“Đảng… vĩ đại… tài t́nh… sáng suốt… lănh đạo Nhân dân… giáo dục Nhân dân…”
Nói măi, nghe măi thành quen, nên bao người coi đó là chân lư. Hễ nghe nói khác, lại cho là nghịch nhĩ.
Điệp khúc ngân vang hơn nửa thế kỷ, khiến giới cầm quyền càng thêm tin rằng quyền lănh đạo của họ là một thứ đương nhiên – như thể được Tạo hóa ban cho; là một vị thế độc tôn – có thể thừa kế nội bộ từ thế hệ này sang thế hệ khác, theo kiểu “cha truyền con nối” như thời vua chúa phong kiến. Dưới con mắt cường quyền, Nhân dân hiện ra như bầy cừu chỉ có khả năng biểu cảm bằng tiếng “be be”, suốt đời cần được bề trên “chăn dắt”; hay như đám học tṛ thiểu năng, “giáo dục” suốt mấy chục năm mà vẫn không khá lên được, thành thử măi vẫn chưa đủ tầm dân trí, để xứng đáng hưởng những quyền tự do dân chủ, mà thế giới vẫn coi là quyền tối thiểu…
Điệp khúc ru ngủ đó cũng gia tăng tư duy nô lệ trong Nhân dân, khiến hàng triệu người an phận, cam chịu mọi điều phi lư. Nhiều người c̣n bị ḷa đến mức không nhận diện nổi ân nhân đích thực: Rơ ràng là bản thân đang nhận quà từ thiện của đồng bào, mà chỉ biết đáp lại bằng câu “ơn đảng ơn chính phủ”.
Một trạng thái xă hội tê liệt, bị đè nén bởi sự lộng hành trong ngộ nhận từ phía thống trị, và bị thôi miên trong cơn u mê ở bên bị trị. Hậu quả tai hại đến mức ta nên dành thời gian để trao đổi cho rơ ngọn ngành.
Trước khi đi vào chi tiết, cần giải thích một chút để người đọc khỏi cho rằng người viết tùy tiện về chính tả. Trong chế độ độc đảng, nhiều khi chỉ cần nhắc một chữ “đảng” cũng đủ để hiểu là Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), nên có thể tạm chấp nhận cách viết tắt như vậy. Bấy lâu nay, thông lệ chính thống là viết hoa chữ “Đảng”. Tại sao? Theo quy tắc ngữ pháp th́ phải viết hoa danh từ riêng. Nhưng từ “đảng” (đơn lẻ) không phải là danh từ riêng. Ngược lại, nó là một danh từ chung của tiếng Việt, dùng để chỉ một đảng bất kỳ trong số nhiều đảng khác nhau đă và sẽ tồn tại. Nếu chiếm dụng từ “đảng” để dành riêng cho ĐCSVN, th́ có thể coi là “tham nhũng tiếng Việt” với động cơ tư lợi. Đó không chỉ là ẩu về mặt ngôn ngữ, mà c̣n tùy tiện về tư duy, vô t́nh hay hữu ư cho rằng: Ở Việt Nam th́ hiển nhiên chỉ có thể tồn tại một đảng duy nhất. Nếu không tán thành với quan điểm “độc tồn” ấy th́ không nhất thiết phải ṭng phạm trong việc “đảng hữu hóa” từ “đảng” – cái thực sự thuộc “sở hữu toàn dân”.
Hiến định thần thánh
Trong Lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam 1992, tiếp theo phần sử ca “từ ngày có đảng” là đoạn sau đây:
“Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xă hội, quốc pḥng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lư.”
Tức một trong những mục đích chính của Hiến pháp này là thể chế hoá sự lănh đạo của ĐCSVN đối với Nhân dân và Nhà nước. Qua đó, vị trí trên – dưới trong mối quan hệ “thần thánh” của ĐCSVN đối với Nhân dân và Nhà nước cũng được hiến định. Dẫu phía “thần dân” được gán cho nhăn hiệu “Nhân dân làm chủ”, nhưng thực tế đă quá đủ để chỉ ra rằng: Đó là một trong những thuật ngữ chính trị giả tạo và trớ trêu nhất trong lịch sử tư duy Dân tộc. Cái hư danh “làm chủ” không hóa trang nổi thân phận bị trị.
Để bảo vệ quyền tự do tư tưởng và tự do tín ngưỡng, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa kỳ quy định:
“Quốc hội không được ban hành luật nhằm thiết lập quốc đạo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hay hạn chế tự do ngôn luận, hoặc tự do báo chí, hoặc quyền của Nhân dân về hội họp ôn ḥa và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất b́nh.” (Tu chính án I)
C̣n Hiến pháp Việt Nam th́ ngược lại: Thiết lập “quốc đạo” thông qua hiến định “quốc kinh”:
“Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, nhân dân Việt Nam nguyện đoàn kết một ḷng, … thực hiện đường lối…” (Đoạn cuối của Lời nói đầu Hiến pháp 1992)
Vậy là toàn thể Nhân dân Việt Nam buộc phải theo chủ nghĩa ấy, tư tưởng ấy và cương lĩnh ấy, dù những thứ ấy mới h́nh thành và luôn biến dạng theo năm tháng, chứ không nhất quán và ổn định lâu đời như kinh thánh của các ḍng đạo truyền thống. Ai không muốn cũng phải chấp nhận, “không được phép nảy sinh ḷng khác” – Y chang nét đặc trưng của một số tôn giáo: “Các ngươi không được thờ các thần khác!” Chỉ chênh lệch “chút xíu” là: Người theo đạo thông thường được quyền lựa chọn, c̣n “đạo đảng” th́ toàn thể Nhân dân Việt Nam buộc phải theo. Cái thông điệp “không được chệch hướng” mang tính “tối hậu thư” được ẩn chứa trong thuật ngữ mĩ miều nồng hương đạo đức, ấy là “đoàn kết một ḷng”, tất nhiên là “dưới ánh sáng” ấy để “thực hiện Cương lĩnh” và “thực hiện đường lối” của ĐCSVN. Sự độc tài cũng dậy mùi từ chữ “nguyện” – vốn được dùng để mô tả ư chí của người tự do. Than ôi, kể cả ư nguyện của Nhân dân cũng do “đảng định”. Họ không thèm hỏi ư kiến của toàn Dân, thậm chí cố t́nh lờ đi hay bóp méo ư nguyện của Nhân dân, rồi độc quyền áp đặt cho Nhân dân cái ư nguyện “đảng tạo”, thông qua thủ thuật hiến định… Chỉ riêng điều đó cũng đủ để khắc họa trạng thái “tự do” của cộng đồng Nhân dân mang hư danh “làm chủ”.
