FOUNTAIN VALLEY (NV) - Nếu ở xuất diễn thứ nhất, do không còn chỗ ngồi, một ít người phải đứng xem nơi cuối khán phòng, thì ở xuất diễn thứ hai, kiếm được một chỗ đứng để xem kịch cho thoải mái cũng không phải là chuyện dễ. Bản thân người viết bài cũng phải đứng trong cả hai xuất xem như thế.
Bấy nhiêu đó, đủ nói lên sự thành công ngoạn mục của chương trình đại nhạc hội mà trọng tâm là vở kịch “Lời Thề Định Mệnh” do ban kịch Sống Túy Hồng thực hiện vào ngày Chủ Nhật, 9 Tháng Sáu, tại nhà hát Saigon Performing Arts Center, Fountain Valley.

Các diễn viên tham gia trong vở kịch "Lời Thề Định Mệnh" của ban kịch Sống Túy Hồng. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
“Lời Thề Định Mệnh”- triết lý dân gian “ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão”
“Lời Thề Định Mệnh” được nhà văn Nguyễn Thị Minh Ngọc viết kịch bản dựa theo hai tác phẩm “Bỏ Vợ” (sáng tác năm 1938) và “Bức Thư Hối Hận” (viết năm 1953) của nhà văn Hồ Biểu Chánh.
Nội dung vở kịch xoay quanh câu chuyện kể về người đàn ông tên Võ Như Bình (Trương Minh Cường đóng) vì tham giàu sang, phú quý đã phụ rẫy Huyền (Vân Trang đóng), người vợ nghèo ở Sài Gòn, để cưới Mỹ Hương (Ngọc Lan đóng), một góa phụ giàu có ở Cần Thơ .
Thoạt đầu, để che giấu hành động khuất tất của mình, Bình thề độc với Huyền rằng nếu “sanh tâm ăn ở hai lòng, phụ bạc vợ thì cho tới cuối đời có làm lớn, tiền muôn bạc vạn, ruộng đất bề bề rồi cũng trắng tay, mất chức, mất tiền, con cái không nhìn mặt cha.”
Cũng lời thề đó, Bình mang ra thề thốt với Mỹ Hương, người phụ nữ từng qua một đời chồng và có hai đứa con riêng tên là Phụng và Loan
Khi phát giác ra sự bội bạc của Bình, Huyền quyết định chia tay và giữ lại đứa con trai tên Võ Như Nghiệp để nuôi, dù trong nghèo khó.
Sau đó, Huyền tái hôn với Cang (Bằng Kiều đóng), một thanh niên từ Bắc vào Nam lập nghiệp. Cang xem Nghiệp như con đẻ của mình.
Hai mươi lăm năm sau, Bình thất bại trên đường công danh, Mỹ Hương qua đời. Hai người con riêng của Mỹ Hương không thừa nhận cha dượng là Bình và đuổi ông ra khỏi nhà.
Trong khi đó, vợ chồng Huyền-Cang ăn nên làm ra trở nên giàu có. Nghiệp lấy vợ, chính là Loan, một trong hai người con của Mỹ Hương.
Bình hối hận, cô độc tuổi về già, viết thư ăn năn, muốn được Nghiệp kêu bằng một tiếng “cha.” Khi đó, Nghiệp mới biết Cang chỉ là bố nuôi của mình. Thế nhưng với suy nghĩ “công sanh không bằng công dưỡng,” Nghiệp chỉ thừa nhận Cang là người bố duy nhất trong đời anh.
Dù vậy, Nghiệp cũng bật ra được tiếng gọi Bình là “cha” ngay lúc Bình nhắm mắt lìa đời.
Từ trái: Trương Minh Cường (vai Bình), Thanh Tâm (Nghiệp), Bằng Kiều (Cang) và Vân Trang (Huyền) trong màn cuối vở "Lời Thề Định Mệnh." (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
Sự đồng cảm của khán giả nay với triết lý nhân nghĩa xưa
Vở kịch khép lại trong sự hả hê, mãn nguyện của những khán giả vốn dĩ chuộng triết lý nhân nghĩa tự bao đời nay - kẻ tham sanh phụ nghĩa sẽ chuốc lấy quả báo, người hiền lương, trung hậu sẽ hưởng hoa thơm trái ngọt ở phần đời còn lại.
Sau nhiều tác phẩm được dựng thành phim, được chuyển thành kịch, lần này, với “Lời Thề Định Mệnh,” một lần nữa chứng minh cho sức sống của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, dù ra đời từ thế kỷ trước nhưng vẫn được đón nhận một cách nồng nhiệt trong bối cảnh cuộc sống hiện tại.
