyền cộng sản lại sắp đưa đất nước vào ngơ cụt một lần nữa.
04.1977: Quân Khmer Đỏ tấn công biên giới An Giang, tiến sâu vào trong lănh thổ Việt Nam, sau đó liên tục khiêu khích. Tháng 9.1977 thêm một đợt tấn công dữ dội khác. Ngày 31.12 Việt Nam tung sáu sư đoàn phản công, đuổi quân Khmer Đỏ sâu trong lănh thổ Campuchia trong một tuần lễ rồi rút về.
19.07.1977: Mỹ không phủ quyết việc Việt Nam gia nhập LHQ. Ngày 20.09.1977 Việt Nam trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc. Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền đưa đề nghị nên mềm dẻo với Mỹ nhưng "bốn vị lănh đạo chủ chốt của ta lúc đó" (lời thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ) gạt đi. Lập trường của ĐCSVN là chỉ chấp nhận b́nh thường hóa quan hệ với Mỹ nếu viện trợ cho Việt Nam 3,2 tỷ USD theo hiệp định Paris 1973, một hiệp định mà chính họ đă không tôn trọng.
Các thành viên bộ chính trị lúc đó là Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Vơ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Vơ Chí Công, Chu Huy Mân. Dự khuyết : Tố Hữu, Vơ văn Kiết, Đỗ Mười.
********* Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Văn Linh đồng thời cũng là thành viên ban bí thư.
********* It lâu sau ngày 30.04.1975, ngày 12.06.1975, Mỹ gửi thông điệp cho sứ quán Việt Nam tại Paris đề nghị b́nh thường hóa quan hệ giữa hai nước. Ngày 23.06.1976 Kissinger gửi thông điệp cho Nguyễn Duy Trinh bày tỏ ư muốn b́nh thường hóa. Lănh đạo CSVN vẫn kiên định lập trường: Mỹ phải viện trợ 3.2 tỷ USD mới được b́nh thường hóa quan hệ với Việt Nam.
19.05.1978: Brzezinski, cố vấn an ninh của Jimmy Carter thăm Trung Quốc. Mỹ chọn liên kết với Trung Quốc để chống Liên Xô. Lúc đó ảnh hưởng Liên Xô phát triển rất nhanh chóng. Sau Việt Nam, Lào và Campuchia năm 1975, một loạt quốc gia rơi vào quỹ đạo Liên Xô: Angola, Ethiopia, Yemen, Somalia, Nicaragua. Phần lớn các nước Ả Rập cũng thiên về Liên Xô. Ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô trở thành quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ và khối tư bản. Cùng với chọn lựa liên kết với Trung Quốc Hoa Kỳ không c̣n t́m cách b́nh thường hóa quan hệ với Việt Nam nữa.
23.08.1978: Đặng Tiểu B́nh tuyên bố Trung Quốc là một đồng minh của Hoa Kỳ và phương Tây: "Trung Quốc là NATO ở phương Đông, Việt Nam là Cuba ở phương Đông",* và Trung Quốc "chống đại bá Liên Xô, tiểu bá Việt Nam".
1978: Trung Quốc chính thức cắt viện mọi trợ cho Việt Nam.
Thực ra từ lâu viện trợ Trung Quốc chỉ c̣n là h́nh thức, Việt Nam đă đứng hẳn về phía Liên Xô trong thế ḱnh địch Liên Xô : Trung Quốc. Năm 1976 ĐCSTQ không gửi phái đoàn tham dự đại hội IV *ĐCSVN.
Theo Trần Quang Cơ vào năm 1978 Việt Nam và Albania là hai nước chống đế quốc dữ dội nhất.
09.1978: Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và vụ trưởng vụ Bắc Mỹ Trần Quang Cơ sang New York đàm phán với Richard Holbrooke, đồng ư b́nh thường hóa quan hệ Việt Mỹ không điều kiện nhưng đă trễ, Mỹ không c̣n sẵn sàng nữa. Holbrooke nói Mỹ lo ngại Liên Xô lập căn cứ tại Cam Ranh. Trước đó Mỹ đề nghị b́nh thường hóa không điều kiện nhưng Việt Nam không chịu, đ̣i Mỹ bồi thường chiến tranh 3.2 tỷ USD theo hiệp định Paris.
03.11.1978: Việt Nam gia nhập COMECON và kư hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô. Henri Kissinger tuyên bố:"Mỹ cần Trung Quốc để hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực."
23.12.1978: Quân Việt Nam tấn công Campuchia, ngày 06.01.1979 chiếm Phnom Penh. Cuộc tiến công này được thế giới nh́n như nằm trong khuôn khổ cuộc tiến công toàn cầu của khối cộng sản dưới sự lănh đạo của Liên Xô. Quân Liên Xô tràn vào Afghanistan ngày 25.12.1979 (để rồi tháo chạy tháng 2/1989). Mỹ và phương Tây phản công quyết liệt. Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố các cuộc đàm phán để b́nh thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam đă tan vỡ.
29.01 – 04.02.1979: Đặng Tiểu B́nh thăm viếng Mỹ xiết chặt bang giao giữa hai nước. Cả thế giới đánh giá chuyến công du là rất thành công.
17.02.1979:Trung Quốc tấn công các tỉnh phía Bắc để "dạy cho Việt Nam một bài học". Quân Trung Quốc rút lui sau 1 tháng nhưng vẫn chiếm giữ nhiều địa điểm. Đây chỉ là đợt tiến công đầu trong ba đợt quan trọng. Chiến tranh Việt – Trung vẫn tiếp tục cho tới 1989.