So với nhiều hiến pháp khác, như Hiến pháp Mỹ và Hiến pháp Đức, th́ Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định thêm nhiều thứ, ví dụ như “Chế độ kinh tế” và “Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ”. Tại sao như vậy? Đơn giản là: Hiến pháp 1992 không thể hiện ư nguyện của Nhân dân Việt Nam, mà nhằm “thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội” của ĐCSVN, như đă viết trong Lời nói đầu của Hiến pháp. “Chủ nghĩa xă hội” là ǵ? Trong số những người thường rao giảng về nó, phần th́ thao thao bất tuyệt về những điều mà bản thân không hề hiểu, phần khác cũng biết là nó dở, nhưng vẫn “bán hàng giả” nhằm “vinh thân ph́ gia”. Ấy vậy mà nhà cầm quyền lại áp đặt trong Hiến pháp 1992 rằng:
“Điều 31 Nhà nước … giáo dục ư thức công dân … yêu chế độ xă hội chủ nghĩa…”
Đỉnh cao huyền bí của Hiến pháp 1992 là:
“Điều 4 Đảng cộng sản Việt Nam, … theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội…”
Huyền bí bởi hiến định cho ĐCSVN một vị thế “thần thánh”. “Thần thánh” không chỉ ở xuất xứ khó hiểu, mà c̣n ở chỗ quyền lực tối thượng được áp đặt đương nhiên và vĩnh viễn lên cả Dân tộc Việt Nam, bất luận “thần thánh” có tử tế và tài năng hay không.
Với Điều 4, Nhân dân bị mất quyền tự do tư tưởng, quyền tự lựa chọn con đường ḿnh đi. Cũng không c̣n quyền cử ra những người thay mặt ḿnh điều hành, quản lư đất nước và xă hội, tức là mất cả quyền tự do bầu cử, ứng cử một cách thực chất.
Tuy Điều 4 Hiến pháp 1992 không quy định ĐCSVN là lực lượng lănh đạo duy nhất, càng không quy định ĐCSVN là đảng duy nhất được phép tồn tại, nhưng trên thực tế, nó bị lạm dụng để cấm đoán các đảng phái khác h́nh thành và hoạt động, nghĩa là tước đi cả quyền tự do lập hội được quy định tại Điều 69 Hiến pháp 1992.
Việc hiến định quyền “lănh đạo Nhà nước, lănh đạo xă hội” của ĐCSVN đă xảy ra trong Hiến pháp 1980, theo khuôn mẫu của Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô 1977. Tuy nhiên, về bản chất th́ có lẽ vai tṛ của việc hiến định ấy trong Hiến pháp 1980 khác hẳn so với trong Hiến pháp 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Vào năm 1980, sau khi dành thắng lợi trong bốn cuộc chiến tranh ác liệt, lănh đạo ĐCSVN rất tự tin, cảm thấy quyền “lănh đạo Nhà nước và xă hội” của ḿnh là đương nhiên, không phải bàn căi. Việc ghi quyền lănh đạo ấy vào Hiến pháp có lẽ nhằm ca ngợi đảng. Tính hùng ca tràn đầy trong Hiến pháp 1980, đến mức “hiến định” cả độ tuổi “bốn ngh́n năm lịch sử” của Dân tộc Việt Nam, rồi dùng hơn ngh́n chữ để ngợi ca sự nghiệp của ĐCSVN, đặc biệt là các thành tựu trong bốn cuộc chiến tranh, và kể tội kẻ thù. Thậm chí, c̣n “hiến định” cả “kẻ thù truyền kiếp”. Hơn nữa, c̣n trích cả một đoạn dài 205 chữ từ “Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của ĐCSVN” để tŕnh bày đường lối mà Đại hội đă đề ra. Trong không khí đó, có lẽ lănh đạo thuở ấy của ĐCSVN không có nhu cầu bức thiết là phải hiến định quyền lănh đạo của đảng để rồi bấu víu.
Với Hiến pháp 1992 th́ ngược lại, nó ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước trải qua một thời kỳ kiệt quệ kéo dài, uy tín của ĐCSVN bị giảm sút nghiêm trọng, trong lúc Liên Xô và phe xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu đă đồng loạt sụp đổ, khiến đảng mất chỗ dựa quốc tế, kể cả về tinh thần lẫn vật chất. Trước t́nh h́nh nguy kịch ấy, Điều 4 của Hiến pháp 1992 không c̣n là ṿng nguyệt quế ngợi ca đảng và chế độ, mà được giới cầm quyền tận dụng như cái phao cứu sinh, để bám giữ vị thế lănh đạo trước nguy cơ bị đợt sóng thần lịch sử nhấn ch́m, và dùng nó làm cái gông pháp lư để chụp lên cổ những ai dám lên tiếng phủ nhận quyền lănh đạo của ĐCSVN. Một điều hiến định với mục đích như vậy có chính đáng hay không?
Nếu cho rằng đảng ḿnh không c̣n đủ uy tín để được đa số Nhân dân chấp nhận trao quyền lănh đạo, nên đành lạm dụng Hiến pháp làm vũ khí pháp lư nhằm bám giữ quyền lực, th́ có tử tế và vinh quang hay không?
Ngược lại, nếu tin tưởng rằng đảng ḿnh vẫn được đa số Nhân dân tín nhiệm trao quyền lănh đạo, th́ việc ǵ phải cố ghi bằng được vào Hiến pháp những điều phi lư không cần thiết cho thêm tai tiếng?
Hiện thân thần thánh
ĐCSVN là ǵ mà được hiến định một quyền lực siêu phàm như vậy? Tố Hữu, nhà thơ đầu đàn của ĐCSVN và từng tham gia bộ sậu lănh đạo tối cao của chế độ, đă mô tả rằng:
“Đảng ta đó, trăm tay ngh́n mắt
Đảng ta đây, da sắt xương đồng.”