Hầu hết khán giả đến với vở kịch “Lời Thề Định Mệnh” của ban kịch Sống Túy Hồng đều ít nhiều có sự hiểu biết và yêu thích tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thuộc về thời kỳ đầu của văn học chữ quốc ngữ. Đề tài trong truyện ông phần lớn là cuộc sống Nam Bộ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cốt truyện Hồ Biểu Chánh đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành. Cách diễn đạt của ông nôm na, bình dị, đặc biệt đậm chất địa phương Nam Bộ Lục Tỉnh, từ giọng văn đến miêu tả con người.
Tất cả những đặc điểm đó của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đều được nhà văn Nguyễn Thị Minh Ngọc và đạo diễn Hùng Lâm chuyển tải một cách tài tình vào từng nhân vật xuất hiện trong “Lời Thề Định Mệnh.”
Tư tưởng nghĩa nhân, đôn hậu thuần khiết, biết phân biệt phải trái, biết lý biết tình, căm ghét sự phản bội, dối trá,... mãi là triết lý được người ta tôn thờ và suy ngẫm. Điều này được thể hiện qua những tràng pháo tay vang lên một cách tự nhiên, thể hiện sự đồng cảm trước những lời đối thoại, cách hành xử của các nhân vai trong vở kịch, đặc biệt trong cảnh gặp gỡ giữa hai người phụ nữ đau khổ là Huyền và Mỹ Hương, hoặc giữa Huyền và Bình tại nhà Mỹ Hương, hay lý lẽ nhìn bố nuôi hay cha ruột của đứa con ở màn cuối.
Thành công của diễn viên chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư
Như kịch sĩ Túy Hồng, linh hồn của ban kịch Sống Túy Hồng, cho biết, “Tìm được diễn viên kịch ở hải ngoại rất khó, rất hiếm. Nên hầu hết đều là diễn viên nghiệp dư.”
Điều này đúng trong trường hợp của Túy Thanh, Calvin Hiệp, Trần Tường Nguyên, Thanh Tâm, Tristine Trâm Bùi...
“Nghiệp dư” nhưng lại giàu lòng đam mê với kịch nghệ, cùng với tài năng của người đạo diễn nên tất cả diễn viên, dù chuyên nghiệp như Bảo Quốc, Vân Trang, Ngọc Lan, Túy Hồng, Trang Thanh Lan... hay nghiệp dư, đều thể hiện khá tròn vai của mình trên sân khấu. Nói cách khác, mỗi diễn viên, dù chính, dù phụ, cũng “có đất” cho vai diễn của mình, để khán giả phải nhớ đến họ, nhắc đến họ.

Trương Minh Cường (vai Bình) và Ngọc Lan (Mỹ Hương) trong "Lời Thề Định Mệnh." (Hình: Ngọc Lan)
Trong số những diễn viên đó phải nhắc đến Trang Thanh Lan và Calvin Hiệp. Sự chân chất, mộc mạc, buồn vui thương ghét đều bộc lộ hết ra ngoài theo đúng kiểu người Nam Bộ của nhân vật Xã Tồn và Lẻo do Calvin Hiệp và Trang Thanh Lan vào vai một cách trơn tru, tự nhiên, chừng mực, duyên dáng, không quá lố, làm cho khán giả cười thoải mái.
Đặc biệt, vai người con trai Võ Như Nghiệp do Thanh Tâm, xướng ngôn viên đài Saigon TV, thủ diễn, cũng làm cho người xem bất ngờ. Tuy có vài nét ngượng ngập ở lúc đầu xuất hiện, nhưng cao trào thể hiện tâm trạng của một đứa con cần bộc lộ tình cảm của mình trước hai người đàn ông, một là cha ruột, một là bố nuôi, Thanh Tâm đã chuyển tải một cách xuất sắc. Giọt nước mắt của người diễn viên nhập vai kéo theo được bao nhiêu nước mắt của khán giả trước một nghịch cảnh đau lòng.
Với vai Cang, ca sĩ Bằng Kiều, một lần nữa, khẳng định được một cách dứt khoát tài năng diễn xuất của anh trong lĩnh vực sân khấu kịch nghệ. Vẫn là lối diễn như toát ra từ trong máu, không màu mè, không cường điệu, không “kịch," Bằng Kiều vừa thể hiện được khả năng diễn hài "rất nhuyễn," lại vừa rất chỉnh chu trong tâm tình một người bố nuôi rất mực thương con, không muốn mất con, nhưng cũng không muốn con lỗi đạo làm người.
