(VTC News) - Quân sĩ hừng hực dũng khí. Không một người lính nào không thấy vinh dự khi được hy sinh cứu nước. Các chiến sỹ và nhiều người dân đă tự chích vào tay hai chữ Sát Thát (Giết giặc Mông Cổ) để nói lên quyết tâm của ḿnh.
Bài 2: Ba lần đánh bại Nguyên Mông
Tháng Chạp năm Ất Dậu (1225) Lư Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, chấm dứt giai đoạn nhà Lư cai trị Đại Việt và cũng là thời kỳ mở đầu của vương triều Trần ở nước ta. Trần Cảnh lên làm vua (Trần Thái Tông), phong cho Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc thành quân Chinh Thảo Sự.
Sau khi thay thế nhà Lư (ở giai đoạn này đă quá suy yếu về chính trị, quân sự, kinh tế) - Triều đ́nh nhà Trần tích cực đẩy mạnh việc phát triển kinh tế nông nghiệp, quai đê lấn biển, tiêu diệt các thế lực chống đối, ổn định t́nh h́nh chính trị trong nước, chính quyền trung ương tập quyền được củng cố vững chắc hơn so với triều trước.
Ở đất nước Mông Cổ, năm 1206 Thành Cát Tư Hăn lên làm vua. Nhà nước phong kiến Mông Cổ được h́nh thành và phát triển, nhanh chóng trở thành một đế quốc lớn mạnh chưa từng có trong lịch sử thế giới từ trước đến giờ. Quân Mông Cổ dưới sự lănh đạo của Thành Cát Tư Hăn đă xâm lược rất nhiều nước Châu Âu và Châu Á.
Ở Châu Âu vó ngựa Mông Cổ đă tiến đến Ba Lan và Đức, Hungari và tới sát Ư vào năm 1242, khiến cả Châu Âu chấn động.
“Theo sử biên niên của nước Pháp th́ mối lo sợ trước quân Mông Cổ đă làm đ́nh trệ cả sự buôn bán”. Ở Đức xuất hiện bài kinh cầu nguyện “Chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ của Tác-ta – Mông Cổ”.
Ở phía Nam quân Mông Cổ chiếm Trung Quốc, Cao Ly, tấn công Nhật Bản... Một đế quốc Mông Cổ rộng mênh mông được tạo lập từ bờ biển Hắc Hải đến tận Thái B́nh Dương.
Quân đội Mông Cổ với lực lượng kỵ binh thiện chiến đánh đâu thắng đấy! Nhưng cả ba lần xâm lược Đại Việt, với 1 triệu quân, th́ bị đánh cho đại bại. Chủ tướng Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để quân lính “kéo” về Vân Nam. Toa Đô, dũng tướng khét tiếng của Mông Cổ bị rơi đầu. Ô Mă Nhi, Phàn Tiếp bị bắt, trở thành vật tế sống ở mộ các vua Trần...
Lịch sử dân tộc đă ghi những chiến công oanh liệt của quân nhân thời Trần vào thế kỉ thứ 13. Đúng như lời thơ hào sảng của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải sau chiến thắng chống Nguyên Mông: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử giết quân thù/ Thái B́nh nên gắng sức/ Non nước ấy ngàn thu”.
“Đầu tôi chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo”
Năm 1257, chúa Mông Cổ là Mông Kha tế cờ trên bờ sông Kê-Ru-Len rồi xuất quân đánh nhà Tống (Trung Quốc).
Nguyên sử (Trung Quốc) quyển 209 - phần An Nam truyện chép rằng: “Ngột Lương Hợp Đài (Hốt Tất Liệt chiếm được nước Đại Lư để Ngột Lương Hợp Đài ở lại toan đến đánh chiếm Giao Chỉ), đóng binh ở phía Bắc Giao Chỉ, sai hai sứ giả sang trước để dụ” (SĐD –Tr.467). “Vua Trần Thái Tông không những không chịu đầu hàng mà cho bắt giam sứ Mông Cổ” (VNSL-Tr.120).