H́nh ảnh đó nó lên điều ǵ? Có người nh́n nhận đảng như một cơ thể thống nhất, b́nh luận rằng “trăm tay ngh́n mắt” th́ là quái vật. Người khác quan niệm đảng là một tập thể của nhiều cá thể, th́ lư giải rằng trong đảng cứ 50 người làm (trăm tay) th́ có 500 người nḥm ngó (ngh́n mắt) để phán và phá, thành thử làm ǵ cũng khó. Lại có ư kiến cho rằng “da sắt xương đồng” th́ là bất động vật, một thứ vô hồn. Chắc hẳn cả ba ư đó không phải là điều mà Tố Hữu muốn nói. Hai câu thơ của ông thể hiện một thủ pháp truyền thống, được áp dụng suốt mấy chục năm qua để đề cao đảng. Đó là: Làm lạ hóa, trừu tượng hóa để tuyệt đối hóa đảng, nhằm có được một h́nh tượng cực kỳ siêu phàm, vô cùng sáng suốt và tài giỏi toàn năng. Từ đó mà thuyết phục hay bắt buộc muôn dân ngoan ngoăn đi theo, một ḷng tuân thủ sự điều khiển và sai khiến của lănh đạo đảng.
Có điều ngộ nghĩnh là những người đứng đầu đảng rất hay ca ngợi đảng, mà hóa ra là ca ngợi chính ḿnh. “Đảng vĩ đại” phải chọn ḿnh làm “đầu đảng”, th́ ḿnh vĩ đại biết nhường nào? “Đảng tài t́nh sáng suốt”, mà chính ḿnh là người quyết định đảng “nghĩ ǵ nói ǵ làm ǵ”, th́ có nghĩa là ḿnh tài t́nh sáng suốt, chứ c̣n ai? V́ chẳng mấy ai ngờ rằng họ đang tự khen bản thân, nên không ai chê là tự phụ, mà ngược lại c̣n khen là họ khiêm tốn. Đó là một ví dụ về hiệu quả diệu kỳ của phương pháp “lạ hóa”, không những có thể biến không thành có, mà c̣n có thể biết âm thành dương, biến xấu thành tốt.
Đảng linh thiêng nhờ ẩn khuất siêu h́nh. Song trên thực tế đảng chỉ có thể hiện thân vào những cá thể bằng xương, bằng thịt. Dù lănh đạo cấp nào th́ cũng thấm đẫm trong ḿnh những cái sang hèn, tốt xấu của trần gian.
Nhiều vị khi đi học th́ lạch bạch dưới trung b́nh, lớp nào cũng phải nương tựa bạn bè. Lư lịch thuộc diện ưu tiên, song vẫn không vào thẳng được đại học, mà phải ṿng qua lối “cử tuyển”, “liên thông”, “tại chức” hay “từ xa”. Đă hạ chất lượng đến tột cùng, mà nhiều “đại nhân” vẫn phải cậy người học hộ, thi hộ. Ấy vậy mà nhờ “sự phân công của đảng” cũng leo lên được ghế lănh đạo, rồi cho ḿnh cái quyền sai khiến muôn dân, lên mặt dạy bảo cả những bậc thầy. Cứ như thể đảng là một thứ hồn, thiêng đến mức chỉ cần nhập vào hạng yếu bóng vía cũng khiến kẻ ngây ngô có thể phát ngôn ra những chân lư cao siêu của thế giới xa lạ.
Đảng lănh đạo thông qua chủ trương, đường lối, chính sách và mệnh lệnh. Tất cả những thứ đó đều là sản phẩm của những con người cụ thể. Không phải của toàn thể mấy triệu đảng viên, cũng không phải của mấy vạn đảng viên cốt cán, mà của rất rất ít “siêu đảng viên”. Đó là mười mấy vị trong Bộ Chính trị, mà thường th́ tập thể ấy cũng bị chi phối bởi chỉ mấy người. Hăn hữu, quyền lực bao trùm thiên hạ được mở rộng ra ṿng Ban Chấp hành Trung ương Đảng với khoảng hai trăm ủy viên. Về lư thuyết th́ Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội đại biểu đảng toàn quốc có tiếng nói quyết định trong việc hoạch định chủ trương và đường lối của ĐCSVN. Nhưng Ban Chấp hành Trung ương th́ do Đại hội đảng bầu ra, mà thành phần cốt cán tham gia Đại hội đảng lại do Bộ Chính trị của khóa trước lựa chọn. Và nói chung, cả hai thành phần ấy thường tỏ ra rất biết thân biết phận, nên chẳng mấy khi dám làm trái ư lănh đạo tối cao.
Vậy là số phận của gần trăm triệu người hiện sống trên đất Việt, thậm chí cả số phận của những thế hệ mai sau, được đặt vào tay một số “siêu nhân”. Câu hỏi tự nhiên là: Những “siêu nhân” đó có xứng đáng được trao trọng trách to lớn như vậy hay không? Bạn hăy rút thăm chọn ngẫu nhiên vài vị trên “thiên đ́nh”, rồi thử trả lời câu hỏi này xem sao!
Thực t́nh tôi không muốn và cũng chẳng thích nêu đích danh ai, nhưng để trả lời câu hỏi “có xứng đáng được trao trọng trách to lớn như vậy hay không” th́ không thể ca ngợi hay quy kết chung chung, mà phải căn cứ vào con người cụ thể. Pḥng trường hợp nhóm đương nhiệm chưa kịp thể hiện hết ḿnh, th́ chọn nhóm tiền nhiệm vậy.
Xin thứ lỗi là không thể tránh chọn ông, bởi suốt ba mươi năm qua không ai án ngữ chính trường lâu bằng ông. Chín năm làm Chủ tịch Quốc hội. Mười năm làm Tổng bí thư ĐCSVN. Trong thời gian ấy, ngoài những công việc sự vụ như ngồi bấm giờ điều hành các cuộc họp, hay đi thăm viếng đó đây, th́ ông làm được những ǵ? Việc ǵ có thể tính là công? Việc ǵ phải coi là tội? Bao nhiêu quyết định sai lầm trầm trọng, bao nhiêu vụ tham nhũng tày trời đă xảy ra khi ông nắm giữ quyền lực tối cao? Nhân dân sẽ phải gánh chịu hậu quả thêm bao nhiêu thập kỷ nữa kể từ khi ông “hạ cánh”?
