Lược khảo những chủ thuyết chính trị lưu hành tại Việt Nam trong thế kỷ XX (1) - VietBF
 
 
 

HOME

NEWS 24h

DEM

GOP

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Breaking
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

Go Back   VietBF > Others (Closed Forums) > Archive - Old News 2013 (closed)

 
 
Thread Tools
Old 07-23-2013   #1
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Default Lược khảo những chủ thuyết chính trị lưu hành tại Việt Nam trong thế kỷ XX (1)

Trước nay đă có nhiều công tŕnh nghiên cứu cũng như bài viết đề cập đến những chủ thuyết chính trị nảy sinh trong lịch sử thế giới, tuy nhiên, chưa có ai nhắc đến các chủ thuyết chính trị lưu hành tại Việt Nam, nếu có cũng chỉ mang tính chất đại khái. Đối với đại chúng Việt Nam, chính trị được xem là sự khó hiểu và mức độ quan tâm cũng không nhiều, nhưng gạt yếu tố chính trị bên lề đời sống là một sai lầm, bởi con người là một sinh vật có tính cách chính trị – chính trị là sản phẩm của nền văn minh. Chính trị chi phối hệ thống quản lư xă hội và xương sống của chính trị là các chủ thuyết liên quan. Bài viết này cố gắng liệt kê có sàng lọc những chủ thuyết quan trọng nhất từng được người Việt Nam sử dụng, bên cạnh đó cũng nhắc đến một số hệ quan điểm chính trị.



I. DẪN NHẬP :

1. Dẫn nhập lịch sử :

Từ thế kỷ XIX trở về trước, nước Việt Nam thuộc về không gian Á Đông, nằm ở nơi giao thoa của hai nền văn minh Trung Hoa – Ấn Độ, cho nên nền chính trị cũng như bản sắc văn hóa Việt Nam là sự tổng ḥa của hai yếu tố Trung Hoa – Ấn Độ. Gần đây, khi xu hướng bài Hoa tăng mạnh sau những cuộc lấn áp chính trị – quân sự của chính phủ Trung Quốc, th́ trong dư luận dấy lên ư thức tự chứng minh nguồn gốc khác Hán và đ̣i tẩy chay những thành tố Hán trong bản sắc văn hóa Việt Nam. Đứng về nhận thức khoa học (đặc biệt là chính trị học, văn hóa học, sử học) th́ quan điểm đó hoàn toàn sai lầm, chỉ mang tính đối kháng nhất thời. Trong tiến tŕnh hiện đại hóa toàn diện, người Việt Nam không hề chủ động bắt nhịp với xu thế thời đại mà chỉ thực sự ḥa nhập với nền văn minh hiện đại khi mất chỗ dựa từ hai nền văn minh lớn : Trung Hoa – Ấn Độ. Từ thế kỷ XVIII, sau khi b́nh định xong châu Mỹ và châu Phi, các nước đế quốc thực dân Tây Âu bắt đầu xâm nhập vào thế giới Á Đông, bằng sức mạnh quân sự và khả năng thương mại nhạy bén, họ đă phá vỡ được hàng rào phong kiến Đông phương. Những quốc gia Á Đông “thuần khiết” tự vệ bằng những tập quán đă tồn tại hàng ngàn năm, dần dần bị buộc biến đổi. Nước Ấn Độ trở thành thuộc địa của các nước Tây Âu từ thế kỷ XVIII và nhanh chóng thuộc về quyền cai trị của Đế quốc Anh, nước Trung Hoa từ sau cuộc Chiến tranh Nha phiến (1840 – 1843, 1856 – 1860) th́ hoàn toàn kiệt quệ và bị các đế quốc thực dân Tây Âu xâu xé. Một mặt, tổ chức chính trị – xă hội cổ truyền bị phá vỡ, một mặt, nó tạo tiền đề cho sự hiện đại hóa ở các nước này.

