Ngày rời tỉnh Quảng Ngăi bước vào Sài G̣n, bà Phạm Thị Thêm vẫn đinh ninh, chỉ chừng năm năm sẽ trở về, sau khi đứa con trai ăn học thành tài. Nhưng cái hạn năm năm đến nay đă dài gần gấp ba, đứa con trai đă học xong, lấy vợ sinh con, nhưng ngày về quê là bao giờ, bà không biết.
Công đoạn cuối của người mua ve chai là
phân loại thành từng món, đây cũng là lúc
ngơi nghỉ sau bốn - năm tiếng đi bộ, đẩy xe.
Trước mắt người mẹ gần 55 tuổi vẫn là những ngày dài đẩy chiếc xe đi tận cùng hóc hẻm trong phường 12, quận 8 gom ve chai và những đêm thâu một ḿnh trong cái pḥng trọ chưa đầy 8m2, nằm chờ trời sáng.
Bỏ ruộng vào thành
Mười bốn năm trước, khi đứa con trai đầu bước lên cấp 3, cũng là lúc người mẹ bước lên xe đ̣ vào Sài G̣n, bỏ lại người chồng và hai đứa con. Từ khi người cha của bà mất, xă thu lại một sào ruộng, cả gia đ́nh bốn con người bám víu vào ba sào c̣n lại (1.500m2), một năm cấy hai vụ, gạo ăn c̣n chưa đủ. Người chồng nai lưng đập đá thuê, c̣n bà, làm mướn khắp nơi, nhưng vẫn hoàn túng quẫn. Chẳng rơ v́ thấy cảnh chạy ăn từng bữa của cha mẹ nó, nên thằng con đầu chịu học, thầy cô thường khen ngợi. Điều này làm bà mát ḷng và thêm cứng bước chân nhiều năm sau này khi rong ruổi mưu sinh nơi đô thị.
Vóc người gầy g̣, nhỏ nhắn, chiếc nón lá rách che hết khuôn mặt có ít nhiều nét thanh tú thời con gái, cái xe đẩy phía trước, bà Thêm cứ nhẩn nha đi vào từng con hẻm nhỏ nhất. Trên miệng nụ cười tươi lạc quan, nh́n bà giống một người đang đi dạo. Bao năm làm nghề cũng hay, người bán chủ động gọi bà mỗi khi có phế liệu, từ cái chai nhựa đến miếng b́a cáctông. Chẳng thấy người mua kẻ bán trả giá, nắm tiền lẻ vơi dần, thùng xe đầy lên. Người th́ trách “sao hôm qua không ghé, có mớ giấy lộn”, người lại hẹn “chiều qua nghe, vừa dọn dẹp nhà”. H́nh như với họ, bà đă thành người quen thuộc, với bà, đấy là những niềm vui để lấp đi sự cô độc của kiếp tha phương.
Ngày mới bước chân vào Sài G̣n, bà đến ở trọ cùng những người đồng hương Nghĩa Hành ở phường 14 quận 8, ven một con kênh và kiếm tiền bằng gánh tàu hủ nước đường. Một bên chén bát, một bên ḷ than và nồi tàu hủ đang sôi, cái gánh chừng ấy trên vai người phụ nữ tuổi 40 đă bắt đầu nặng. Nhưng thứ đeo bám dai dẳng và nặng nề nhất là nỗi nhớ chồng con. Những ngày đó, cứ mỗi tối, bà lại giở tiền ra đếm, hôm nay, hôm qua, hôm kia…, không phải v́ niềm vui khi có tiền, mà để tính ngày nào được về thăm nhà. “Chỉ cần kiếm được năm ba trăm ngàn đồng, đủ tiền xe đ̣ và tiền ăn cho con trong tháng là tui về. Ở nhà một hai ngày rồi đón xe vô”, bà Thêm nhớ lại.
Nối gót
Khi người mẹ tạm quen với sự xa cách là lúc đứa con trai đi thi đại học. Không phụ ḷng bà, nó đậu điểm cao một trường đại học “xịn” ở Sài G̣n. Niềm vui không dài, chưa đầy hai tháng sau, chỉ v́ không kiếm đâu ra vài triệu đồng để đóng học phí
,thằng bé quay về quê, học cao đẳng. Là người vừa thuộc hết mặt chữ, nên với bà học ǵ cũng giống nhau, bà chỉ tiếc giá như nó học ở đây, có mẹ có con. Một lần, đứa con gái nghỉ hè vô thăm bà, trở lại quê, nó lặng lẽ bỏ học và quay vào ở với mẹ.