Ông đă từng học trường Trung cấp Nông lâm Trung ương Hà Nội (1958 – 1961). Sau 4 năm làm việc trong ngành lâm nghiệp, ông lại được đưa đi học đại học lâm nghiệp tại Liên Xô (1966 – 1971). Trong khoảng 8 năm trời được đào tạo về nghề rừng, ông đă học được những ǵ và rồi áp dụng thế nào, mà thời kỳ ông làm Chủ tịch Quốc hội (là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam”) và Tổng bí thư ĐCSVN (là “lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội”) cũng là thời kỳ mà rừng Tổ quốc bị tàn phá nặng nề nhất? Không phải do lục lâm tiến hành vụng trộm, mà công khai, đàng hoàng, được đầu têu hay dung túng bởi cán bộ và cơ quan Nhà nước, và c̣n được ngụy trang bởi chủ trương chính sách, ví dụ như việc đội lốt xây dựng thủy điện để phá rừng, chiếm đất. Chất lượng lănh đạo trong lĩnh vực mà ông từng được đào tạo chính quy bài bản c̣n tệ như vậy, th́ hiệu quả lănh đạo “tuyệt đối và toàn diện” trong những lĩnh vực mà ông thuộc loại “nửa chữ cắn đôi” c̣n… nặng nề tới đâu?
Ông biết ǵ về công nghệ khai thác bô-xít và hậu quả của nó? Ấy vậy mà ông lại tùy tiện kư kết với “bạn vàng” của ông về việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, biến một việc tệ hại thành “chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”. Giả sử lúc đầu do nông… cạn, nên nông nổi kư nhầm, th́ sau đó biết bao người đă lên tiếng can ngăn, đă phân tích rơ ràng về hậu quả tai hại toàn diện, cả về mặt kinh tế, quốc pḥng và môi trường. Họ là bậc thầy của các ông, ít nhất là về kiến thức khoa học và công nghệ, tại sao vẫn dứt khoát không nghe?
Một người tử tế, nếu tự ḿnh làm ra của cải dư dật, th́ cũng không quyết ăn tiêu bằng sạch, mà c̣n lo dành dụm ít nhiều cho con, cho cháu. Tài nguyên của Đất nước không phải là thứ do các ông hay thế hệ này tự tay làm ra, mà do Tạo hóa ban cho muôn đời Dân Việt, nên các ông không có quyền hành xử theo lối “nuốt không hết th́ phá”, mà càng phải có trách nhiệm để phần cho bao thế hệ mai sau. Giả sử việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên có lăi ngay lập tức và hoàn toàn vô hại, th́ các ông cũng chẳng nên vơ vét hết, nếu c̣n biết tôn trọng đạo đức tối thiểu, là không được phép ăn tranh cả phần tài nguyên của đời đời kế tiếp. Đằng này, đă được các chuyên gia báo trước là lỗ, và thực tế đă chứng tỏ là lỗ, lại c̣n gây ra bao tác hại ghê gớm cho môi trường, chưa kể đến hiểm họa quốc pḥng… Vậy mà các ông vấn cứ bịt tai nhắm mắt tiếp tục làm bừa. Thế là v́ cớ ǵ? V́ lợi lộc tư túi mà tối mắt, hay v́ mải theo “bạn vàng” mà lạc lối?
Bỏ cả đống tiền của để dựng hồ chứa bùn đỏ trên nóc nhà Đông Dương c̣n chưa đủ tốn kém và nguy hiểm hay sao, mà c̣n quyết vay mấy chục tỷ USD để rước hiểm họa hạt nhân về đặt giữa ḷng Ninh Thuận? Đừng nghĩ rằng “đóng két cuốn gói” rồi là thoát. Nếu sau này xảy ra thảm họa hạt nhân ở Ninh Thuận, hay ở B́nh Định, Phú Yên, Hà Tĩnh, Quảng Ngăi… th́ Nhân dân sẽ truy t́m thủ phạm cả trên dương thế lẫn dưới tầng địa ngục, trong đội ngũ đă tham gia tư vấn, thiết kế, xây dựng, hoặc vận hành nhà máy điện hạt nhân, và đặc biệt là trong hội đă đẻ ra loại “chủ trương luôn luôn đúng nhưng thực hiện chỉ có sai”. Là người lănh đạo tối cao của bộ máy cầm quyền khi thông qua quyết định xây dựng nhà máy điện hạt nhân, chắc chắn Nhân dân sẽ không quên trách nhiệm hàng đầu của cá nhân ông.
Cái gia đ́nh cỏn con của bản thân, ông có điều khiển tử tế không? Sao ông không dồn sức lo liệu việc nhà cho gần hơn với năng lực, mà lại ôm đồm lănh đạo cả Quốc gia?
Năm này qua năm khác, ông giáo dục toàn Dân, toàn đảng phải “học tập và làm theo…”, theo những thứ mà chính bản thân ông không theo, hoặc có muốn theo cũng không theo nổi. Cuối cùng, bao năm bận bịu “giáo dục Nhân dân” của ông chỉ để lại ấn tượng sâu sắc về… bản lĩnh nói dối. Giờ đây đă nghỉ hưu, ngày rộng tháng dài, ông hăy tĩnh tâm suy nghĩ thật kỹ, rồi trả lời ngắn gọn cho toàn thể Nhân dân được rơ: Chúng tôi có thể học được cái ǵ từ những người như ông?
Với tài đức như thế, tại sao Nhân dân Việt Nam lại phải chấp nhận để ông lănh đạo và giáo dục suốt bằng ấy năm trời? Tính theo tuổi thọ trung b́nh là 73, th́ tất cả chúng tôi, những công dân Việt Nam sinh trước năm 1992 và hiện chưa khuất núi, phải mất khoảng một phần tư đời ḿnh để sống dưới thời “tứ trụ triều đ́nh” của ông. Mà đấy là mới kể thời trị v́ của ông. Không hiểu kiếp trước chúng tôi phạm phải tội ǵ, mà kiếp này bị Trời đày lâu như vậy?
Viết như thế không phải để phủ định cá nhân ông. Dẫu sao đi nữa, khi bộ máy quyền lực khổng lồ đă đưa ông lên vị trí lănh đạo tối cao, th́ chứng tỏ là ông cũng có phần nhỉnh hơn số đó. Có điều, c̣n hàng vạn đảng viên hơn hẳn ông cả tài lẫn đức, nếu so sánh trong phạm vi toàn Dân th́ số tài đức hơn hẳn ông c̣n nhiều gấp bội. Vậy th́ tại sao lại chọn ông lănh đạo đảng cầm quyền, để cầm đầu cả Quốc gia? Ừ th́ tổ chức cũng có lúc nhầm lẫn, nhưng v́ sao lại nhầm lẫn bốn nhiệm kỳ liên tiếp, suốt gần hai mươi năm trời? Phải chăng là v́ cái bộ máy và cơ chế tổ chức ấy không muốn hoặc không thể chọn những người có tài năng vượt trội?