Trong bối cảnh rối ren của thời đại, triều Nguyễn (thành lập từ 1802) tự giam ḿnh trong ư thức hệ Nho giáo, bất chấp sự xuống cấp của hệ thống giáo dục khoa cử cũng như tệ nhũng lạm trong giới quan lại. Mâu thuẫn giữa sĩ phu và thể chế, giữa dân chúng và nhà cầm quyền đă đẩy đất nước vào cảnh xung đột. Trong suốt từ 1802 đến 1858 (thời điểm người Pháp nổ súng tấn công Việt Nam), từ Bắc – Trung – Nam nổ ra hàng trăm cuộc nổi dậy lớn nhỏ, thu hút mọi thành phần xă hội tham gia, thậm chí cả giặc cướp từ Trung Hoa lũ lượt tràn sang ; cả xă hội dựa vào sức sản xuất nông nghiệp cũng bại hoại v́ mất mùa triền miên. Triều đ́nh không thể đương đầu nổi ! T́nh thế hỗn loạn đă trói buộc nhu cầu cải cách toàn diện của triều Nguyễn, cho nên nước Việt Nam đă hoàn toàn bị động và tự nguyện buông vũ khí khi Đế quốc thực dân Pháp xâm nhập, mặc dù đội quân của họ là không đáng kể so với lực lượng quân sự Việt Nam. Cho nên, cuộc xâm nhập của người Pháp không những làm bộc lộ cái hiện trạng thối nát của xă hội phong kiến đă lỗi thời – Việt Nam, mà có ư nghĩa như sau :

- Thứ nhất, làm chấm dứt từ dần dần đến toàn bộ những mâu thuẫn quyền lực trong nội bộ chính trị Việt Nam
- Thứ hai, trực tiếp cắt đứt mối bang giao kiểu thiên triều – chư hầu, đồng thời cản trở việc tái sáp nhập Việt Nam vào Trung Hoa
- Thứ ba, mở lối cho sự xích lại gần nền văn minh đương đại của nền chính trị – xă hội Việt Nam
- Thứ tư, đem vào Việt Nam những tư tưởng Khai sáng châu Âu, giải thoát người Việt Nam khỏi những hủ tục dă man
- Thứ năm, tái thiết toàn diện nước Việt Nam vốn bị điêu tàn bởi nội chiến kéo dài

Cũng phải lưu ư rằng, không chỉ có Việt Nam, mà các nước Đông Nam Á đương thời cũng chung số phận, nhưng trong thực trạng bảo thủ, tŕ trệ của xă hội th́ phải gây thức tỉnh bằng sự thúc bức.

Những căn cơ dẫn đến nhu cầu cải cách chính trị – xă hội Việt Nam và diễn biến cuộc xâm nhập của Đế quốc thực dân Pháp đă được học giả Tsuboi Yoshiharu tường thuật rất rơ trong cuốn sách Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa. Cần phải nhận định rằng, nhu cầu đó, cuộc xâm nhập đó là tất yếu và nên diễn ra, là hệ quả của một tiến tŕnh tự khai phóng của nhiều thế hệ nhân sĩ – trí thức Việt Nam !

Lịch sử Việt Nam hiện đại bắt đầu từ năm 1900, khi đó Việt Nam bị chia thành ba tiểu vùng với quy chế chính trị khác nhau : Bắc Kỳ (xứ bảo hộ, đứng đầu là Thống sứ Pháp), Trung Kỳ (xứ bảo hộ, c̣n được gọi là Đại Nam Đế quốc, vẫn do triều Nguyễn quản lư, nhưng có sự giám sát của Khâm sứ Pháp), Nam Kỳ (xứ thuộc địa, đứng đầu là Thống đốc Pháp). Cả ba Kỳ cùng với hai nước Lào, Cao Miên và xứ Quảng Châu Loan nằm trong khối Liên bang Đông Dương (Union Indochinoise) trực thuộc Đế quốc thực dân Pháp (Empire Colonial Français).