Đợt 2 trong hai tháng 5 và 6.1981
Đợt 3 từ tháng 4 đến tháng 7.1984. Nga và Mỹ không lên tiếng. Không những thế Nga c̣n khuyên Việt Nam nên điều đ́nh với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
08.03.1980:Trung Quốc đơn phương chấm dứt ṿng 2 đàm phán Việt Trung về b́nh thường hóa quan hệ giữa hai nước. Việt Nam không cần v́ đang thách thức Trung Quốc.
Ṿng 1 từ 18.04-1979 đến 18.05.1979 (một tháng sau đợt 1 chiến tranh biên giới)
Ṿng 2 từ 28.06.1979 đến 06.03.1980
18.12.1980: Biểu quyết và ban hành hiến pháp 1980 với lời nói đầu thù địch với Trung Quốc.
********* "Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hoà b́nh đểxây dựng Tổquốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ởCam-pu-chia. Phát huy truyền thống vẻvang của dân tộc, quân và dân ta đă giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệTổquốc chống bọn phản động Cam-pu-chia ởbiên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ởbiên giới phía Bắc, bảo vệđộc lập, chủquyền, thống nhất và toàn vẹn lănh thổcủa ḿnh."
27-31.03.1982: Đại hội V của ĐCSVN.
ĐCSVN xác định lập trường chống Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh, thân Trung Quốc, nguyên phó bí thư đảng ủy cục R, bị loại khỏi bộ chính trị.
Bộ chính trị gồm: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Vơ Chí Công, Chu Huy Mân, Tố Hữu*, Vơ Văn Kiệt, Đỗ Mười, *Lê Đức Anh,* Nguyễn Đức Tâm. Ủy viên dự khuyết: Nguyễn Cơ Thạch, Đồng Sỹ Nguyên.
Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Vơ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm đồng thời cũng là thành viên ban bí thư.
Bản điều lệ Đảng được sửa đổi với lời nói đầu đề cao cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung như một chiến thắng vẻ vang và khẳng định sự gắn bó với Liên Xô và chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời cũng nhấn mạnh quan hệ đặc biệt giữa "ba nước Đông Dương":
(…)Đảng ra sức giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của xă hội và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân.* (…) Đảng thường xuyên chăm lo tăng cường t́nh đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ta với Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô, Lào, Campuchia…
10.1982: Bắt đầu đàm phán Trung Quốc – Liên Xô để b́nh thường hóa quan hệ sau hơn một thâp niên xung đột. Một bất ngờ choáng váng cho ĐCSVN. Từ đó Trung Quốc không đàm phán với Việt Nam nữa.
Cuộc đàm phán kéo dài tới ṿng 7, tháng 10.1985.
15.04.1984: Trần Quang Cơ trả lời phỏng vấn của báo Kledlap của Thái Lan, tỏ ra vẫn chống Trung Quốc.
06.1984: Ngay giữa lúc quân đội Trung Quốc đang tấn công dữ dội vào Lạng Sơn, Liên Xô không cứu giúp Việt Nam mà c̣n tuyên bố cần phải có một giải pháp thương lượng cho vấn đề Campuchia; Liên Xô đ̣i Việt Nam giải quyết qua thương lượng với Trung Quốc. Việt Nam hốt hoảng cầu ḥa. Trung Quốc không chịu, đ̣i "Việt Nam phải rút hết quân khỏi Campuchia th́ hai bên mới có thể đàm phán".
08.01.1985: Nguyễn Cơ Thạch gửi thư cho ngoại trưởng Trung Quốc Ngô Học Khiêm xin đàm phán. Ngày 21.01.1985 Ngô Học khiêm trả lời, từ chối đàm phán: "Chỉ sau khi Việt Nam cam kết và thực hiện rút quân khỏi Campuchia th́ đàm phán mới có ư nghĩa".
06.1985: ĐCSVN họp Hội nghị Trung Ương 8. Nguyễn Văn Linh được bầu vào bộ chính trị và làm bí thư thành ủy Sài G̣n. Một năm sau, tháng 6.1986, ông Linh lại được bầu vào ban bí thư và làm thường trực ban bí thư. Việt Nam chính thức thay đổi chính sách đối với Trung Quốc, từ chống đối sang thần phục.
21.08.1985:* Bộ ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Trung Quốc tuyên bố sẽ rút hết quân khỏi Campuchia trong năm 1990 và đề nghị đàm phán.
06.09.1985: Đại sứ quán Trung Quốc trả lời: Trung Quốc vẫn không chấp nhận đàm phán, Trung Quốc coi việc Việt Nam đặt đàm phán như là điều kiện để rút quân là vô lư và thiếu thiện chí, đàm phán như vậy vô ích. Nếu Việt Nam cần nói ǵ th́ cứ trao đổi qua hai ṭa đại sứ.
03.1986: Chính phủ Liên Hiệp Campuchia Dân Chủ (Sihanouk, Son Sann, Khmer Đỏ) ra tuyên ngôn 8 điểm.
Trung Quốc tuyên bố Việt Nam phải nói chuyên với CPLHCDC. Trung Quốc chỉ nói chuyện với Việt Nam sau khi vấn đề Campuchia đă được giải quyết theo cách của Trung Quốc.