Nếu là đảng viên có trách nhiệm với đảng th́ cần đặt ra câu hỏi: Có thể phó mặc số phận của đảng cho bộ máy và cơ chế tổ chức ấy hay không?
Nếu là công dân có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng th́ phải tự hỏi: Có thể tin tưởng mà để mặc bộ máy và cơ chế tổ chức ấy chọn ra những người nắm giữ vận mệnh của cả Dân tộc hay không?
Viết như thế không nhằm phủ nhận đảng cầm quyền, mà để đối diện với câu hỏi không thể lẩn tránh là: Có thể chấp nhận việc hiến định quyền lănh đạo đương nhiên và vĩnh viễn cho một đảng với thực trạng chất lượng tổ chức như vậy hay không?
Từ chỗ là một đảng mạnh v́ biết dựa vào Nhân dân và dám đương đầu với thử thách, nay ỷ thế độc quyền lănh đạo mà đứng trên Nhân dân, để tham nhũng hoành hành tàn phá Đất nước và làm hại Nhân dân, rồi lạm dụng bạo lực để trấn áp phản biện và bỏ tù những người bất đồng chính kiến. Vậy th́ tránh sao nổi tha hóa? Ỷ vào sức mạnh súng đạn, thay cho sức mạnh trí tuệ, th́ làm sao chọn được lănh đạo tài năng?
Thuật ngữ “lănh đạo tập thể” hay được dùng để ngụy trang năng lực và lấp liếm trách nhiệm cá nhân. Song vài trăm học sinh lớp một hợp lực lại cũng không đủ tŕnh độ trúng tuyển vào đại học; vài trăm cái xe đạp buộc gộp lại cũng không thể cất cánh giống máy bay… Cái gọi là “lănh đạo tập thể” có thể gom góp chút sức mọn, nhưng không thể biến hóa ra mănh lực từ cơi hư vô, họa chăng chỉ khuyếch trương tà khí. Trong hoàn cảnh số “ác” lấn át số “thiện”, th́ “tập thể” ấy sẽ triệt tiêu cái “thiện”. Bi kịch tương tự như bị kẹt giữa đám đông không biết bơi chới với trong sóng nước, th́ người bơi giỏi đến mấy cũng dễ bị kéo ch́m.
Lịch sử đă chứng kiến bao tiền triều phong kiến, có thể khởi đầu bởi một đấng minh quân, nhưng tự măn rồi tự tôn, lao vào sa đọa, dần dần tha hóa thành hôn quân. Ỷ thế độc quyền quân chủ, đám trọng thần lộng hành không lo tiến cử người tài đức, mà lại dèm pha, thậm chí hăm hại hoàng tử thông minh, và đưa hoàng tử u mê kém cỏi lên ngôi thái tử, để sau này dễ bề “xỏ mũi”. Ưa loài siểm nịnh mà ruồng bỏ tài năng, th́ triều đ́nh chỉ c̣n nước lụi tàn.
Nếu nhà đương quyền không rút ra được bài học tương ứng từ lịch sử, khăng khăng tự tôn trong chế độ độc đảng toàn trị, th́ sẽ không thoát khỏi vết xe lầy của các tiền triều, rồi sớm muộn cũng biến khỏi vũ đài lịch sử.
Để giải phóng nguồn năng lượng khổng lồ đang tiềm ẩn trong Nhân dân và trong ĐCSVN, nhằm khắc phục hiện trạng bi đát gần như vô vọng, th́ giới cầm quyền phải vượt qua bản tính ích kỷ và bản năng cậy thế cường quyền, mà chấp nhận cạnh tranh dân chủ. Chỉ những chế độ dân chủ và những đảng chấp nhận dân chủ th́ mới có khả năng tự điều chỉnh để bền vững với thời gian. Khi phải cạnh tranh với các đối thủ khác và thuyết phục Nhân dân bỏ phiếu bầu ḿnh, th́ không đảng nào dám đưa những người kém năng lực lên làm lănh đạo, và chẳng đảng nào dám trịch thượng với Nhân dân.
Cho đến lúc giới cầm quyền tỉnh cơn mộng quyền uy, ta chỉ có thể đặt ra và tự trả lời câu hỏi: Một đảng với hiện thân cầm đầu như thế mà xưng là “lănh đạo Nhân dân” và “giáo dục Nhân dân” th́ có hợp lư hay không?
Nhân dân trong phận học tṛ
Thuở xa xưa, khi đại đa số người dân c̣n nghèo và ít học, th́ nhiều nhân vật trong giới cầm quyền có vẻ xuất chúng, lại có thêm lợi thế từ độc quyền thông tin. Nếu người cầm quyền không hơn người dân về tài, hay đức, hay về tuổi đời, th́ thường cũng hơn về thâm niên hoạt động hay thành tích đóng góp cho chế độ. V́ vậy dân t́nh dễ chấp nhận việc “mấy ổng dẫn dắt”.
Ngày nay, dù xướng tên bất cứ ai trong bộ máy cầm quyền, th́ cũng có thể t́m được trong Nhân dân vô số những người hơn hẳn vị ấy cả tài lẫn đức, cả tuổi đời lẫn thâm niên hoạt động, cũng như thành tích cống hiến. Trong hoàn cảnh đó, dựa vào cơ sở nào để lập luận rằng mấy vị đang cầm đầu ĐCSVN hiển nhiên có quyền “lănh đạo Nhân dân”, và “giáo dục Nhân dân” về những thứ mà Nhân dân được yêu hay phải ghét, về những điều mà Nhân dân phải làm, được làm và không được làm?
Giữa thời đại internet, nhiều nông dân cũng lướt mạng t́m kiếm tri thức. Nhiều thanh niên mới lớn cũng có khả năng tự mở rộng tầm hiểu biết vượt xa khỏi biên giới quốc gia. Biết bao người dân hàng ngày tiếp nhận những thông tin đa dạng, không chỉ về những ǵ đang diễn ra, mà c̣n tra cứu cả tài liệu lịch sử, để đánh giá những chuyện đúng sai của hàng chục năm về trước. Trong khi đó, nhiều vị lănh đạo đầu bạc không chỉ lạc hậu về công nghệ, mà c̣n chậm tiến cả về tư duy. Họ cứ ca măi những bài mà thiên hạ đă biết rơ là sai, khiến người nghe phải xấu hổ thay.