Tháng 12, ngày 12, tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Đài xâm lấn B́nh Lệ. Sách Nguyên sử - Q.209 chép: “Thấy sứ giả không trở về Ngột Lương Hợp Đài bèn sai bọn Triệt Triệt Đô đem 1000 người chia đường mà tiến đến trên sông Thao ở Kinh Bắc nước An Nam. Lại sai con là A Truật sang giúp và nḥm ngó t́nh h́nh. Người Giao (Chỉ) cũng bày nhiều binh vệ. A Truật trở về báo Ngột Lương Hợp Đài để tiến gấp. Sai Triệt Triệt Đô làm tiên phong, A Truật đi sau. Tháng 12, hai quân hợp nhau” (SĐD-Tr.468).
|
Đền thờ nhà Trần ở Thái B́nh. |
Khi quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Đài tấn công B́nh Lệ, vua Trần Thái Tông tự làm tướng đốc chiến đi trước xông pha tên đạn. Tướng Lê Phụ Trần một ḿnh một ngựa ra vào trận giặc, sắc mặt như thường.
Thế giặc mạnh, quân ta lui về giữ ở sông Lô. Giặc bắn tên như mưa xuống thuyền của vua, tướng Lê Phụ Trần liền lấy ván thuyền để chắn tên cho vua. Trước sự hung hăn và mạnh mẽ của quân giặc, vua Trần dời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Thái sư trả lời: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất th́ bệ hạ không cần lo ngại ǵ cả” (ĐVSKTT-Tr.470).
Để tránh sức mạnh ban đầu của giặc, quân ta chỉ để lại một bộ phận chặn giặc và làm nghi binh, c̣n đại quân được lệnh rút về Hưng Yên, Thiên Trường, Long Hưng...
Kinh thành bỏ trống, nhân dân trong thành Thăng Long được lệnh làm theo kế “Thanh Giă” (vườn không nhà trống). Quân Mông Cổ tiến vào thành Thăng Long mới phát hiện cả thành trống rỗng, Ngột Lương Hợp Đài tức giận cho quân cướp bóc, tàn phá kinh thành, giết cả những nam phụ lăo ấu trong thành do không sơ tán kịp.
Lương thực của quân giặc mang theo đă cạn, kinh thành lại trống không, kẻ địch đă cố gắng tiến hành những cuộc cướp phá ở những vùng xung quanh thành Thăng Long, nhưng đến đâu chúng cũng gặp sức chống trả mănh liệt của nhân dân.
Khi quân Mông Cổ tiến đến Cổ Sở (nay là Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội) nhân dân ở đây đă đoàn kết chiến đấu, đánh cho chúng một trận tơi bời, xác giặc ngổn ngang, ngựa chúng sập hầm, trúng chông què, lũ cướp nước tan tác bỏ chạy. Không có lương thảo, binh sĩ mỏi mệt, lại thêm khí hậu khắc nghiệt, quân xâm lược Mông Cổ lâm vào t́nh thế tiến lui đều gặp khó khăn.
Nắm chắc thời cơ thuận lợi, ngày 24, tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ 7 (29/01/1258), vua Trần Thái Tông cùng thái tử Hoảng chỉ huy lâu thuyền ngược ḍng Thiên Mạc phá tan giặc ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại kinh thành.
Bị đánh bật khỏi thành Thăng Long, quân Mông Cổ quay đầu rút chạy về Vân Nam. Đang lúc chỉ mong thoát thân th́ chúng lại bị đồng bào dân tộc vùng núi ở trại Quy Hóa theo trại chủ là Hà Bổng đổ ra tập kích. Bị đánh bất ngờ, quân giặc bỏ chạy tháo thân và bị thiệt hại nặng nề về người, vũ khí, quân trang.
|
Tượng Trần Hưng Đạo. |
Khác hẳn với thái độ nghênh ngang hung hăn khi tiến quân vượt biên giới vào Đại Việt, bọn xâm lược Mông Cổ bị đánh cho tan tác, mạnh ai nấy chạy, lén lút t́m đường vượt biên giới trốn chạy cho nhanh. Chúng không c̣n dám nghĩ đến chuyện cướp bóc, đốt phá, tranh giành của cải như khi mới sang.