07.1986: Lê Duẩn chết, Trường Chinh thay thế Lê Duẩn đảm nhiệm chức vụ tổng bí thư đến đại hội VI, tháng 12.1986
9.07.1986:Bộ chính trị ĐCSVN họp và ra nghị quyết 32/BCT xác định cần có giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia để có thể b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc ("điều chỉnh chính sách ngoại giao và tiến tới giải pháp về Cam-pu-chia"; "cùng tồn tại ḥa b́nh với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ". Theo Trần Quang Cơ tác động mạnh nhất và trực tiếp nhất lên Việt Nam và Campuchia là việc Liên Xô ḥa hoăn với Trung Quốc (và không c̣n đỡ đầu cho họ để chống Trung Quốc nữa).
10.1986: Trung Quốc tuyên bố Việt Nam phải rút xong quân khỏi Campuchia Trung Quốc mới chấp nhận đàm phán với Việt Nam. Trước đây Trung Quốc chỉ đ̣i Việt Nam cam kết rút quân.
10 – 11.12.1986: Trần Quang Cơ được cử sang Lào giúp Lào b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc, với hy vọng nhân đó bắt liên lạc với Trung Quốc.
12.1986:*Đại hội VI của ĐCSVN.
Nguyễn Văn Linh lên làm tổng bí thư.
Bộ chính trị gồm Nguyễn Văn Linh,* Phạm Hùng,* Vơ Chí Công, *Đỗ Mười, *Vơ Văn Kiệt,* Lê Đức Anh, *Nguyễn Đức Tâm, *Nguyễn Cơ Thạch, *Đồng Sỹ Nguyên, *Trần Xuân Bách,* Nguyễn Thanh B́nh,* Đoàn Khuê,* Mai Chí Thọ.*Uỷ viên dự khuyết:*Đào Duy Tùng.
Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân Bách, Đào Duy Tùng đồng thời là thành viên ban bí thư.
Đỗ Mười làm thường trực ban bí thư và trở thành thủ tướng thay Phạm Văn Đồng năm 1988.
07.02.1987: Đàm phán Liên Xô Trung Quốc ṿng 10. Trung Quốc buộc Liên Xô phải buộc Việt Nam giải quyết xong vấn đề Campuchia th́ mới b́nh thường hóa quan hệ Xô – Trung.
07.03.1987:BCT họp và lấy quyết định đề nghị đàm phán mật với Trung Quốc. BCT nhận định Trung Quốc có hai mặt, vừa xă hội chủ nghĩa vừa bá quyền, và chọn đường lối hợp tác hữu nghị thay v́ đối đầu như từ gần hai thập niên qua. BCT khẳng định chủ trương giải quyết vấn đề Campuchia qua thương thuyết với Trung Quốc.
Ngay sau buổi họp, Lê Đức Thọ sang Lào họp với BCT đảng cộng sản Lào.
04.1987: Lê Đức Thọ sang Campuchia cùng với Lê Đức Anh và Trần Quang Cơ đưa "giải pháp Đỏ" (Ḥa giải giữa Hun Sen với Khmer Đỏ để cùng cầm quyền) vói niềm tin là giải pháp này làm vừa ḷng Trung Quốc)
09.04.1987:Thành lập nhóm nghiên cứu chiến lược đối ngoại CP87 do Trần Quang Cơ điều khiển. Trần Quang Cơ trở thành thứ trưởng ngoại giao chuyên trách Campuchia.
Nhóm CP87 gồm Trần Quang Cơ, Đặng Nghiêm Hoành (vụ trưởng vụ tổng hợp) tổ phó, Nguyễn Phượng Vũ (vụ trưởng vụ Trung Quốc), Trần Xuân Mận (vụ trưởng vụ Á Châu 2). Thành viên không thường trực: Đặng Nghiêm Bái (vụ trưởng vụ Bắc Mỹ), Tạ Hữu Canh (vụ trưởng vụ Liên Xô), Nguyễn Can (vụ trưởng vụ Á Châu 3), Trịnh Xuân Lăng (Vụ trưởng vụ báo chí).
CP87 có nhiệm vụ giúp BCT thực hiện nghị quyết 32/CP (b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc, giải quyết vấn đề Campuchia, phối hợp với Liên Xô)
CP87 làm việc với nhóm B1 của Campuchia do thứ trưởng ngoại giao Dith Munty đứng đầu.
14.05.1987: Đặng Tiểu B́nh tiếp tổng thư kư LHQ Javier de Cuellar và nhờ nhắn với Việt Nam: chỉ khi nào vấn đề Campuchia được giải quyết theo ư Trung Quốc, nghĩa là có chính phủ liên hiệp 4 bên và quân Việt Nam đă rút hết th́ mới có thể có đàm phán để b́nh thường hóa quan hệ Việt Trung.
14.05.1987: Họp CP87 thảo luận sôi nổi;
*Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch nói: "Phải thỏa thuận cả với Mỹ, chỉ húc đầu vào một con đường nói chuyện với Trung Quốc là không đúng."
Nhận định của nhóm CP87:
-Ta chỉ biết có Trung Quốc th́ Trung Quốc sẽ chèn ép v́ ta yếu và cô lập. Đó là lư do khiến Trung Quốc đă buộc ta làm hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác;
-Trong ban lănh đạo cộng sản lúc đó nói đến quan hệ với các nước phương Tây là điều húy kỵ
-Việc bộ ngoại giao đề nghị mở rộng quan hệ hợp tác ngoài thế giới XHCN là chuyện động trời.
25.05.1987: Bộ ngoại giao (Nguyễn Cơ Thạch và Trần Quang Cơ) kiến nghị xin sửa lời nói đầu của hiến pháp để bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù.