Từ khi giáo dục bị thị trường hóa, những người có chức có quyền có thể trưng ra vô vàn bằng cấp, nhiều hơn hẳn so với các thế hệ quan chức trước kia. Nhưng tầm kiến thức và khả năng tư duy th́ ngược lại. Thậm chí, cơ chế tuyển chọn lănh đạo bấy lâu nay đă tạo ra trạng thái hết sức trái khoáy: Càng lên cao th́ mật độ chất xám càng giảm, như thể là mô phỏng tự nhiên: Càng lên cao th́ không khí càng loăng. Theo cách nói của nhà báo Huy Đức th́ “nhận thức chính trị của một nguyên thủ trong thời đại ngày nay lại chỉ như tuyên huấn huyện ủy hồi thập niên 1980s.” C̣n nhà văn Nguyễn Quang Lập th́ thành thật thủ thỉ: “… nói thật nhé, cụ c̣n kém hơn nhiều so với mấy cụ hưu trí ở phường, xă.” Phải chăng, cũng chính v́ hạn chế tư duy mà giới cầm quyền không nhận thức nổi là thời cuộc đă thay đổi, do đó vẫn đ̣i đặt đảng – mà thực chất là chính bản thân họ – lên trên Nhân dân, và vẫn muốn nhân danh đảng để “giáo dục Nhân dân”?
Họ định “giáo dục” ai? “Giáo dục” Cụ Vơ Nguyên Giáp rằng “đề nghị… cho dừng triển khai các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên” là sai, là trái với “chủ trương lớn của đảng và Nhà nước” ư? “Giáo dục” Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh rằng “đồng ư với bản kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992″ (thường được gọi tắt là “Kiến nghị 72″) là “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” ư? Không hiểu “các thầy” có ǵ hơn so với “loại học tṛ” như các Cụ để mà “giáo dục”? Hay để đảm bảo chất lượng “giáo dục đại chúng”, th́ những “loại học tṛ cứng đầu” như các Cụ đă bị khai trừ khỏi Nhân dân? Trong Nhân dân có vô số những người tài giỏi hơn hẳn giới cầm quyền và đội ngũ tuyên huấn, khai trừ làm sao xuể.
“Hàng tổng” đă đành, đằng này “hàng mơ” cũng ngộ nhận, cũng lên giọng “lănh đạo và giáo dục Nhân dân”. Một viên đại tá (từ đại ngàn đại tá), với học hàm Phó giáo sư (trong số bạt ngàn Phó giáo sư), cũng ngạo nghễ khen Hiệu trưởng và Hiệu phó của mấy trường đại học… học giỏi. Biết là đang “nói với đội ngũ trí tuệ nhất của đất nước chúng ta”, mà vẫn lớn tiếng: “Đồng chí kia cất cái báo đi nhé, cất kính đi! Tôi nói như vậy mà vẫn đọc báo, không nên như vậy.” Tầm cỡ Hiệu trưởng, Hiệu phó trường đại học, đă chịu “cưa sừng làm nghé”, gắng gượng ngồi chứng kiến bài tuyên huấn luyên thuyên, mà c̣n bị “xạc” công khai giữa hội trường như thế, th́ tầm bà con công nông sẽ bị mắng mỏ đến mức nào? Đó là một ví dụ điển h́nh về sự ngạo mạn, hợm hĩnh của mấy vị cho rằng ḿnh có quyền “giáo dục Nhân dân”.
Có vô vàn những phát ngôn về “lănh đạo Nhân dân” và “giáo dục Nhân dân”, đầy trong sách vở, đài báo… Ông To phồng má, bà Nhỏ cũng trợn mắt, đua nhau đ̣i “lănh đạo và giáo dục Nhân dân”. Mà Nhân dân là ai?
Nhân dân là cộng đồng người gắn kết với nhau bởi nền văn hóa và lịch sử chung. Nhân dân của một nước là cộng đồng của toàn bộ dân cư nước ấy. Điều đó có thể đọc được ở nhiều nơi. Thậm chí, “tài liệu chính thống” của Liên Xô, được dịch ra tiếng Việt với sự phối hợp của phía Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam, c̣n viết rằng:
“Chỉ trong xă hội xă hội chủ nghĩa, khái niệm ‘nhân dân’ mới bao quát toàn bộ dân cư, tất cả các nhóm xă hội của nó.” (Ḍng 4 – 7, trang 402, “Từ điển triết học”, bản tiếng Việt, do Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va in năm 1986, được dịch từ bản tiếng Nga in năm 1975, với sự phối hợp sửa chữa và bổ sung của Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội).
Bất cứ đảng phái nào cũng là một “nhóm xă hội” của cộng đồng dân cư, là tập hợp của những con người từ Nhân dân mà ra. V́ vậy, mọi đảng phái đều ở trong Nhân dân. Nếu muốn sắp xếp thứ tự trên dưới, th́ phải đặt Nhân dân ở trên mọi đảng phái, kể cả ĐCSVN.
Lẽ ra phải là như vậy. Thế nhưng, đă từ lâu, trong ngôn ngữ chính trường ở nước ta, hễ đi với nhau th́ “ĐCSVN” được viết trước “Nhân dân”, và trong đời sống chính trị th́ ĐCSVN luôn được đặt trên Nhân dân.
Là cá thể của Nhân dân, là bộ phận của Nhân dân, mà đ̣i đứng trên toàn thể Nhân dân để “lănh đạo Nhân dân” và “giáo dục Nhân dân”, th́ có phải là… có giáo dục hay không?
Con Nhân dân hay đă lạc loài?
“Từ Nhân dân mà ra, v́ Nhân dân mà phục vụ.” Khẩu hiệu đó đă gắn liền với lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân từ thuở xa xưa, khiến người người tin rằng lực lượng ấy là của Nhân dân. Niềm tin đó được củng cố bởi Điều 45 Hiến pháp 1992, quy định rằng:
“Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân…, bảo vệ chế độ xă hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước.”
Cho đến một ngày, đó đây trương lên khẩu hiệu mang tín hiệu phản phúc: “C̣n đảng c̣n ḿnh”. Tưởng rằng đó chỉ là sản phẩm lạc điệu của mấy cái đầu ít học. Ai dè, tư duy lạc loài c̣n được khuếch đại tiếp, khi Điều 45 Hiến pháp 1992 được sửa đổi thành Điều 70 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 (được đăng tải để lấy ư kiến nhân dân từ ngày 02/01/2013):
“Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân ..; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xă hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.”