Để chế giễu thái độ đó của chúng, người thời bấy giờ đă gọi chúng bằng cái tên rất mỉa mai là “Giặc Phật”. Cuối tháng Giêng (1258), địch hoàn toàn rút khỏi nước ta.
Thắng lợi của quân dân Đại Việt trong chiến tranh lần thứ nhất chống Mông Nguyên, không những đă bảo vệ được nền độc lập dân tộc mà c̣n bẻ găy một gọng ḱm của quân Mông Cổ định chiếm xong nước ta th́ tấn công vào miền Nam Trung Quốc tiêu diệt triều đ́nh nhà Nam Tống.
Cuộc chiến đấu và chiến thắng năm Nguyên Phong thứ 7 do vua Trần Thái Tông và tướng quốc Trần Thủ Độ chỉ huy măi măi là niềm tự hào được ghi trên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Vua Trần Nhân Tông sau này trong bài thơ “Ngày Xuân yết bái Chiêu Lăng” đă viết: “Bạch đầu quân sĩ tại .... Văng văng thuyết nguyên phong...” (Người lính già đầu bạc ... Kể măi chuyện nguyên phong).
“Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù”
Sau khi đánh đổ nhà Nam Tống (1279) chiếm toàn bộ lănh thổ Trung Quốc, quân Mông Cổ ngày càng trở nên hùng mạnh. Hốt Tất Liệt đổi quốc hiệu là Đại Nguyên, chuẩn bị những cuộc viễn chinh mới để thực hiện mưu đồ thống trị thế giới.
Ở phía Đông chúng chuẩn bị đánh Nhật Bản, phía Nam âm mưu chiếm các nước Đông Nam Châu Á rồi tiến đánh Ấn Độ...
Mục tiêu đầu tiên để tràn xuống Đông Nam Á của quân Nguyên là phải san bằng được Đại Việt. Hốt Tất Liệt huy động một đội quân tinh nhuệ, đông tới 60 vạn người do con trai của y là Trấn Nam Vương Thoát Hoan chỉ huy. Bên cạnh Thoát Hoan c̣n có hàng chục viên tướng nổi tiếng khác đó là A-Rích-Kha-A, Ô Mă Nhi, Lư Hằng, Lư Quan, Toa Đô...
Năm 1282 Hốt Tất Liệt cử Toa Đô dẫn 10 vạn quân tấn công Chiêm Thành, sau đó Thoát Hoan đem quân tấn công nước Đại Việt ở phía Bắc, tạo thế gọng ḱm kẹp quân ta vào giữa hai đạo quân Mông Cổ để tiêu diệt.
Sau chiến thắng năm 1258, nhà Trần chủ trương vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết duy tŕ quan hệ ngoại giao với nhà Nguyên. Nhưng mặt khác vẫn chủ động tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược lần thứ hai của giặc.
Năm 1282 nhà Trần không đồng ư cho quân Nguyên mượn đường sang đánh Chiêm Thành, v́ biết đây là kế “Giả đ̣ diệt quắc” của giặc. Trái lại quân ta c̣n tích cực ủng hộ Chiêm Thành chống quân Nguyên xâm lược.
Trước âm mưu xâm lược của Nhà Nguyên ngày càng lộ rơ, tháng 10 (1282) vua Trần tổ chức hội nghị B́nh Than cùng triều đ́nh và các vương hầu bàn kế chống giặc.
Vị tướng tài Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn quân. Hội nghị vương hầu bách quan ở B́nh Than có mục đích “bàn kế đánh pḥng” và “chia quân giữ nơi hiểm yếu”.
Trần Quốc Toản tuy tuổi c̣n nhỏ, không được dự họp đă bóp nát quả cam cầm trong tay mà không biết. Sau đó Quốc Toản trở về lập một đội quân hơn ngh́n người, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền chờ ngày giết giặc cứu nước. Trên lá cờ của người thiếu niên anh dũng đó có 6 chữ: “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua).