Bao năm cơ cực ở xứ người, bà vẫn phấn chấn khi nghĩ đến chúng, nhưng đêm hôm ấy, nằm ôm con, bà khóc. Khóc v́ sự học dang dở của con gái và khóc cả những điều ước của đời ḿnh đang rụng dần. Mới năm tuổi, bà mất mẹ và ba người anh chị khi máy bay thả đạn trong một trận càn, người anh cả ôm hận thù bước chân đi du kích để rồi mấy năm sau bị bắn chết. Trên đời chỉ c̣n ḿnh bà, đứa con gái năm tuổi, lẽo đẽo theo sau lưng người cha khắp xứ. Nên khi đẻ được hai đứa con, bà vẫn tự hứa không để chúng như đời ḿnh: thất học, túng quẫn. Nhưng dù bà có khóc mấy đi nữa, cô con gái 17 tuổi vẫn nhất mực “không đi học nữa”.
Từ đó, mẹ con đỡ đần. Được ngoài năm, con gái lấy chồng – người cùng quê vô đây làm phụ hồ – và chuyển sang bán vé số. Tuy thuê pḥng ở riêng, nhưng mẹ con ngày ngày vẫn giáp mặt. Bà đă đổi nghề sau một lần đang gánh nồi tàu hủ bị chóng mặt, xây xẩm và té xuống, may mà không trúng ḷ than.
Thấm thoát thời gian trôi qua, đến nay đă tám năm mua ve chai, so với khi bán tàu hủ, tuy kiếm ít tiền hơn, nhưng bà thấy nhàn nhă. Ngày đều đặn, từ sớm đến tối, bà kiếm được từ 100.000 – 150.000 đồng. Mua đầy xe, bà đẩy ra một góc, gần vựa phế liệu và phân loại, con dao tông bên cạnh, cái th́ đập dẹp, cái lại chẻ nhỏ, thứ nào ra thứ nấy. Phân loại kỹ cũng lợi, thỉnh thoảng, bà trúng mánh khi một món phế liệu được người mua đồ cũ định giá một vài trăm ngàn đồng, chẳng hạn, một cái nồi đồng, bộ cà – mèn của lính.
Mỗi ngày bà ăn đủ bữa ngoài quán: sáng 10.000 đồng, trưa 25.000 (cả nước uống), tối 15.000 đồng. Tiền nhà trọ: 600.000 đồng/tháng. Trừ hết, bà vẫn để dành được khoảng 2 triệu đồng mỗi tháng. Sau này, bà chẳng thiết nấu ăn v́ “ăn một ḿnh buồn” và “mất công”. Có lẽ, đây là chút thị thành đă nhiễm vào bà sau gần một phần tư kiếp người lặn ngụp nơi đô hội.
Khắc khoải quê
Nếu dành dụm được như thế, có lẽ con đường về quê của bà đă ngắn lại, nhưng sự đời chẳng dễ dàng. Thằng con trai – niềm tự hào mỗi khi bà nhắc đến – mẹ nuôi học xong, lấy vợ sinh con và sống ở Đà Nẵng, vợ chồng nó chật vật v́ chỉ một người đi làm. Vợ chồng con gái phải gửi hai đứa con về quê cho ông ngoại nuôi, hàng tháng gửi tiền cấp dưỡng. Bà chẳng được ai nuôi ngày nào, c̣n phải cho thêm con dâu khi chúng túng thiếu. Mấy năm trước, người chồng vác đá nặng bị té trật xương sống, năm ngoái, căn nhà bị băo thổi bay phải vay ngân hàng xây lại… trăm thứ lại đổ lên vai bà. Rồi đám xá, giỗ chạp ở quê, tiền nuôi chồng, thuê người làm đám ruộng… tất cả cứ luôn tay ḅn rút nhúm tiền bà cắc củm.
14 năm làm “công dân” Sài G̣n, mỗi năm, bà chỉ cho phép ḿnh về quê vào ngày giỗ tổ phía chồng, ngoại trừ dịp tết. Điều ước được “một lần về làm giỗ mẹ vào tháng 5” với bà sao mà khó! Khoảng cách địa lư không là mấy, nhưng h́nh như dài thăm thẳm khi nghe bà dí dỏm: “Tui ly thân lâu rồi, chắc suốt kiếp này quá!”
Nh́n bà hết mân mê con búp bê đă méo mó trong đống phế liệu, lại ngắm nghía cái đèn bàn đă bể một góc, chập chừng một đỗi mới thảy đi, có lẽ bà đang nhớ tới đám con cháu hay tuổi thơ của ḿnh. Ai biết ngày mai lại có thứ ǵ đó nữa đè thêm xuống đôi vai gầy g̣ kia, nhưng ai cũng thấy, chiếc xe đẩy ve chai ở phía trước bà đang cao dần sau mỗi năm. Chỉ có điều, cái niềm hănh diện “đứa con đă ăn học thành tài” cũng là sự an ủi duy nhất và thiêng liêng của người mẹ cô độc này, h́nh như đă bị ai đó đánh cắp từ lâu. Đến bây giờ, chỉ cầu mong bà đừng phát hiện ra.
Bài và ảnh: Doăn Khởi
sgtt