Đọc một số bài báo, thấy nói Hàn Quốc là “thiên đường cho giải phẫu thẩm mỹ”, là quốc gia đứng đầu thế giới về tỷ lệ giải phẫu thẩm mỹ tính trên đầu người.
Trên CNN Travel ngày 9 tháng Tám, 2012 từng giới thiệu về phong trào giải phẫu thẩm mỹ ở Hàn Quốc trong bài “Welcome to the plastic surgery capital of the world” (“Chào mừng đến với thủ đô giải phẫu thẩm mỹ của thế giới”). Trong bài “A cut above” đăng trên The Economist ngày 23 tháng Tư, 2012 có đoạn:
In 2010 over 3.3m procedures were done in America, more than anywhere else, according to a report from the International Society of Aesthetic Plastic Surgery… But when population is accounted for, South Korea tops the list. A 2009 survey by Trend Monitor, a market-research firm, suggested that one in five women in Seoul had gone under the knife.
(Trong năm 2010, trên 3.3 triệu cuộc (giải phẫu thẩm mỹ) đă được tiến hành ở Mỹ, nhiều hơn bất cứ nơi nào khác, theo một báo cáo của Hiệp hội quốc tế về phẫu thuật thẩm mỹ…Nhưng khi tính trên dân số, th́ Nam Hàn đứng đầu danh sách. Một cuộc khảo sát của Trend Monitor, một công ty nghiên cứu thị trường vào năm 2009, cho thấy rằng cứ năm phụ nữ ở Seoul th́ có một người từng trải qua dao kéo.)
Chuyện giải phẫu thẩm mỹ đă trở nên quá quen thuộc đối với người dân của xứ này. Không chỉ các cô gái c̣n rất trẻ cho tới phụ nữ lớn tuổi, mà cả nam giới nhiều người cũng muốn viện đến giải phẫu thẩm mỹ để giúp cho vẻ ngoài của họ trông dễ nh́n hơn. Mà quả thật, công nghệ giải phẫu thẩm mỹ ở quốc gia này thật tuyệt, có thể khắc phục mọi sai lầm của tạo hóa, biến một con vịt “què” thành một con thiên nga lộng lẫy.
Hiện tượng say mê làm đẹp của người Hàn Quốc có nhiều lư do, nhưng chắc chắn là có ảnh hưởng từ công nghệ phim ảnh, ca nhạc luôn luôn trưng ra những diễn viên, ca sĩ, người mẫu với vẻ đẹp hoàn hảo, sáng rỡ, phần khác từ quan niệm của dân Á đông cho rằng việc sửa tướng, sửa những khiếm khuyết trên khuôn mặt, h́nh thể có thể giúp người ta may mắn hơn, và cuối cùng là v́ cơ hội lớn hơn để kiếm một tấm chồng, t́m một công việc hay sự thăng tiến trong nghề nghiệp…
Tuy nhiên, lắm lúc nh́n các ca sĩ, diễn viên, người mẫu cho tới người thường ở Hàn Quốc cứ có một vẻ đẹp hoàn hảo (nhưng hơi thiếu sinh động) và giống nhau như những con búp bê bằng sứ. Trong cuộc thi Hoa hậu Hàn Quốc năm 2013 vừa rồi, nhiều người đă hết sức ngạc nhiên trước sự giống nhau của các ứng viên do giải phẫu, do cách trang điểm. (“Buồn cười thí sinh Hoa hậu Hàn Quốc giống nhau như đúc”, VietnamNet, “Ám ảnh phẫu thuật thẩm mỹ, hàng ngh́n phụ nữ giống nhau đến kỳ lạ”, Lao động).
Cứ nghĩ nếu phải sống trong một xă hội mà người ta quá chú trọng đến nhan sắc th́ kể cũng khổ cho những ai không đẹp nhưng lại không có điều kiện để đi giải phẫu thẩm mỹ chẳng hạn.
Nếu một trong những nỗi khổ hay nỗi ám ảnh của đa số dân Hàn quốc là sắc đẹp th́ với đa số dân Mỹ, chắc là job, là time? Có việc là có tất cả-nhà cửa, bảo hiểm, lương hưu, hạnh phúc gia đ́nh…, mất việc là mất tất cả. Và thời gian. Dân Mỹ lúc nào cũng có vẻ tất bật như không có đủ thời gian để làm tất cả mọi thứ. Dân Nhật cũng vậy. Vội vàng, hối hả, tranh thủ ngủ ở bất cứ đâu có thể-trên xe bus, métro, trong quán café… Là những quốc gia giàu có, văn minh, tự do dân chủ, đời sống cao, nhưng có vẻ như người Mỹ hay người Nhật nói chung vẫn chưa phải là sướng, v́ cứ phải thường xuyên đối mặt với hai nỗi ám ảnh này.