Tháng 8, năm Giáp Thân (1284) quân ta hội quân tại bến Đông Bộ Đầu tổng cộng có trên 20 vạn quân duyệt binh, sau đó các tướng Trần B́nh Trọng, Trần Khánh Dư, Trần Quang Khải... được lệnh đem quân trấn giữ các vùng xung yếu trong nước để đề pḥng quân Nguyên tràn sang.
Sau đó vua Trần cho triệu tập hội nghị Diên Hồng lịch sử, nhằm động viên sự nhất trí chống giặc trong nhân dân. Yến tiệc được mở ra tại thềm điện Diên Hồng, Vua hỏi các bô lăo: “Thế giặc mạnh, chúng ta nên ḥa hay nên đánh?”. Trả lời cho câu hỏi của vua Trần là tiếng hô vang của hàng vạn phụ lăo “Đánh, Đánh”, “vạn người cùng nói như từ một miệng” (Toàn thư).
Tiếng hô “Đánh” của các phụ lăo ở điện Diên Hồng biểu lộ tinh thần quyết chiến của toàn dân Đại Việt. Đúng như người xưa nói: “Người chèo thuyền là dân, người lật thuyền cũng là dân” (Sức dân mạnh như sóng biển). Những bậc phụ lăo, những đại biểu có uy tín của nhân dân đă nói lên tiếng nói của cả dân tộc.
Hội nghị Diên Hồng là một cuộc họp mặt đại biểu rộng khắp của toàn dân - độc nhất vô nhị trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các bô lăo đă mang tới cho vua Trần và triều đ́nh câu trả lời quyết chiến của nhân dân ở các lộ trong cả nước, và cũng mang từ Thăng Long về mọi miền quê cái không khí quyết tâm chống giặc giữ nước của hội nghị Diên Hồng và quyết tâm của Triều đ́nh.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên sau này nhận xét: “Đó là Thánh Tông (chỉ vua Trần) muốn xem sự ái hộ thành thật của hạ dân và muốn cho họ nghe dụ hỏi mà cảm kích phát lên” (Toàn thư –Q.5-Tr.44b). Với ḷng yêu nước nồng nàn, ở khắp các lộ (thời Trần chia nước làm các phủ - lộ) trong nước có những bảng treo ḍng chữ: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi th́ cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” (Theo sách Nguyên sử của Trung Quốc – Q.209-Tr.7).
Trong không khí: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” ấy th́ lời hịch của Trần Quốc Tuấn kích động ḷng dân và quân háo hức quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của ḿnh: “...Nay các ngươi ngồi nh́n chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đ́nh phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc Thái thường đăi yến Ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển... hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước... nếu có giặc Mông Thát tràn sang... tiền của dẫu nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù... lúc bấy giờ chủ tôi nhà ta cùng bị bắt đau xót biết chừng nào; chẳng những thái ấp của ta không c̣n, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng những gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị bắt đi, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu c̣n lưu... Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?
....V́ sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc, muôn đời để thẹn, há c̣n mặt mũi nào đứng trong cơi trời che đất phủ này nữa. Vậy ta viết bài hịch này để các ngươi biết rơ ḷng ta”.
Bài hịch đă xoáy vào những nỗi uất ức căm thù của tướng sĩ trong bao nhiêu năm, mà phấn kích tinh thần chiến đấu của họ. Quân sĩ hừng hực dũng khí. Không một người lính nào không thấy vinh dự khi được hy sinh cứu nước. Các chiến sỹ và nhiều người dân đă tự chích vào tay hai chữ Sát Thát (Giết giặc Mông Cổ) để nói lên quyết tâm của ḿnh.
Cuối năm 1284 Thoát Hoan tiến quân vào nước ta, giặc chia quân làm 2 mũi đánh vào Tuyên Quang và Lạng Sơn. Quân ta chủ động chặn giặc ở Lạng Sơn rồi lui vào khu vực ở Lạng Giang và Vạn Kiếp.