Họ không chỉ bắt “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam” và “bảo vệ Đảng”, mà c̣n đặt “Đảng cộng sản Việt Nam” lên trên cả “Tổ quốc và Nhân dân”. Trên thế giới có hiến pháp nào khác kỳ quặc như thế nữa không? V́ “Lực lượng vũ trang nhân dân” là một bộ phận của Nhân dân, nên bắt lực lượng ấy phải “bảo vệ Đảng” th́ có nghĩa là đ̣i Nhân dân phải bảo vệ đảng. Điều đó trớ trêu ở chỗ: ĐCSVN tuyên bố ra đời để phục vụ và bảo vệ Nhân dân, nhưng bây giờ lật ngược: Đ̣i hỏi Nhân dân phải phục vụ và bảo vệ đảng.
Thực ra, việc hiến định “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN“ sẽ chẳng có lợi ǵ cho đảng. Bởi ḷng trung thành của các chiến sĩ và sĩ quan đối với ĐCSVN chẳng phụ thuộc vào việc nghĩa vụ “trung thành“ có được hiến định hay không. Trong một thể chế mà giới cầm quyền luôn đầu têu coi thường Hiến pháp và vi phạm pháp luật, th́ các điều hiến định cũng không thể tác động nhiều đến tâm tư và hành động của người cầm súng.
Ngược lại, việc hiến định “trung thành“ một cách cưỡng bức chỉ gây phản cảm. Trong lực lượng vũ trang không thiếu người trượng nghĩa. Họ sẵn sàng giúp đỡ và bảo vệ những người lâm nạn. Nhưng nếu ai đó, kể cả ĐCSVN, lại ra lệnh rằng “anh phải tuyệt đối trung thành với tôi, phải tận tụy bảo vệ tôi và phải hy sinh v́ tôi”, th́ biết đâu ḷng tự trọng sẽ khiến họ quay lưng… Vậy là, việc hiến định “trung thành“ có thể sẽ làm cho vài ba tay súng “trung thành“ hơn, nhưng lại khiến nhiều người trọng nghĩa khí hành động ngược lại.
Đă có nhiều ư kiến phê phán cái sửa đổi Hiến pháp kỳ quặc đó. Thay v́ thành khẩn tiếp thu, bộ máy tuyên truyền quốc doanh lại tung ra những luận điệu ngụy biện để phản công. Họ khẳng định rằng lực lượng vũ trang do đảng lập ra, nghĩa là của đảng. Và tiền của mà Nhân dân bỏ ra nuôi lực lượng ấy cũng được thuyết minh là bổng lộc của đảng. Thành thử, nhiều tướng tá cho rằng ḿnh được đảng tuyển mộ và nuôi nấng no nê, th́ đương nhiên “phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN” và “bảo vệ Đảng”. Đối với tầm tư duy của họ th́ chẳng có ǵ là lạ khi đặt ĐCSVN lên trên Tổ quốc và Nhân dân.
Phải chăng, v́ quan niệm không phải là lực lượng của Nhân dân, nên công an được huy động để đàn áp Dân? Những đứa con của Nhân dân được giao cho đảng giáo dục và rèn luyện trong lực lượng công an mang tên Nhân dân, không hiểu được đảng đào tạo thế nào, mà khi ra nghề lại chỉ chăm chăm trấn lột Dân? Mới ngày nào, công an c̣n được coi là lực lượng trấn áp côn đồ và kiềm chế đầu gấu để bảo vệ cuộc sống yên lành của muôn dân. Vậy mà bây giờ, công an lại giả danh côn đồ và thuê đầu gấu xă hội đen để tấn công Dân. Thậm chí, cả quân đội, mà nhiệm vụ là bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân trước giặc ngoại xâm, cũng bị lôi cuốn vào những vụ phi pháp hại Dân, như ở Tiên Lăng. Nhân dân cũng chẳng tiếc những kẻ sẵn sàng tuân lệnh quan tham đi đàn áp Dân và phụng sự loài cướp đất. Nếu đôi bên đều muốn th́ đảng cứ việc giữ đám đó mà làm của riêng. Có điều, các vị hô hào “đảng hữu hóa” lực lượng vũ trang nên ư thức rơ những hậu quả nhăn tiền sau đây:
Một là, nếu cho rằng lực lượng vũ trang là của ĐCSVN, th́ hăy trung thực gọi nó là “Lực lượng vũ trang ĐCSVN”. Hăy xóa hai chữ “Nhân dân” ra khỏi tên lực lượng vũ trang, để tên “Nhân dân” không c̣n bị lạm dụng, gán cho những toán quân đi đàn áp Dân.
Hai là, nếu lực lượng vũ trang là của ĐCSVN, th́ hăy lấy tài sản riêng của đảng mà nuôi lực lượng ấy! Không thể bắt Dân tiếp tục đóng thuế, hay phải đứng ra trả nợ, để nuôi “con riêng của đảng”, nếu chúng chỉ chăm chăm bảo vệ đảng (nói đúng hơn là bảo vệ lănh đạo của đảng).
Ba là, nếu lực lượng vũ trang là của ĐCSVN, để bảo vệ đảng là chính, th́ công dân sẽ không có nghĩa vụ phải gia nhập lực lượng ấy, nghĩa là sẽ không c̣n “phải làm nghĩa vụ quân sự” như bấy lâu nay. Bởi v́: Công dân chỉ có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân, trong đó có cả bản thân và gia đ́nh ḿnh, chứ không có nghĩa vụ phải bảo vệ ĐCSVN, càng không có nghĩa vụ phải hy sinh xương máu v́ đảng hay v́ cái gọi là “nghĩa vụ quốc tế” của giới cầm quyền.
Bốn là, nếu lực lượng vũ trang hiện đang tồn tại không c̣n là của Nhân dân, th́ Nhân dân có quyền lập ra lực lượng vũ trang của ḿnh, sẽ lấy lại tên của ḿnh để đặt cho lực lượng ấy, sẽ đưa con em ḿnh vào đó và dành tiền của để nuôi họ. Tất nhiên, lực lượng vũ trang đích thực của Nhân dân sẽ đương đầu với bất kỳ thế lực nào hại Nước, hại Dân.
Vậy th́ các vị đ̣i “đảng hữu hóa” lực lượng vũ trang đă thỏa măn chưa? Liệu các vị có ngăn cản nổi con em Nhân dân rời bỏ lực lượng vũ trang đă xa Nhân dân để trở về với lực lượng vũ trang đích thực của Nhân dân hay không? Thiếu người, thiếu của, liệu các vị có duy tŕ nổi đội quân khổng lồ để bảo vệ đảng hay không?