Nghệ sĩ hài Bảo Quốc, trong vai ông Thanh, người mai mối, dù không xuất hiện xuyên suốt các cảnh, người xem vẫn nhận ra được bóng dáng của người nghệ sĩ lão luyện trong nghề là chỗ dựa để nâng đỡ tinh thần diễn xuất của nhiều diễn viên khác. Nghệ sĩ Túy Hồng trong vai bà Giáo, mẹ của Huyền, cũng là một vai diễn tương tự như vậy.
Ngọc Lan vào vai Mỹ Hương và Trương Minh Cường trong vai Bình đã làm tròn vai của mình trong vở kịch, dù rằng có lúc, người xem vẫn nhận ra ít nhiều sự lúng túng của “ông vua quảng cáo” Trương Minh Cường trong một vài màn diễn. Nhưng điều đó vẫn không làm giảm đi lòng thương mến mà khán giả dành cho họ.
Nổi bật nhất trong vở kịch có lẽ là diễn viên Vân Trang. Nhìn Vân Trang vào vai Huyền, người vợ bị phụ bạc, người xem cứ ngỡ như mình đang thật sự đối diện với chân dung một phụ nữ hiền lành, chân chất, tôn thờ chồng, nhưng đồng thời cũng quyết liệt, dứt khoát khi đối diện với kẻ phụ tình, và biết phải biết trái trong sự cảm thông với kẻ “lấy chồng mình” khi biết rằng “lỗi ấy không phải ở cô.” Sự nhập vai của Vân Trang đã khiến không ít khán giả dường như cũng sống cùng nhân vật của cô, họ bày tỏ sự hả hê lúc chứng kiến Huyền tát tai người chồng “tham phú phụ bần,” họ vừa vỗ tay vừa la to, “Uýnh nữa, uýnh nó nữa! Đồ đáng đời!”
Tâm tình người nặng lòng cùng sân khấu kịch nghệ tại hải ngoại
Kết thúc vai diễn bà Giáo ở cảnh 2, xuất 2, cũng là lúc kịch sĩ Túy Hồng lui vào hậu trường và cảm thấy “đuối sức.”
“Đuối sức” bởi lẽ “từ lúc chuẩn bị cho vở kịch, đến khi tập dợt, và trình diễn mất gần năm tháng, trong đó có hai tháng cuối cùng gần như là hai tháng tập ròng rã khi với diễn viên này, khi với diễn viên kia, để rồi cùng tổng dợt cho 15 vai diễn trong toàn vở kịch.”
Tuy nhiên, sự có mặt đầy ắp của khán giả trong cả hai xuất diễn, những tiếng vỗ tay rộn rã tự bật lên từ bên dưới khán phòng, không cần mời, không cần xin, và những lời khen tặng “Hay quá! Hay quá!” chính là phần thưởng không gì đánh đổi dành cho “bà bầu” của ban kịch Sống Túy Hồng này nói riêng và cho tất cả diễn viên, ca sĩ có mặt trong chương trình, nói chung.
“Tôi nghĩ sự thành công hôm nay, ngoài thành công về tài chánh, điều quan trọng là mình cũng thành công về mặt nghệ thuật luôn, chứ nếu mình thu vô, mà khán giả xem xong ngao ngán hay có một lời chê gì đó thì mình cũng buồn lắm.” Người nghệ sĩ mấy mươi năm gắn bó với sân khấu kịch nói như chắt lòng. “Tôi còn nhiều những ước mơ, những dự tính đầy ắp trong đầu, chỉ mong sao tổ nghiệp thương, cho mình có thêm sức khỏe để có thể tiếp tục thực hiện những vở kịch hay nương theo các tác phẩm của những nhà văn tên tuổi lớn.”
Dù thành công như thế, dù sân khấu không còn một chỗ ngồi như vậy, và dù thời gian bỏ ra ngót nghét nửa năm để làm nên một vở kịch công phu đến chừng ấy, nhưng không ai dám ước ao sẽ có thêm được một xuất diễn nào nữa!
Bởi lẽ, “Hồi trước ở Việt Nam, một vở mình đi diễn cả mấy tháng trời. Còn ở đây, diễn hai buổi, tìm được khán giả như thế này đã mừng lắm rồi, vì mình biết có đủ kinh phí để trang trải. Đôi khi có những vở tuồng dựng xong, chỉ mong vừa đủ huề vốn hay lời chút đỉnh thôi là anh em nghệ sĩ cũng vui cũng mừng lắm rồi.”
Người diễn viên cần sân khấu, cần khán giả làm họ lên tinh thần để phiêu bồng trong thế giới của nghệ thuật. Tuy nhiên, thực tế sân khấu kịch tại hải ngoại, dù đang có những bước đi nhiều hứa hẹn, nhưng việc có thêm nhiều xuất diễn cho một vở kịch hay vẫn còn là một khoảng trống mênh mông.
Ngọc Lan/Người Việt