Liên bang Đông Dương được duy tŕ từ 1887 đến 1953, đến năm 1945 trở đi th́ chịu sự tác động của t́nh h́nh chính trị thế giới nên ít nhiều bị xáo trộn. Trong năm 1945, được sự yểm trợ của Đế quốc Nhật Bản, ngày 17 tháng 4 cùng năm, chính thể Việt Nam Đế quốc ra đời, nhưng sau biến cố 19 tháng 8 th́ được thay thế bởi chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (quốc khánh là ngày 2 tháng 9). Do những mâu thuẫn giữa chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (một thành viên của Liên bang Đông Dương) và chính quốc Pháp, chính phủ Pháp đă đơn phương thành lập chính thể Cộng ḥa tự trị Nam Kỳ, nhằm tách xứ Nam Kỳ khỏi nước Việt Nam thống nhất và đối kháng với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, tuy nhiên, do không tạo ra được sự đồng thuận giữa các chính trị gia Việt Nam và Pháp, giữa dân chúng Nam Kỳ và chính phủ Pháp nên chính thể này chỉ tồn tại đến ngày 2 tháng 6 năm 1948. Ngày 14 tháng 6 năm 1949, chính thể Quốc gia Việt Nam do Pháp hậu thuẫn được thành lập tại Sài G̣n, gồm thâu cả ba Kỳ dưới một thể chế duy nhất. Trước đó, ngày 19 tháng 12 năm 1946, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tuyên bố t́nh trạng chiến tranh với chính phủ Cộng ḥa Pháp, sau hơn hai tháng giằng co tại Hà Nội, đến tháng 3 năm 1947 th́ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa giải tán, toàn thể ban lănh đạo Mặt trận Việt Minh (tổ chức chính trị chi phối chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa) rút lên chiến khu Việt Bắc. Cho nên từ tháng 3 năm 1947, chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thực tế không tồn tại.

Từ 14 tháng 6 năm 1949 đến 21 tháng 7 năm 1954 (thời điểm Hiệp định Genève được kư kết), Quốc gia Việt Nam là chính thể duy nhất, có tính cách hợp pháp đại diện cho toàn thể quốc dân Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Sau khi chiến trận Điện Biên Phủ kết thúc với phần thắng thuộc về Mặt trận Việt Minh (7 tháng 5 năm 1954), Hiệp định Genève là dấu mốc cho sự phân chia lănh thổ Việt Nam. Trưởng đoàn đại diện Quốc gia Việt Nam là ông Trần Văn Đỗ đă kịch liệt phản đối việc phân chia này, không đặt bút kư và cả đoàn rời bỏ Hội nghị, v́ thế chính thể Quốc gia Việt Nam không phải căn nguyên dẫn tới hệ lụy chia cắt đất nước. Vị trí giao thoa giữa hai phe chính trị Xô-Mỹ đă buộc người Việt Nam phải lựa chọn theo bên này bỏ bên kia, sự chia rẽ trong nội bộ Việt Nam rơ ràng thể hiện sự thiếu đồng thuận v́ một lư tưởng chung, cả đất nước phải chấp nhận làm quân tốt thí trên bàn cờ chính trị quốc tế.

Hiệp định Genève quy định sông Bến Hải là ranh giới tạm thời và dự định đến năm 1956 sẽ tiến hành Tổng tuyển cử thống nhất hai miền Việt Nam. Ở phía Bắc, chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa được khôi phục vào ngày 10 tháng 10 năm 1954, đặt thủ phủ tại Hà Nội ; ở phía Nam, chính thể Quốc gia Việt Nam vẫn tồn tại. Nhưng sau cuộc trưng cầu dân ư năm 1955, chính thể Quốc gia Việt Nam giải tán (26 tháng 10 cùng năm), được thay thế bởi chính thể Việt Nam Cộng ḥa. Quốc gia Việt Nam vốn là thể chế Đại nghị, Việt Nam Cộng ḥa là thể chế Cộng ḥa Tổng thống. Việt Nam Cộng ḥa tồn tại từ 1955 đến 30 tháng 4 năm 1975 th́ giải thể, do các biến cố chính trị – quân sự mà chia thành hai thời kỳ : Đệ nhất Cộng ḥa (1955 – 1963), Đệ nhị Cộng ḥa (1967 – 1975). Ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập tại chiến khu Tây Ninh, đây vốn là phân bộ phía Nam của Đảng Lao động Việt Nam, có lập trường phản đối sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam và phủ nhận chính thể Việt Nam Cộng ḥa, đặt mục tiêu sáp nhập với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa bằng việc đánh đổ chính thể Việt Nam Cộng ḥa.