26.07.1987:Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung Quốc chuyển lời thủ tướng Phạm văn Đồng xin thương thuyết bí mật. Hai ngày sau, 28.07.1987, Ngô Học Khiêm nhắn lại là chưa trả lời* Phạm văn Đồng. Theo Trần Quang Cơ (Hồi ức và suy nghĩ) th́ từ 1980 đến 1988 Việt Nam đă xin đàm phán "ngót 20 lần" nhưng Trung Quốc đều từ chối.
22.12.1987: Liên Xô đề nghị gặp gỡ giữa Cộng Ḥa Nhân Dân Campuchia ( Heng Somrin và Hun Sen) và Khmer Đỏ để ḥa giải. Trung Quốc không chấp nhận.
14.03.1988: Hải quân Trung Quốc đánh chiếm nhiều đảo đá của Việt Nam tại Trường Sa, gây nhiều thương vong cho quân đội Việt Nam (64 chết, 11 bị thương, 9 bị bắt làm tù binh). Chính quyền CSVN không tổ chức một cuộc biểu t́nh lên án nào, cũng không có một tuyên ngôn mạnh nào.
25.05.1988: BCT ra nghị quyết 13: Giải quyết vấn đề Cam-pu-chia; phấn đấu b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau. Khắc phục những tư tưởng lệch lạc chỉ thấy Trung Quốc là bá quyền mà không thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xă hội hay ngược lại.
30.07.1988: Chủ trương cầu ḥa với Trung Quốc của Việt Nam đă quá rơ ràng; tại hội nghi JIM1 (Jakarta) Hun Sen cay đắng nói: "Chúng tôi căm thù bọn Khmer Đỏ, nhưng Việt Nam cần b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc nên buộc chúng tôi thỏa hiệp với chúng…"
26.08.1988: Quốc hội Việt Nam sửa lời nói đầu hiến pháp, bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù
15.12.1988: Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gửi thư cho Tiền Kỳ Thâm đề nghị đàm phán (sau khi được Liên Xô cho biết là ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm đă sang thăm Liên Xô hôm 6.12.1988 và tỏ ra sẽ chấp nhận đàm phán với Việt Nam)
24.12.1988: Tiền Kỳ Thâm trả lời Nguyễn Cơ Thạch; yêu cầu Việt Nam gửi một thứ trưởng ngoại giao sang Bắc Kinh để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ cấp ngoại trưởng.
16-19.01.1989: Đàm phán Việt – Trung ṿng 1 (Đinh Nho Liêm và Lưu Thuật Khanh)
8-10.05.1989: Đàm phán Trung Quốc-Việt Nam ṿng 2. Không kết quả. Trung Quốc sau đó tuyên bố muốn b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc Việt Nam không những phải rút hết quân khỏi Campuchia mà c̣n phải giải quyết các hậu quả của việc đem quân vào Campuchia.
01.1989: Hun Sen xuất bản cuốn "Campuchia, con đường mười năm" *bác bỏ giải pháp Đỏ
30.07 – 30.08.1989: Hội nghị Paris.
03.08.1989: Tại hội nghị Paris ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm; thứ trưởng Lưu Thuật Khanh trả lời: Tiền Kỳ Thâm không có th́ giờ nên không thể gặp Nguyễn Cơ Thạch nhưng nếu Trần Quang Cơ muốn gặp th́ đồng ư.
07.10.1989: Đặng Tiểu B́nh tiếp Kaysone Phomvihan, phê phán nặng lời Lê Duẩn và hết lời ca tụng Nguyễn văn Linh, nhắc lại năm 1963 đă tổ chức đưa Nguyễn Văn Linh sang Bắc Kinh qua ngả Hồng Kông để gặp Đặng.
12.10.1989: Hun Sen tuyên bố dứt khoát không chấp nhận Khmer Đỏ.
09.11.1989: Bức tường Berlin sụp đổ. Các chế độ cộng sản đều hốt hoảng. Trước đó, đầu tháng 10,* Nguyễn văn Linh vừa đi dự lễ kỷ niệm 40 năm quốc khánh CHDCĐ và rất phục Đông Đức. Nguyễn Văn Linh cũng gặp Ceaucescu trong dịp này và đánh giá rất cao Ceaucescu. Ngày 25.12.1989 Ceaucescu bị lật đổ và hành quyết. Nguyễn Văn Linh và bộ chính trị hoảng hốt. Theo TQC (Hồi ức và suy nghĩ) lập trường áp đảo trong bộ chính trị là nhấn mạnh Trung Quốc là một nước XHCN và phải bắt tay ngay với Trung Quốc bằng mọi giá để bảo vệ chủ nghĩa xă hội, để chống Mỹ và các thế lực đế quốc khác.
06.11.1989: Nguyễn Cơ Thạch nhờ đai sứ Trung Quốc chuyển thông điệp miệng của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh mong sớm b́nh thường hóa quan hệ Việt Trung.
Ba tuần sau Nguyễn Cơ Thạch lại gửi thư cho Tiền Kỳ Thâm nhắc nhở thỉnh cầu này.
12.12.1989: Đại sứ Trung Quốc đến gặp Nguyễn Cơ Thạch chuyển thông điệp miệng của Trung Quốc trả lời Nguyễn Văn Linh: Trung Quốc chỉ xem xét yêu cầu b́nh thường hóa của Việt Nam sau khi vấn đề Campuchia đă được giải quyết theo ư của Trung Quốc (cơ chế giám sát LHQ để kiểm chứng rằng quân Việt Nam đă rút hết, chính phủ liên hiệp 4 bên do Sihanouk đứng đầu).