Thoát Hoan liền chia quân làm ba mũi ư dịnh vây chặt quân ta để tiêu diệt. Với thế mạnh như chẻ tre, quân giặc tưởng chừng như đè bẹp ngay được quân dân Đại Việt, nhưng với thiên tài quân sự của ḿnh, Trần Quốc Tuấn đă nhận định: “Nguyên binh khí nhuệ đang hưng, kíp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”.
Sau đó quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng theo 2 hướng Thăng Long – Thiên Trường và một bộ phận rút về hướng Quảng Yên để giặc lầm tưởng vua quan triều Trần chạy ra biển.
Ngày 13 tháng Giêng (19/2/1285), quân Nguyên tiến vào kinh thành Thăng Long đă bị bỏ trống. Toa Đô lúc này được lệnh đem quân từ Chiêm Thành tiến ra, Thoát Hoan cho Ô Mă Nhi dẫn quân đi đường biển để tiếp ứng cho Toa Đô đánh từ phía Nam đánh ra.
Tướng Trần Quang Khải của ta dùng lối đánh chặn từng bước, đă chặn đứng được quân Toa Đô ở giáp giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An, ngăn không cho chúng ra Bắc.
Tháng 2 (1285) địch cho quân tiến xuống Hưng Yên, Hà Nam, Thiên Trường, truy kích đại quân của vua Trần. Tại băi Đà Mạc (Hưng Yên) tướng Trần B́nh Trọng được lệnh chặn quân truy đuổi của giặc để vua và Đại quân di chuyển về Thiên Trường, Thanh Hóa.
Khi đại quân Nguyên tới, Trần B́nh Trọng tả xung hữu đột chiến đấu, nhưng v́ địch đông ta ít nên cuối cùng ông bị sa vào tay giặc. Thoát Hoan muốn dụ hàng nên hỏi ông rằng: “Có muốn làm vương đất Bắc không?” Trần B́nh Trọng quát lên: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”....
Thoát Hoan thấy không dụ được ông liền sai quân đem chém. Vua, quan, quân triều đ́nh nhà Trần nghe tin Trần B́nh Trọng tử tiết ai cũng tỏ ḷng thương xót.
Đi đôi với kế “Vườn không nhà trống”, khắp nơi dân binh kết hợp với quân lính nhà Trần tổ chức đánh úp, đánh tỉa, đánh phục kích các toán quân địch đi sục sạo cướp bóc lương thảo.
Do chủ quan tưởng có thể thắng nhanh, quân Nguyên không tải theo nhiều lương thực v́ thế bị thiếu ăn, ḷng quân ngày càng hoang mang dao động. Hai mũi quân giặc do Thoát Hoan và Toa Đô chỉ huy lại không kết hợp được với nhau.
Để gỡ thế bí, Thoát Hoan thúc giục Toa Đô nhanh chóng tiến ra Bắc để hội quân với y cho có thêm sức mạnh tiếp tục tấn công Đại Việt. Nắm được ư đồ của giặc, thấy thời cơ đă đến. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn quyết định nhằm đạo quân Toa Đô để đánh trận phủ đầu tiêu diệt địch.
Đạo quân Toa Đô đánh nhau với Trần Quang Khải ở Thanh Hóa và Nghệ An măi không thắng được, lương thực ngày một kiệt quệ. Nhận lệnh của Thoát Hoan phải ra Bắc hội quân nên y cùng Ô Mă Nhi xuống thuyền vượt biển để ra Thăng Long.
Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chủ trương không để cho giặc hội quân v́ thế đến tháng Tư (1284) đă cử Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật làm tướng chỉ huy, Trần Quốc Toản làm phó tướng cùng tướng quân Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân phục kích ở khu vực bến Hàm Tử (thuộc Đông An, Hưng Yên). Quân ta dựa vào lau sậy mọc um tùm hai bên bờ sông để đón đánh thuyền giặc.