Về mặt thể chế, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là chính thể độc đảng (Đảng Lao động Việt Nam) – phương châm tiến lên xă hội xă hội chủ nghĩa bằng học thuyết Marx-Lenin, Việt Nam Cộng ḥa là chính thể dân chủ đa nguyên. Sau Sự kiện Vịnh Bắc Bộ (khoảng đầu tháng 8 năm 1964), Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đặt trong t́nh trạng chiến tranh với Việt Nam Cộng ḥa và Hoa Kỳ ; Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tuyên bố “giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”, Việt Nam Cộng ḥa kêu gọi “bảo vệ miền Nam thân yêu khỏi sự xâm lăng của Cộng sản”. Từ sau trận Tết Mậu Thân (1968), t́nh thế chiến sự trở nên khốc liệt buộc các giải pháp chính trị – quân sự phải đảm bảo tính chính danh hơn. Ngày 8 tháng 6 năm 1969, chính phủ lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam được thành lập tại chiến khu Tây Ninh, đây thực tế là giải pháp chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Ḥa b́nh Việt Nam nhằm thu hút sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Chính thể này tiếp quản miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 – thời điểm chính thể Việt Nam Cộng ḥa giải tán. Ngày 25 tháng 4 năm 1976, cuộc tổng tuyển cử tái thống nhất được tổ chức trên quy mô cả nước. Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp phiên đầu tiên đă công bố quốc hiệu Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam, thủ đô được đặt tại Hà Nội. Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam là chính thể độc đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam), tiếp tục duy tŕ đường lối chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.

Thập niên 1980, do t́nh h́nh chính trị thế giới có nhiều biến động, khối Xă hội chủ nghĩa Đông Âu – đồng minh chính của Việt Nam – lâm vào khủng hoảng rồi sụp đổ khiến nền kinh tế Việt Nam không tránh khỏi khó khăn, chưa kể là cơ chế bao cấp và hệ học thuyết chính trị trở nên giáo điều, cứng nhắc đă tạo ra một xă hội khan hiếm vật chất, t́nh trạng thiếu đói có nguy cơ bùng nổ. Để giải tỏa sự bế tắc này, năm 1986, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI họp đă thông qua chính sách Đổi Mới, thiết lập mô h́nh kinh tế thị trường định hướng Xă hội chủ nghĩa, tức chuyển hướng từ kinh tế bao cấp, tự túc sang thị trường tự do. Thực chất, việc làm này đă trực tiếp đánh dấu chấm hết cho hệ tư tưởng Marx-Lenin đă trở nên giáo điều, thoái hóa trong xu thế thời đại. Từ đó đến nay, chủ nghĩa Marx-Lenin chỉ được nhắc đến với tư cách hệ thống quan điểm kinh tế – chính trị có tính chất tham khảo, chứ không c̣n được áp dụng đại trà như trước. Từ 1990 đến 2007, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng, các chính sách quản trị xă hội cũng theo đà phát triển của kinh tế để trở nên cởi mở hơn, bớt đi những thành kiến cố hữu. Xă hội Việt Nam không c̣n rơi vào t́nh trạng khan hiếm nhu yếu phẩm nữa, tính chất “quân sự” trong thiết chế cũng bị thế chỗ bởi các giá trị tự do – dân chủ, phần nào bắt kịp xu thế toàn cầu. Tuy nhiên, bên cạnh sự tiến triển của nền kinh tế, những cạm bẫy đến từ nhu cầu chính trị hóa kinh tế đă tạo ra một thiết chế xă hội dung dưỡng tham nhũng, mọi giá trị văn hóa – xă hội bị chi phối bởi đồng tiền, chưa kể sự mâu thuẫn gay gắt giữa hệ thống giáo dục khuôn thước với nhu cầu tự do hóa của con người.
Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 2007 đă giáng mạnh vào thiết chế xă hội mong manh ở Việt Nam. Những ung nhọt của một quốc gia bị thoái hóa bởi chính trị đă bung vỡ, lạm phát tăng cao và t́nh trạng tham nhũng lạm quyền có cơ hội xổ lồng. Mâu thuẫn giữa nhân phẩm và giá trị vật chất, giữa nhà cầm quyền độc đoán và công dân chịu sự độc đoán, giữa giá trị nhân văn truyền thống và làn sóng xâm lăng văn hóa, bên cạnh đó là sự gia tăng sức ép của Trung Quốc đối với vấn đề biển đảo đă đặt nước Việt Nam, toàn dân Việt Nam vào thế bị động đối phó. Những hiểm họa từ nền kinh tế bong bóng và sự mất nhân cách trong một xă hội tha hóa, sự chia rẽ dân chúng với nhà cầm quyền, thế đối lập của niềm tin chính trị với thực tế chính trị – những nguy cơ này trực tiếp là căn nguyên đẩy nước Việt Nam tới vực thẳm nội chiến, chia cắt, lệ thuộc trong tương lai gần. Lúc này, vấn đề đặt ra là phải t́m thấy một chủ thuyết chính trị – xă hội đủ sức gạt bỏ mọi mâu thuẫn lỗi thời và mở lối cho sự hồi sinh của đất nước – con người Việt Nam, thay v́ giam hăm trong những thành kiến cố hữu hay thói quen tŕ trệ – như thế là tự kết liễu. Hăy chung tay hành động ngay !