03.1990: Hội nghị trung ương 8, Trần Xuân Bách, bị kỷ luật, loại khỏi bộ chính trị và trung ương đảng v́ tuyên bố thuận lợi cho đa nguyên, đa đảng
03.4.1990: Trung Quốc đột ngột chấp nhận Đinh Nho Liêm tới Bắc Kinh để đàm phán cấp thứ trưởng.
10.4.1990: Họp bộ chính trị. Nguyễn văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sỹ Nguyên tỏ ra cuồng nhiệt chống Mỹ nhấn mạnh âm mưu của đế quốc Mỹ muốn xóa bỏ chủ nghĩa xă hội, coi việc bức tường berlin sụp đổ là do âm mưu của Mỹ.
Nguyễn Văn Linh nói: "Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xă hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu của đế quốc Mỹ xóa bỏ chủ nghĩa xă hội, phải cùng nhau chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau". Nguyễn Cơ Thạch lưu ư có thể ưu tiên của Trung Quốc là tranh thủ sự hợp tác với Hoa Kỳ và phương Tây chứ không phải là bảo vệ chủ nghĩa xă hội nhưng không ai nghe. Quan điểm chung của bộ chính trị là phải cùng Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xă hội chống đế quốc.
16.04.1990: Nguyễn Cơ Thạch sang Campuchia đề nghị giải pháp chính phủ liên hiệp hai bên. Phnom Penh phản đối. Lănh đạo ĐCSVN cố t́m cách áp đặt "giải pháp Đỏ" để làm vừa ḷng Trung Quốc trong khi Trung Quốc lại chỉ muốn một giải pháp vừa ḷng Hoa Kỳ và phương Tây!
02.05.1990: Đinh Nho Liêm đến Bắc Kinh đàm phán với Từ Đôn Tín, phụ tá bộ trưởng ngoại giao. Việt Nam không nói Khmer Đỏ là diệt chủng nữa. Trung Quốc tỏ ra thờ ơ với lời kêu gọi hai nước xích lại gần nhau để cứu chủ nghĩa xă hỗi. Phía Trung Quốc thông báo trợ lư ngoại trưởng Trung Quốc Từ Đôn Tín sẽ sang Việt Nam đầu tháng 6.
30.5.1990: ĐCSVN họp BCT. Nguyễn Văn Linh thông báo dự định gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước khi Từ Đôn Tín gặp Trần Quang Cơ. Đỗ Mười và nhiều người khuyên không nên nhưng Lê Đức Anh lại nhiệt liệt ủng hộ.
05.06.1990: Nguyễn Văn Linh mời đại sứ Trương Đức Duy đến nhà khách Trung Ương nói chuyện thân mật trước khi Từ Đôn Tín đến để tỏ ḷng kính trọng đối với Bắc Kinh. Sau đó, ngày 09.06. Trương Đức Duy tiết lộ cho vụ Trung Quốc bộ ngọai giao biết những điểm chính mà Nguyễn Văn Linh đă nói cuộc nói chuyện này: 1/ Nguyễn Văn Linh nh́n nhận Việt Nam đă có sai phạm đối với Trung Quốc, đang sửa sai và mong gặp cấp cao Trung Quốc để "trao đổi những vấn đề lớn giữa quan hệ giữa hai nước; 2/ Liên Xô đă lung lay, Trung Quốc cần dương cao ngọn cờ XHCN, Việt Nam sẽ theo. Những người cộng sản chân chính phải đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xă hội; 3/ Cùng là cộng sản, Pol Pot và Hun Sen phải hợp tác với nhau.
06.06.1990: Lê Đức Anh cũng mời Trương Đức Huy ăn cơm nói chuyện riêng không cho ai trong BCT biết. Măi đến 16.9 mới tiết lộ có cuộc gặp gỡ này.
11,12,13.06.1990: Đàm phán Trần Quang Cơ –Từ Đôn Tín tại Hà Nội. Trước đó Lê Đức Anh gọi điện thoại dặn ḍ Trần Quang Cơ phải thận trọng và kiên nhẫn nghe nhiều hơn nói. Nguyễn Cơ Thạch hỏi TQC: "vậy đồng chí theo ư kiến bộ trưởng quốc pḥng hay bộ trưởng ngoại giao?". Rạn nứt lớn giữa bộ ngoại giao và bộ quốc pḥng. Từ Đôn Tín tỏ ra xấc xược. Theo TQC qua hai buổi tiếp xuc với Trương Đức Huy Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đă "quá nhún ḿnh, quá sơ hở" và gây khó khăn cho bộ ngoại giao trong việc đàm phán.
Nguyễn Cơ Thạch đụng chạm lớn với Từ Đôn Tín v́ thái độ cao ngạo của Từ.
19.06.1990:BCT họp để đánh giá cuộc đàm phán với Từ Đôn Tín. Nguyễn Văn Linh vào Sài G̣n không tham dự, dặn cứ thảo luận nhưng đừng bàn về phương hướng tới. Trần Quang Cơ báo cáo: Từ Đôn Tín đă nói rơ là Trung Quốc không chấp nhận đề nghị hai nước đoàn kết chống đế quốc bảo vệ chủ nghĩa xă hội. Trung Quốc chỉ coi quan hệ với Việt Nam sau này như là quan hệ giữa hai nước láng giềng. Từ Đôn Tín nhấn mạnh quan hệ này không được gây lo ngại cho Mỹ và ASEAN.
17.07.1990: Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Thuật Khanh nói với Đặng Nghiêm Hoành, đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, là Trung Quốc không chấp nhận giải pháp Đỏ. Khanh nói thêm: " cần giải pháp 4 bên do Sihanouk đứng đầu mới được thế giới chấp nhận".
