Dù đă hết sức nỗ lực, dù đă có một số bộ phim “được ḷng” công chúng, nhưng phim truyền h́nh Việt Nam, phần đa vẫn mang tiếng là dở, nhạt. V́ sao nên nỗi?
Kịch bản – nghèo chất văn học
Khâu đầu tiên cho bất cứ một bộ phim nào là kịch bản. Nhiều năm trở lại đây, phim truyền h́nh chỉ chấp nhận nhiều tập, phải từ vài ba chục tập trở lên (tới cả trăm tập). Bởi vậy, kịch bản từng tập khó ḷng mà được chau chuốt, nhất là luôn phải chạy theo thời gian. Vậy nên nhiều khi chỉ là những phác thảo ư tưởng, sơ lược cốt truyện nhằm chuyển tải một ư đồ tư tưởng, một nội dung tuyên truyền nào đó. Nội dung thường dễ hiểu, chỉ dừng lại ở bản thân câu chuyện diễn ra trong phim, rất ít tính khái quát, triết lư nên thiếu sâu sắc. Con người th́ mờ nhạt. Đời sống nội tâm, tinh thần các nhân vật ít khi được đào sâu tới mức cần thiết. Vậy nên có thể nói khái quát là tính văn học mờ nhạt. Sẽ không có ǵ quá đáng nếu nói khá nhiều phim THVN hiện nay chỉ có thể gọi được là những câu chuyện truyền h́nh.
Chất văn học luôn là cái cốt lơi, yếu tố tiên quyết tạo nên giá trị của bất cứ tác phẩm văn nghệ nào (thuộc tất cả các chủng loại). Đó là những phát hiện, khám phá liên quan đến thế giới tinh thần phong phú và sâu sắc của con người. Chất văn học nghèo nàn, mờ nhạt sẽ khiến tác phẩm trở nên hời hợt, không thể khiến công chúng thưởng thức đón nhận và ưa thích.
Tăng Thanh Hà và Lương Mạnh Hải trong phim Bỗng dưng muốn khóc
Thay thế cho tính văn học như đă nói, nhiều kịch bản phim truyền h́nh chỉ thuần túy là những câu chuyện nhằm minh họa, thuyết lư hoặc tuyên truyền, giáo huấn một ư đồ tư tưởng đă định trước. Kịch bản văn học vốn đă không được viết tỉ mỉ, kỹ lưỡng, đến khi triển khai thành kịch bản phân cảnh lại luôn được sửa chữa, thay đổi tại hiện trường (khi quay phim) cho phù hợp với bối cảnh, diễn viên v.v… nên khó đạt được sự nhất quán, và v́ thế cũng không thể mang lại chất lượng như mong muốn.
Đạo diễn – bất cập với yêu cầu
Đạo diễn điện ảnh - đúng nghĩa của từ này - là một công việc khó khăn, đ̣i hỏi phải có tŕnh độ hiểu biết về nhiều phương diện: văn học, triết học, âm nhạc, mĩ thuật, mĩ học, thậm chí cả lịch sử, địa lư và nhiều lĩnh vực xă hội khác. Nhưng có lẽ v́ rất ít kịch bản có giá trị văn học như đă nói mà các đạo diễn cũng tự hạ thấp yêu cầu về năng lực. Đạo diễn truyền h́nh thời này dường như ít khi có mặt trên phim trường. Người thay mặt đạo diễn có quyền chỉ đạo buổi quay phim đưa cho các diễn viên những mẩu kịch bản có vai của họ rồi hướng dẫn qua. Diễn viên th́ cứ thế mà răm rắp làm theo, miễn góp ư, thay đổi. Diễn viên nào muốn “góp ư”, vừa chẳng được ǵ, lại mất ḷng đạo diễn, về sau chẳng bao giờ họ mời đóng nữa. Có những chi tiết đạo diễn yêu cầu diễn viên làm đi làm lại tới cả chục lần, mặc dù ngay lần diễn đầu tiên, ai cũng thấy là đă rất ổn. Vậy nên đă gây cho diễn viên sự ức chế do mất hết cảm xúc. Trong trường hợp trên, không hẳn là đạo diễn khó tính mà là đă quá chú trọng những chi tiết không đáng phải mất nhiều thời gian trong khi những giá trị khác lẽ ra cần được quan tâm th́ lại bị bỏ qua. Có người nói không ngoa về t́nh h́nh đạo diễn như trên: có lẽ 1 một đạo diễn phim truyền h́nh hiện nay chỉ nên làm đạo diễn phim quảng cáo sẽ vừa sức hơn.