2. Dẫn nhập quan điểm :

Quốc gia nào, thời đại nào cũng cần một hoặc nhiều tư tưởng để phát triển bền vững ; việc thiếu vắng một tư tưởng có tính chất thúc đẩy toàn diện đă khiến nước Việt Nam ch́m đắm trong những mâu thuẫn cố hữu, con người Việt Nam hoàn toàn “chết ngộp” trong những toan tính vật chất và phải tự vệ bằng sự dối trá. Việt Nam vốn dĩ nằm trên tuyến đường luân chuyển dân cư – thương mại sôi động bậc nhất thế giới, con người Việt Nam luôn ở vị thế hội tụ các trào lưu chính trị – văn hóa ; là một quốc gia luôn dồi dào về nhân lực cũng như quan trọng về địa thế chiến lược, không lư do ǵ chúng ta cứ phải lẽo đẽo sau lưng những quốc gia vốn kém lợi thế hơn, như suốt mấy thập niên qua. Chiến tranh và hận thù ư thức hệ đă đưa Việt Nam quay về vạch xuất phát, từ một cường quốc kinh tế – quân sự lớn ở Đông Nam Á, đến nay tụt hậu trên mọi lĩnh vực, hai yếu tố trọng yếu của một nền văn minh bền vững là văn hóa và giáo dục th́ bị chính trị làm cho nô dịch hóa. Tất cả công dân Việt Nam cũng như bất cứ ai tự coi ḿnh là người Việt Nam phải nhăn trán t́m ra lối thoát cho Tổ quốc vươn lên, con người được phát triển hết tiềm năng.

Mục đích của bài viết là thống kê và đánh giá một cách khái quát những trào lưu chính trị lưu hành tại Việt Nam trong thế kỷ XX, bên cạnh đó, cố gắng lư giải sự thắng thế của chủ thuyết cộng sản trong cuộc tương tranh với các chủ thuyết khác. Những quan điểm mang tính phản biện, xin comment lịch thiệp ở bên dưới. Chân thành cảm ơn các bạn !

II. LƯỢC KHẢO :

Cuộc xâm nhập và hai lần tiến hành khai thác thuộc địa của Đế quốc thực dân Pháp ít nhiều gây biến đổi cấu trúc xă hội cổ truyền Việt Nam, đồng thời cải tạo nghiêm khắc hệ thống chính trị bản xứ đă trở nên giáo điều, lạc hậu. Những tư tưởng chính trị Tây Âu tràn vào Việt Nam, nhanh chóng đụng đầu hệ tư tưởng cố hữu, gây ra những đụng độ ư thức hệ gay gắt. Sự đổi thay và chấn hưng thần kỳ của thiết chế chính trị – xă hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, nhờ phần lớn ở sức ảnh hưởng của trào lưu Khai sáng (Siècle des Lumières), tiếc rằng sau này, nó đă không được hậu thế hiểu đúng.

1. Nho giáo :

Sau khi triều Nam Minh sụp đổ (1661), một bộ phận dân Trung Hoa luân chuyển xuống khu vực Đông Nam Á, nhưng chủ yếu địa điểm dừng chân là Việt Nam – bởi sự gần gũi về thiết chế chính trị – văn hóa. Trong ḍng chảy di dân đó có không ít các học giả, Nho sĩ, họ được giới quư tộc Việt Nam đón tiếp trọng thị và tiến cử lên các vua chúa. Kể từ giai đoạn đó, các triều đại Việt Nam (đặc biệt là triều Nguyễn) tự xưng ḿnh là kẻ kế thừa chính thống của hệ phái Minh Nho, tỏ rơ sự khác biệt với triều Thanh – kẻ kế tục cai trị đất Trung Hoa nhưng xuất thân là bộ lạc nguyên thủy ở phía Bắc Sơn Hải Quan. Các Hoàng đế triều Nguyễn đặc biệt tôn sùng Nho giáo – điển h́nh là Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức – ra sức củng cố địa vị cai trị bằng học thuyết không có ǵ mới mẻ này. Nhưng trong bối cảnh xă hội Việt Nam chịu tác động sâu sắc của những biến loạn ở phía Nam Trung Hoa, cùng với sự lung lay dữ dội của hệ thống quân chủ chuyên chế Á Đông trước làn sóng thực dân, Nho giáo đă không tỏ ra là chính thuyết hữu dụng, thế vào đó là những quan điểm cứng nhắc, lạc hậu và chính sách cai trị hà khắc một cách không cần thiết. Thế kỷ XIX chứng kiến sự vỡ nát của nền chính trị – xă hội Việt Nam cổ truyền, ngay trong tầng lớp sĩ phu cũng phân chia thành nhiều hệ phái, bên cạnh Minh Nho c̣n có Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho.