27.07.1990: Trong một cuộc chiêu đăi của sứ quán Ai Cập tại Hà Nội, đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy nói với vụ phó vụ Trung Quốc Vũ Thuần rằng : "giải pháp Đỏ không thực tế v́ làm như vậy là hút tất cả các mũi tên về ḿnh, tự cô lập ḿnh. Hiện nay Trung Quốc không chủ trương giương cao ngọn cờ XHCN về mặt đối ngoại".
Theo Trần Quang Cơ: Gorbachev là cha đẻ của giải pháp này, song người "bảo dưỡng" giải pháp Đỏ nhất lại là lănh đạo Việt Nam. (Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Vơ văn Kiệt, Đào Duy Tùng, Đoàn Khuê, Nguyễn Hà Phan). Trung Quốc không chỉ không chấp nhận giải pháp Đỏ mà c̣n tiết lộ với Hoa Kỳ và phương Tây rằng Việt Nam đă đề nghị giải pháp Đỏ để chứng tỏ Việt Nam giả dối lật lọng, ngoài th́ lấy cớ Pol Pot diệt chủng để xâm lăng Campuchia, trong th́ đề nghị với Trung Quốc giải pháp Đỏ để bắt tay với Pol Pot.
02.08.1990: Họp BCT ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh hỏi Nguyễn Cơ Thạch trước khi vào họp rằng có nên nhắc lại với Trung Quốc yêu cầu gặp gỡ cấp cao và giải pháp Đỏ không. Nguyễn Cơ Thạch trả lời rằng Trung Quốc đă ba lần khẳng định là họ không chấp nhận giải pháp Đỏ. Vơ Chí Công nói thêm đó chỉ là ảo tưởng ngây thơ.
05.08.1990 và 13.09.1990: Hai cuộc thảo luận giữa Trần Quang Cơ và đại sứ Trương Đức Duy.
TQC: "Hai nước chúng ta cần hợp tác với nhau trước mắt cũng như lâu dài".
TĐD: "Trung Quốc coi trọng quan hệ Trung - Việt nhưng phải làm từng bước".
28.08.1990: Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy thông báo cho chính quyền Việt Nam biết tổng bí thư Giang Trạch Dân và thủ tướng Lư Bằng muốn gặp tổng bí thư *Nguyễn Văn Linh và thủ tướng Đỗ Mười cùng với cố vấn Phạm Văn Đồng để bàn về quan hệ giữa hai bên ngày 3.9.1990 tại Thành Đô.
Đây là lệnh triệu tập chứ không phải đề nghị. Trung Quốc ấn định ngày giờ, địa điểm và những ai sang Trung Quốc. Họ cũng buộc hai nhân vật quyền lực nhất chế độ, tổng bí thư đảng cộng sản và thủ tướng phải bỏ ngày quốc khánh Việt Nam để sang chầu. Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đă có mặt tại thành Đô ngày 02.09.1990,ngày quốc khánh của chế độ CSVN. (Trong Hồi ức và suy nghĩ *Trần Quang Cơ nói rằng phái đoàn Việt Nam đă đến Thành Đô ngày 02.09.1990 nhưng theo* Trương Đức Duy viết trong một bài báo th́ ba vị này ra đi ngày 03.09 chứ không phải 02.09).
Phái đoàn gồm Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười. Tháp tùng có Hồng Hà (chánh văn pḥng Trung Ương đảng, Hoàng Bích Sơn (trưởng ban đối ngoại TƯĐ) và Đinh Nho Liêm.
Việt Nam chấp nhận giải pháp 6+2+2+2+1 mà Từ Đôn Tín đă từng đưa ra và Trần Quang Cơ thay mặt chính quyền Việt Nam bác bỏ. Trung Quốc bác giải pháp Đỏ. Lư Bằng nói: "trong t́nh h́nh hiện nay hai đảng cộng sản mà bắt tay nhau th́ không có lợi".
Hôi nghị Thành Đô là bí mật trên nguyên tắc nhưng Trung Quốc gián tiếp hay trực tiếp thông báo cho nhiều nước trong khi Việt Nam tiếp tục giữ bí mật.
Bộ chính trị họp nhiều lần bàn căi về chuyến đi này nhưng chỉ đến khóa họp ba ngày từ 15 đến 17.05.1991, khi thảo luận về chính sách đối ngoại cho đại hội VII, mới thảo luận kỹ. Buổi họp có Nguyễn văn Linh, Phạm văn Đồng, Vơ Chí Công, Đỗ Mười, Vơ văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sỹ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh B́nh. Phạm Văn Đồng ân hận, Nguyễn Văn Linh nguỵ biện chạy tội. Đỗ Mười tiếc là đă không có Nguyễn Cơ Thạch cùng đi.
Trần Quang Cơ: "Cuộc gặp gỡ Thành Đô là một sai lầm hết sức đáng tiếc" và" Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là v́ chính ta đă tự lừa ta. Ta đă tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xă hội, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xă hội thế giới, chống lại hiểm họa diễn biến ḥa b́nh của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Trung Quốc vừa bác đề nghị liên kết chống tư bản bảo vệ CNXH vừa tiết lộ cho các nước khác biết đề nghị của Việt Nam để cô lập Việt Nam.
05.09.1990: Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Cơ Thạch sang Phnom Penh thông báo kết quả hội nghị Thành Đô nhưng lại không nói là đă chấp nhận công thức 6+2+2+2+1 mà vẫn thuyết phục Hun Sen chấp nhận "giải pháp Đỏ". Lê Đức Anh: "Mỹ muốn xóa cộng sản. Nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất, phải t́m đồng minh, đồng minh là Trung Quốc".