Diễn viên – ai cũng làm được
Đóng góp vào sự hạn chế về chất lượng của nhiều phim THVN hiện nay c̣n có cả đội ngũ diễn viên. Quá nhiều gương mặt quen thuộc. Không phủ nhận nhiều diễn viên không đến nỗi thiếu tài năng nhưng v́ tần suất đóng phim quá nhiều mà trở nên nhàm, nhất là các vai họ đảm đương chẳng có ǵ khác nhau ở nhiều phim, lại có tính cách mờ nhạt. Tâm lư của nhiều đạo diễn là rất ngại t́m kiếm những gương mặt diễn viên mới, thành thử cứ mời những người đă diễn nhiều trước ống kính cho chắc ăn, khỏi phải mất công phân tích nhân vật, hướng dẫn, uốn nắn, mà thị phạm cho diễn viên làm theo th́ họ không có khả năng bởi đạo diễn phim truyền h́nh không từ diễn viên mà nên, họ chẳng biết ǵ về diễn xuất. Diễn viên chính cần người quen thuộc đă đành, ngay cả những diễn viên phụ, chỉ loáng thoáng xuất hiện trên phim, họ cũng muốn mời những người đă “nhẵn mặt” v́ sẽ nhanh, đỡ mất công t́m kiếm. Từng xảy ra sự việc đáng buồn cười: có khán giả cùng một lúc bấm điều khiển chuyển nhiều kênh trên tivi đều thấy một diễn viên xuất hiện. Ngán quá, họ tắt, không muốn xem nữa. Có lẽ các đạo diễn đă không nghĩ tới khả năng: nhiều khi người xem không thích xem phim của ḿnh chỉ v́ “dị ứng” với một vài diễn viên nào đó. Họ đă mất cảm t́nh th́ cứ thấy diễn viên đó có mặt trong phim nào là ghét luôn phim đó.
Bản thân năng lực diễn viên cũng là điều đáng bàn. Có lẽ ngoại trừ các diễn viên chính có mặt ngay từ đầu tới cuối phim, c̣n th́ những vai phụ không cần biết kịch bản viết về đề tài ǵ, có cốt truyện ra sao. Đến lúc quay, người thư kư đưa cho người sắm vai phụ những mẩu kịch bản có lời thoại, diễn xuất của họ. Ngay lập tức họ tranh thủ cố gắng đọc qua tại chỗ. Thuộc được lời th́ càng tốt, nếu không sẽ được nhắc. Cũng vô hại, và không thể khác, v́ thường những vai phụ này không có cá tính ǵ đặc biệt, diễn viên gần như chỉ làm công việc nói kịch bản, chứ không có ǵ để phải…diễn! Và như thế, người ta có cảm giác bất cứ ai cũng có thể làm được diễn viên, lên được màn ảnh nhỏ.
Làm nghệ thuật hay… gia công hàng hóa?
Bất cứ một tác phẩm văn nghệ nào cũng là một sản phẩm, và là một thứ hàng hóa đặc biệt. Đă là hàng hóa th́ phải tuân thủ mọi quy luật khắc nghiệt của thị trường. Nhưng làm ra “hàng hóa” văn nghệ ngoài sự thông minh của bộ óc, c̣n có sự tác động rất nhiều của con tim. Có thể nói, thứ hàng hóa đặc biệt này là sản phẩm của tâm hồn con người. Tuy phim truyền h́nh là một thứ công nghệ hội thêm nhiều yếu tố khác ngoài nghệ thuật (kỹ thuật, kinh tế…) nhưng sản phẩm cuối cùng là nghệ thuật, mang dấu ấn của trái tim nghệ sĩ. Vậy nên nó đích thực phải là lao động nghệ thuật sáng tạo. Nhưng quan sát thực trạng làm phim truyền h́nh như đă nói th́ thấy hoàn toàn như một sự gia công sản phẩm theo đơn đặt hàng trước. Rất ít thấy không khí sáng tạo nghệ thuật thực sự ở những bộ phim vào loại tầm phào, vô bổ (đang chiếm tỷ lệ lớn nhất hiện nay), mà chỉ thấy cách làm việc luôn phải đuổi theo thời gian của ê kíp làm phim.
Có thể bị câu thúc bởi yêu cầu gia tăng phim nội, cần đảm bảo chỉ tiêu thời lượng phát sóng nào đó mà những người làm phim THVN phải “vắt chân lên cổ” để hoàn thành nhiệm vụ, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng cuối cùng. Nhưng công chúng th́ không bao giờ để ư và cảm thấy điều đó. Với họ, chỉ có điều duy nhất: phim có hay, có bổ ích, thỏa măn được nhu cầu hưởng thụ của họ không mà thôi. Vậy nên, rất cần xem xét lại việc do phải chạy đua với số lượng mà buộc phải bất cập về chất lượng.
Với cung cách làm phim như nói trên th́ số phim dở, nhạt chiếm tỷ lệ quá lớn là điều dễ hiểu vậy.
Nhà Báo & Công Luận