Sống ở Na Uy một thời gian, tôi có thể hiểu v́ sao người dân ở xứ này thường cảm thấy hài ḷng, hạnh phúc. Không chỉ v́ Na Uy cũng là một quốc gia tự do dân chủ, có đời sống kinh tế cao và ổn định, có chế độ an sinh xă hội rất tốt, một đất nước b́nh yên với tỷ lệ tội phạm rất thấp…mà c̣n v́ những lư do khác.
Thứ nhất, nhịp sống ở xứ này không nhanh, không quá căng thẳng như ở Mỹ hay Nhật. Thậm chí có thể nói là chậm. Người Na Uy làm việc vừa phải, số giờ làm việc mỗi ngày của công chức, người lao động là 7 giờ 30 phút. Thứ bảy, CN nghỉ. Đa số cửa hàng, quán xá, siêu thị…cũng nghỉ ngày CN. Thường chỉ có dân nhập cư, trong đó có dân Việt ḿnh, là vẫn mở cửa siêu thị, quán xá vào ngày CN để kiếm thêm thu nhập. Một năm có khá nhiều ngày lễ, ngày nghỉ. Rất ít người, cũng lại trừ dân nhập cư, là tranh thủ đi làm cùng lúc 2,3 job.
Đó là nói về nhịp sống. Thứ hai, người Na Uy sướng v́ ít phải lo nghĩ, nói đúng như ngôn ngữ của người Việt “cái ǵ cũng có nhà nước lo”, nhưng ở đây là nhà nước lo thật sự. Con cái sinh ra có nhà nước phụ nuôi đến năm 18 tuổi, đi học tiểu học, trung học miễn phí, lớn lên học đại học bất kể cha mẹ giàu nghèo, kinh tế như thế nào đều có thể mượn nợ ngân hàng, sau ra đi làm trả. Một khi đă có việc làm th́ trong suốt cuộc đời bất cứ việc ǵ cần như lập gia đ́nh, mua nhà, sắm xe…đều có thể vay ngân hàng trả dần vào lương. Thất nghiệp có nhà nước nuôi một thời gian. Đau ốm vào bệnh viện miễn phí. Già cả có lương hưu, có tiền già đủ sống thong thả không phiền đến con cái. C̣n nếu chẳng may mới sinh ra đă tàn tật th́ nhà nước sẽ nuôi cả đời v.v…
Nhưng tất cả những điểu này th́ không riêng ǵ Na Uy mà ở rất nhiều quốc gia có chế độ an sinh xă hội tốt, người dân cũng đều được hưởng như nhau. Điều quan trọng nhất, khiến cho người ngoài nh́n vào cũng cảm nhận được người Na Uy sướng, có lẽ là v́ họ ít bị sức ép bởi những khuôn mẫu, giá trị nào đó trong xă hội.
Không bị ám ảnh bởi thời gian, người Na Uy cũng không bị ám ảnh bởi việc phải kiếm thật nhiều tiền, phải có bằng cấp, địa vị. Bởi trong một xă hội mà khoảng cách giàu nghèo không quá chênh lệch, cũng không quá coi trọng địa vị th́ một bác sĩ, luật sư hay một người công nhân làm đường, tài xế xe bus, phục vụ nhà hàng đều cảm thấy bằng ḷng.
Người Na Uy cũng không bị ám ảnh bởi h́nh thức bên ngoài. Dù xấu, đẹp, mập, ốm ǵ cũng chẳng phải tự ti. Người khuyết tật, chậm phát triển vẫn sống b́nh thường giữa ḷng xă hội, không hề bị bất cứ sự kỳ thị, phân biệt đối xử nào.
Chỉ riêng chuyện ăn mặc cũng vậy, người Na Uy ít chạy theo thời trang, ít bị ám ảnh bởi thương hiệu. Trong cái nh́n của cá nhân tôi, dân Na Uy nói chung ăn mặc…không đẹp. Chỉ cần so sánh với dân Pháp hay dân Ư thôi, cụ thể là so sánh dân Oslo với dân Paris hay Roma, rơ ràng là ở hai thành phố sau, số đông có goût ăn mặc đẹp, thanh lịch, sang trọng hơn nhiều.
C̣n ngay ở Oslo, nếu bạn đứng giữa khu trung tâm thành phố suốt cả một ngày trời, cũng không có nhiều người biết cách ăn mặc phù hợp với vóc dáng, biết cách phối màu, phối đồ hài ḥa với nhau. Nhưng sống lâu rồi th́ thấy như vậy lại tiện, ḿnh có ăn mặc không đẹp, không thời trang lắm cũng chả sao.