Trận địa mai phục vừa xong th́ thuyền chiến của Toa Đô dẫn xác tới. Quân ta từ nhiều phía bổ vây địch. Lúc đó, trong đội quân của tướng Trần Nhật Duật c̣n có Triệu Trung là tướng nhà Tống (đầu quân trong đạo quân của Trần Nhật Duật) mặc áo, đeo cung tên như quân Tống, cũng tham gia chiến đấu rất dũng mănh đánh đuổi quân Nguyên.
Bị đánh úp bất ngờ quân Nguyên hoảng loạn nhảy xuống sông và bị thiệt hại rất nặng. Số quân c̣n lại theo Toa Đô rút ra cửa biển Thiên Trường. Thời cơ đă đến, Hưng Đạo Vương và vua Trần chủ động tấn công Thành Thăng Long. Thực hiện sách lược đă được vạch ra, quân ra đă đánh một trận rất lớn và rất tài t́nh, đó là trận: Chương Dương.
Lúc đó Đại quân của Thoát Hoan đóng ở Thăng Long, chiến thuyền giặc đóng ở bến Chương Dương.
Sau chiến thắng Hàm Tử, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản cùng các tướng khác được lệnh đem quân đánh Chương Dương và thành Thăng Long.
Phối hợp với quân chủ lực của triều đ́nh c̣n có các đạo quân binh ở các lộ do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Tuyền chỉ huy. Đây là trận mà quân ta đă phối hợp tốt giữa quân địa phương và dân binh với quân triều đ́nh.
Quân ta bí mật đánh úp, áp sát thủy trại giặc. Bị bất ngờ, quân giặc đạp lên nhau mà chạy lên bờ để trốn về thành Thăng Long. Quân ta truy sát địch tới sát chân thành. Thoát Hoan vội đem đại quân ra tấn công, quân ta giả vờ thua chạy, địch đuổi theo liền bị phục binh của Trần Quang Khải đổ ra đánh, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng Long chạy qua sông Hồng, rồi đóng quân tại vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh).
Tài liệu thời Nguyên (Trung Quốc) chép: “Thủy lục đến đánh vào đại doanh, vây thành mấy ṿng, quan quân (chỉ quân Nguyên) sớm tối đánh khốn đốn, thiếu thốn lương thực, khí giới đều hết”.
Trần Quang Khải đem quân vào thành Thăng Long, cảm khái trước sự dũng mănh của dũng sĩ và nhân dân, ông đă viết: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử giết quân thù/ Thái Binh nên gắng sức/ Non nước ấy ngàn thu”.
Toa Đô đóng quân ở Thiên Trường, cách Thoát Hoan hơn 200 dặm (không biết Thoát Hoan đă thua trận, thoát chạy về Bắc Giang rồi), cho quân tiến về sông Thiên Mạc với ư đồ hợp quân với Thoát Hoan. Khi được tin Thoát Hoan đă bại trận, Toa Đô liền rút quân về đóng ở Tây Kết, rồi cho người đi ḍ tin tức của Thoát Hoan.
Sau chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương, Trần Hưng Đạo cho các tướng Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chia quân chặn các ngả đường không cho Thoát Hoan và Toa Đô thông tin được với nhau. Tiếp đó Hưng Đạo Vương đem binh đến Tây Kết chia quân đánh trại quân Nguyên và đặt phục binh để bắt Toa Đô.
Quân ta càng đánh càng hăng, quân Nguyên địch không nổi, Toa Đô và Ô Mă Nhi đem tàn quân chạy lên bờ t́m đường bộ ra biển, nhưng bị phục binh của ta vây đánh.
Tương truyền tướng quân Nguyễn Khoái đă bắn chết Toa Đô tại trận, c̣n Ô Mă Nhi t́m đường chạy vào Thanh Hóa. Khi bị quân ta truy đuổi y đă vội vàng xuống thuyền, một ḿnh liều chết chạy ra biển trốn về Trung Quốc.
Nhà sử học Đặng Hùng
VTC