Hun Sen bác giải pháp Đỏ.
19.09.1990: Báo Bangkok Post tiết lộ toàn bộ nội dung thỏa hiệp Thành Đô.
Hun Sen cho Nguyễn Cơ Thạch hay là Trung Quốc đưa toàn bộ băng ghi âm cuộc nói chuyện ở Thành Đô cho Hun Sen.
Theo Ngô Điền, đại sứ Việt Nam tại Campuchia, th́ từ sau hội nghị Thành Đô chính quyền Hun Sen không c̣n tin tưởng Việt Nam nữa.
13.04.1991: BCT họp để thảo luận về đường lối đối ngoại chuẩn bị cho đại hội VII. Bất đồng ư kiến giữa bô ngoại giao và bộ quốc pḥng. Bên ngoại giao ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đọc báo cáo "T́nh h́nh thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và nhà nước ta". Bên bộ quốc pḥng Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân cán bộ của Cục 2 tŕnh bày báo cáo: "T́nh h́nh thế giới và mưu đồ đế quốc". Theo ư kiến của cố vấn Phạm Văn Đồng BCT đồng ư ba ngành ngoại giao, quốc pḥng và an ninh gặp nhau để "nhất trí về t́nh h́nh c̣n công tác th́ mỗi ngành làm riêng".
Về sau Cục 2 bộ quốc pḥng trở thành Tổng Cục 2 và không thấy đại tá Lân, tức Lân Thọt, xuất hiện nữa.
02.05.1991: Ba ngành ngoại giao, quốc phong và an ninh gặp nhau. Bên ngoại giao có ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và bốn thứ trưởng, bên an ninh có bộ trương công an Mai Chí Thọ, bên quốc pḥng có Lê Đức Anh, Trần Văn Quang và đại tá Lân, bên ban đối ngoại TƯĐ có ba phó ban Nguyễn Thị B́nh, Trịnh Ngọc Thái và Nguyễn Quang Tạo.
Trần Quang Cơ nhận định: "Thu hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí trong nhận định t́nh h́nh, chỉ nhất trí được mấy điểm lư luận chung chung.
15,16,17.05.1991: Một tháng trước đai hội 7, bộ chính trị họp để thảo luận về "dự thảo báo cáo về t́nh h́nh thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội 6 và phương hướng tới.
Bàn căi gay go. Nguyễn Cơ Thạch "xin được nói thẳng" phe phán "hai ông anh" (Nguyễn Văn Linh và Phạm Văn Đồng) nhượng bộ "hơi sớm". Vơ Văn Kiệt "Ḿnh bị nó (Trung Quốc) lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc là cạm bẫy". Họp ba ngày không nhất trí. Nguyễn Đức Tâm kết luận: "Chưa làm dự thảo nghị quyết ngay được, (…) bộ chính trị c̣n khác nhau về đánh giá đúng thành tích, đúng bạn thù, đối sách. Tuy vậy vẫn phải có kết luận v́ không c̣n th́ giờ nữa. Bản kết luận chứa đựng rất nhiều điểm "có tranh luận" mà không có kết luận.
********* -diễn biến ḥa b́nh và tụt hâu kinh tế nguy cơ nào lớn hơn? Đa số có vẻ tin rằng sức mạnh của một nước là an ninh quốc pḥng chứ không phải là sức mạnh kinh tế , xă hội.
********* -Tập hợp lực lượng (chọn đồng minh) theo ư thức hệ hay theo lợi ích dân tộc?
********* -Mỹ đang mạnh hơn hay yếu đi?
********* -Thế giới đang tiến tới trật tự một cực (Mỹ là siêu cường duy nhất) hay trật tự đa cực?
********* -Tại sao các nước trong khu vực đều muốn Mỹ có mặt để bảo đảm ổn định trong khi Việt Nam lại coi Mỹ là mối đe dọa nguy hiểm nhất?
********* -Tại sao các nước trong khu vực đều lo ngại Trung Quốc trong khi Việt Nam lại muốn Trung Quốc là đồng minh chiến lược?
********* -Trong hai mặt của Trung Quốc, bành trướng bá quyền và xă hội chủ nghĩa mặt nào là chính?
********* -Mỹ cần Việt Nam để kiềm chế Trung Quốc hay Mỹ đặt quan hệ với Trung Quốc làm ưu tiên hàng đầu nên Mỹ sẵn sàng thí Việt Nam để làm vừa ḷng Trung Quốc?
********* -Việt Nam có nên sớm gia nhập ASEAN không?
17-27.06.1991: Đại hội VII ĐCSVN
Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư.
Lê Đức Anh: Uỷ viên thường trực bộ chính trị kiêm bí thư trung ương phụ trách ba ngành quốc pḥng, ngoại giao và an ninh, đồng thời là chủ tịch nước.
Vơ Văn Kiệt, thủ tướng.
Đào Duy Tùng thường trực ban bí thư,
Vơ Nguyên Giáp ra khỏi BCH TƯ
Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi bộ chính trị.
Bộ chính trị gồm: Đỗ Mười*; *Lê Đức Anh*; *Vơ Văn Kiệt*; *Đào Duy Tùng; *Đoàn Khuê; *Vũ Oanh; *Lê Phước Thọ; *Phan Văn Khải; *Bùi Thiện Ngộ; *Nông Đức Mạnh; *Phạm Thế Duyệt*; *Nguyễn Đức B́nh;* Vơ Trần Chí*; *Lê Khả Phiêu (bổ sung từ tháng 12-1993);* Đỗ Quang Thắng (bổ sung từ tháng 12-1993);* Nguyễn Mạnh Cầm (bổ sung từ tháng 12-1993);*Nguyễn Hà Phan (bổ sung từ tháng 12-1993).
Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Lê Phước Thọ, Nguyễn Hà Phan, Lê Khả Phiêu đồng thời cũng là thành viên ban bí thư.
28.07.1991: "Đoàn đại diện đặc biệt của *Đảng CSVN", gồm Lê Đức Anh, Hồng Hà (bí thư TƯĐ phụ trách đối ngoại) và Trịnh Ngọc Thái (phó ban đối ngoại TƯĐ) sang Bắc Kinh thông báo về kết quả đại hội VII.
Theo Trần Quang Cơ, mặc dù mục đích chính thức của đoàn là để gặp lănh đạo cao cấp Trung Quốc nhưng Lê Đức Anh (chủ tịch nước) và Hồng Hà (trưởng ban đối ngoại trung ương đảng)* đă xin gặp Từ Đôn Tín (phụ tá ngoại trưởng) tới hai lần để tạ tội bất kính trong chuyến viếng thăm Việt Nam năm trước của Từ Đôn Tín mặc dù chính Từ Đôn Tín đă xấc xược chứ không phải Nguyễn Cơ Thạch. Lê Đức Anh nói : "Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đă xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra…"
Để dự trù cho cuộc thảo luận cấp thứ trưởng Việt Trung sắp tới Hồng Hà hỏi Từ Đôn Tín : "Tôi muốn hỏi đồng chí phương hướng giải quyết nên như thế nào để chúng tôi có thể góp phần đạt kết quả tốt?". Xin lệnh đối phương trước khi thương thuyết!
04.08.1991:Sau khi từ Bắc Kinh về. Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp Trần Quang Cơ và Nguyễn Dy Niên (thứ trưởng ngoại giao, người sắp sang Bắc Kinh đàm phán).
Trần Quang Cơ thông báo rằng đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh vừa điện về báo tin cuộc đàm phán cấp thứ trưởng sẽ chỉ có một ngày thay v́ ba ngày như dự trù. Bắc Kinh chỉ muốn áp đặt chứ không muốn thảo luận.
Hồng Hà nói: "Trung Quốc lo cho cuộc đàm phán thất bại. Họ muốn b́nh thường hóa quan hệ với ta nên họ lo".
Trần Quang Cơ: "Về mặt này th́ phải nói là Việt Nam lo hơn v́ Việt Nam mót b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc hơn".
23.10.1991: Kư kết hiệp định Paris về Campuchia với nội dung rất gần với yêu cầu của Trung Quốc và các nước phương Tây.
05.11.1991: Tổng bí thư Đỗ Mười và thủ tướng Vơ Văn Kiệt sang Bắc Kinh đánh dấu sự b́nh thường hóa, Trần Quang Cơ gọi là sự lệ thuộc hóa* đối với Trung Quốc.
1992: Bill Clinton đắc cử tổng thống Mỹ. Mỹ giảm sự hiện diện quân sự tại Châu Á – Thái B́nh Dương. Chính sách kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa (mở cửa kinh tế nhưng vẫn duy tŕ độc tài đảng trị) của Trung Quốc mà Việt Nam cố bắt chước không gặp khó khăn.
31.12.1999: Việt Nam và Trung Quốc kư hiệp định biên giới Việt – Trung trên đất liền. Ngày 20.06.2000 Quốc hội Việt Nam đă phê chuẩn. Hai nước đă hoàn tất việc cắm mốc biên giới.
25.12.2000: Việt Nam và Trung Quốc kư hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và hiệp định hợp tác nghề cá. Ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội Việt Nam khoá XI thông qua hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và lễ trao đổi văn* thư phê chuẩn đă diễn ra ngày 30 tháng 6 năm 2004
03-11.01.2001: Tại đại hội toàn quân chuẩn bị cho đại hội 9 cuả ĐCSVN Lê Đức Anh đă tố cáo Lê Khả Phiêu (tổng bí thư ĐCSVN từ 1998) là trong lúc đi Trung Quốc đàm phán với Giang Trạch Dân đă dâng đất cho Trung Quốc, không đem theo ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm để dễ "thậm thụt". Nguyễn Chí Trung, thiếu tướng, trợ lư của Lê Khả Phiêu biện hộ cho Lê Khả Phiêu như sau:
********* -Về nhượng đất: "Ta thỏa thuận chữa lại cột mốc biên giới ở…do Trung Quốc yêu cầu, họ lập luận trước kia do công nhân đưa cột mốc không tới đỉnh núi đành bỏ lại sườn núi, bây giờ đưa cột mốc lên đỉnh núi".
********* -Về sự vắng mặt của ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm trong phái đoàn đàm phán biên giới: "Cầm không dự v́ không đúng thành phần do Trung Quốc quyết định".
11.01.2007: Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (WTO). Trung Quốc gia nhập ngày 11.12.2001. Việt Nam đă có thể gia nhập năm 1998 nhưng giờ chót đă đổi ư mà không đưa ra lư do nào. ĐCSVN không cải chính dư luận cho rằng Việt Nam không dám gia nhập WTO trước Trung Quốc.
mặc dù bài hơi dài ḍng nhưng nếu các bạn chịu khó đọc kỹ từng thời điểm th́ thấy lũ ngu dốt chóp bu csvn đă bị bọn tàu khựa lừa phỉnh, chèn ép và cột dây vào mũi dắt đi như con chó. quá nhục.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.