Nh́n sang VN, chuyện dân ḿnh c̣n khổ so với dân nhiều nước khác là chuyện “biết rồi nói măi”. Không chỉ v́ nước VN vẫn thuộc loại nghèo, lạc hậu, chưa phát triển, không chỉ v́ cái mô h́nh thể chế chính trị độc tài bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, nhân quyền bị chà đạp, nhà nước th́ không v́ dân, không lo cho dân mà chỉ nhăm nhăm bóp hầu bóp cổ dân bằng đủ mọi loại thuế má trên đời, khiến cho người dân suốt cuộc đời luôn phải lo lắng, sợ hăi đủ thứ.
Lúc nhỏ th́ lo học để thi đậu, tốt nghiệp, học xong rồi lo chạy việc, bởi kiến thức, năng lực đâu đă đủ để t́m được một việc làm nếu không có thân thế, quen biết, có tiền đút lót…Mọi việc lớn nhỏ trong đời đều phải tự “cày” ra tiền để giải quyết chứ không trông chờ ǵ được vào nhà nước, từ học hành, giáo dục, y tế, lúc ốm đau, thất nghiệp, tai nạn, tàn tật…Xă hội th́ ngoại trừ sự ổn định bề mặt về chính trị do được cai trị bởi “bàn tay sắt”, ngày càng trở nên bất ổn, bất an. Tai họa có thể đến bất cứ lúc nào, một cách hết sức trời ơi đất hỡi, chủ yếu do sự vô lương tâm, thiếu trách nhiệm của con người, cộng với luật pháp như luật rừng.
Thêm vào đó, người Việt c̣n khổ v́ chịu quá nhiều sức ép bởi những giá trị khác nhau trong xă hội, mà phần lớn là những giá trị không thực chất. Lúc c̣n ở tuổi đi học, từ học sinh cho đến phụ huynh, giáo viên, nhà trường đều bị sức ép về điểm số, thành tích. Với một xă hội c̣n quá chú trọng bằng cấp, người nào cũng phải cố học, cố chạy cho có vài tấm bằng. Nhà nào dù nghèo đến đâu cũng ráng đi làm thuê làm mướn, tích cóp từng đồng để nuôi con ăn học, mong cho con đậu đại học. Rớt đại học coi như một trong những bi kịch lớn nhất đời người.
Người Việt khổ v́ bằng cấp, khổ v́ những cái bề ngoài. Từ cái quần cái áo làm sao cho tươm tất với người ta, rồi phải làm sao xây được cái nhà cho đẹp hơn, to hơn, tậu cái xe sang hơn nhà hàng xóm, con cái lấy chồng lấy vợ “ngon lành” hơn người ta, ví dụ như ở một số vùng thôn quê bây giờ th́ lấy được chồng Đài, chồng Hàn là mơ ước của nhiều thôn nữ (!)
Khổ v́ chưa có thói quen dân chủ, để chấp nhận mọi sự khác biệt, từ khác biệt trong lối sống, tư duy sáng tác, goût thưởng thức văn hóa… cho đến quan điểm chính trị. Suy nghĩ khác, sống khác, là dễ ăn đ̣n. Chính v́ vậy mà người Việt ít dám nghĩ khác, sống khác. Học sinh thường chẳng dám phát biểu khác với ư thầy cô hay sách giáo khoa. Nhân viên không dám nói khác ư sếp, khác ư đám đông.
Trong môi trường sinh hoạt văn hóa văn nghệ cũng vậy. Mấy ai kể cả các nhà báo, dám dũng cảm nói ngược ư kiến của đám đông về một ca sĩ, một ḍng nhạc, một bộ phim hay một tiểu thuyết nào đó?
Người Việt vốn chưa có thói quen dân chủ, không những ít khi chấp nhận ư kiến trái chiều mà c̣n sẵn sàng ném đá những ai không giống ḿnh và không giống với đa số. Từ những cuộc tranh căi về goût thưởng thức văn nghệ của đám trẻ cho tới những cuộc tranh luận chính trị ở những người lớn hơn cũng không khác.
Nhưng suy cho cùng th́ những nỗi khổ đó cũng từ cái môi trường xă hội, giáo dục, văn hóa không có tự do dân chủ, công bằng, không tôn trọng con người mà ra.
Một ngày nào đó khi đất nước thay đổi, việc xây dựng lại một mô h́nh thể chế chính trị hay vực dậy một nền kinh tế sẽ nhanh hơn là xây dựng lại thói quen dân chủ trong tư duy, xây dựng lại những chuẩn mực xă hội đúng đắn (chứ không quá nhiều thứ bị “lệch chuẩn” như bây giờ), để con người có thể sống thật hơn, giản dị hơn, đúng với bản chất của ḿnh, không phải chạy theo quá nhiều những giá trị ảo bên ngoài.
Nguồn: Song Chi/Song Chi's blog