Hệ tư tưởng Nho giáo (c̣n gọi là Khổng giáo) chia xă hội thành ba hạng : thánh nhân (hoặc đại nhân), quân tử, tiểu nhân. Trong quan niệm của Khổng Tử, “thánh nhân” là những bậc hiền giả, người thể hiện và chuyển giao minh triết – tóm lại là có học vấn và viễn kiến ; “quân tử” là người cao nhă, kẻ phấn đấu để làm điều chân chính – tóm lại là có địa vị xă hội, “tiểu nhân” là kẻ “hèn mọn”, hành động không màng tới đạo đức – cho nên có thể hiểu “tiểu nhân” là tầng lớp dân thường. Cũng theo Khổng Tử, người quân tử phải biết “tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ“, kẻ tiểu nhân phải biết tuân phục người chăn dắt ; ngũ luân (năm mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) luôn xoay quanh con người (nhân). Ngoài ra Khổng Tử cũng đề ra thuyết Chính danh.

Nho giáo là học thuyết triết học – chính trị chủ yếu khai triển từ thế giới quan của Khổng Phu Tử, được các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp nhận từ Trung Hoa, nhưng không có nhiều biến đổi cho phù hợp thực trạng bản địa. Bắt đầu từ triều Lê sơ (thành lập năm 1428), Nho giáo được suy tôn là học thuyết quản trị xă hội tiên quyết, được hỗ trợ bởi hệ thống pháp lư và khoa cử tương đối chặt chẽ. Nhưng có mấy đặc điểm sau :

- Ưu điểm : Trải qua quá tŕnh bồi đắp rất dài (khoảng hai ngàn năm), học thuyết Nho giáo là hệ thống lư luận triết học – chính trị có chiều sâu tư tưởng và cũng có độ bền về thời gian, tính chất đó ít nhiều tạo ra một thiết chế chính trị – xă hội có trật tự, định vị được mọi mối quan hệ xă hội, đặc biệt tránh cho cộng đồng áp dụng nó khỏi sự tan vỡ bởi mối nguy bên ngoài.

- Nhược điểm : Nho giáo là một trong những học thuyết triết học – chính trị tồn tại rất lâu đời trên thế giới, nhưng do không biến đổi ǵ nhiều và những trật tự đầy nghiêm khắc, nó tạo ra tính chất khép kín và làm chững lại nền văn minh Á Đông. Cho nên, khi làn sóng xâm nhập đến từ cộng đồng có nền văn minh và ư thức triết học – chính trị cao hơn, thiết chế chính trị – xă hội Á Đông cổ truyền nhanh chóng tan ră. Luận thuyết này phân chia xă hội theo địa vị và của cải, cho nên trực tiếp tạo ra sự mất cân bằng quyền lợi giữa người với người, giữa quốc gia này với quốc gia khác ; bên cạnh đó, nó cũng phủ nhận tuyệt đối vai tṛ chính trị của người phụ nữ. Sâu xa hơn, chính v́ sự thiếu công bằng đó mà trong suốt thời gian ngự trị của Nho giáo, xă hội Á Đông luôn nảy sinh những cuộc thoán đoạt quyền lực đẫm máu, chủ yếu là tranh chấp hoàng tộc và nông dân khởi nghĩa. Đó cũng là biểu hiện của những căng thẳng xă hội cần được giải tỏa.
TTXVA

Last edited by Hanna; 07-23-2013 at 21:10.
Hanna_is_offline  
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	103_buc-anh-hai-nguoi-linh.jpg
Views:	28
Size:	49.7 KB
ID:	495953
 
User Tag List


Phim Bộ Videos PC4

 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

DEM

GOP

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 22:48.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.06765 seconds with 12 queries