Rơ ràng, việc lạm dụng Hiến pháp để buộc lực lượng vũ trang “phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN“ không đem lại lợi ích ǵ, mà chỉ có hại cho đảng. Một lần nữa ta thấy: Những vị lớn tiếng nhất trong việc hô hào bảo vệ đảng có khi lại là những người phá đảng đắc lực và hiệu quả nhất.
Do bị phản đối, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 (được tŕnh Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XIII, ngày 17/05/2013), họ đă chữa Điều 70 thành:
“Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân…”
Tức là đưa “Tổ quốc” lên trước “Đảng”, bổ sung thêm “Nhà nước” vào sau “Đảng”, nhưng vẫn đặt “nhân dân” ở vị trí cuối cùng, và chỉ có “nhân dân” là không được viết hoa. Rồi đây, có thể “thứ tự trung thành” sẽ c̣n được thay đổi trong các phiên bản dự thảo tiếp theo, nhưng những ǵ đă diễn ra trong Dự thảo phiên bản 2 và phiên bản 3 măi măi là bằng chứng về sự coi thường Nhân dân của thế lực cầm quyền.
Từ khi ra đời đến nay, dù chẳng hề có hiến định về nghĩa vụ “phải tuyệt đối trung thành với Đảng” và “bảo vệ Đảng”, th́ cả hai lực lượng Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân vẫn trung thành với ĐCSVN và bảo vệ ĐCSVN. Nếu đảng thực sự gắn bó với Tổ quốc và Nhân dân, thực sự v́ Nhân dân và chia sẻ số phận với Nhân dân, th́ việc hiến định “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN” và “bảo vệ Đảng” là hoàn toàn không cần thiết. Bởi lẽ khi đó, lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và Nhân dân th́ cũng đă hàm chứa cả trung thành với đảng, và bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân th́ đương nhiên cũng bảo vệ cả đảng. Cho nên, việc cố t́nh tách riêng đảng trong danh sách mà lực lượng vũ trang “phải tuyệt đối trung thành” chứng tỏ rằng: Thế lực cầm quyền (đang đạo diễn việc hiến định nghĩa vụ “trung thành” của lực lượng vũ trang) đă tự tách ḿnh ra khỏi Tổ quốc và Nhân dân.
Việc đặt ĐCSVN lên trước cả Tổ quốc và Nhân dân trong thứ tự mà lực lượng vũ trang “phải tuyệt đối trung thành” (tức là đ̣i lực lượng vũ trang phải trung thành với đảng hơn so với Tổ quốc và Nhân dân) không chỉ phản ánh sự ngộ nhận vô lư, mà cả tâm lư lo sợ của những thế lực tự biết ḿnh phạm lỗi lớn với Tổ quốc và Nhân dân. Thay v́ tỉnh ngộ mà dừng tay, họ lại tiếp tục sa đà, rồi lạm danh đảng và lạm dụng Hiến pháp để che chắn cho tội lỗi của họ. Việc hiến định đó cũng cho thấy: Nếu gặp phản ứng, họ sẵn sàng lôi kéo và ra lệnh cho lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân quay lưng lại với Nhân dân, và đẩy con em Dân đi chống lại Dân. Hơn bao giờ hết, những người đang đứng trong hàng ngũ quân đội và công an cần phải tỉnh táo để xác định cho rơ: Ḿnh vẫn là con em của Nhân dân, hay chỉ c̣n là công cụ của các thế lực đang vẫy vùng trong tham nhũng?
*
* *
Không riêng Lực lượng vũ trang Nhân dân, mà cả ĐCSVN cũng từ Nhân dân mà ra, trước sau cũng chỉ là bộ phận của Nhân dân. V́ vậy, không chỉ Lực lượng vũ trang Nhân dân, mà cả ĐCSVN, và hiển nhiên cả tất thảy các vị lănh đạo của hai tổ chức này, cũng đều phải trung thành với Nhân dân. Tách khỏi Nhân dân là phi lư, đứng trên Nhân dân là phi luân, làm hại Nhân dân là phi nghĩa. Nếu không chịu hiểu cái lẽ tối thiểu ấy mà cư xử cho phải đạo, th́ đừng có mà oán thán khi bị Nhân dân ruồng bỏ như đám lạc loài.
Dù cái ghế mượn tạm của cuộc đời cao thấp đến đâu, th́ các vị thường ưỡn ngực “lănh đạo và giáo dục Nhân dân” cũng đừng quên thân phận. Muốn có mặt trên đời đều phải chui ra từ ḷng mẹ. Muốn lớn lên cần sự cưu mang, nuôi dưỡng của người thân. Muốn có chữ phải theo thầy học đạo. Muốn thăng tiến phải dựa vào sự d́u dắt, nâng đỡ của bậc đàn anh. Ấy vậy mà khi có được quyền cao, chức trọng, th́ tưởng ḿnh là siêu nhân, cư xử như con Trời, coi Nhân dân như thần dân hạ đẳng. Nhân danh đảng, tự cho ḿnh cái quyền chăn dắt Nhân dân. Lấn át Nhân dân, trong đó có cả mẹ cha, mà không thấy là thất hiếu. “Xoa đầu” Nhân dân, trong đó có cả những người từng cưu mang, nâng đỡ, mà không thấy là thất lễ. Cao ngạo giáo dục Nhân dân, trong đó vô số người c̣n giỏi hơn cả thầy ḿnh, mà không thấy là thất thố. Chiếm đoạt của cải của Nhân dân, trong đó có bao người cùng cực, mà không thấy là thất đức. Dương dương tự đắc, mà không thấy cũng có ngày thất thế, và rồi cũng trở lại là thất phu.
Viết đến đây, bỗng nghe vang vọng bài ca “Cho con” của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu:
“Ba sẽ là cánh chim đưa con đi thật xa
Mẹ sẽ là cành hoa cho con cài lên ngực
Ba mẹ là lá chắn che chở suốt đời con
V́ con là con ba, con của ba rất ngoan
V́ con là con mẹ, con của mẹ rất hiền
Ngày mai con khôn lớn bay đi khắp mọi miền
Con đừng quên con nhé ba mẹ là quê hương.”
Đúng vậy, ba mẹ luôn hết ḷng thương yêu và chăm sóc các con, b́nh thường không bao giờ bỏ rơi con cháu, đơn giản “v́ con là con ba” và “v́ con là con mẹ”. Khi con sống phải đạo, cư xử tử tế, xứng đáng là “con của ba rất ngoan” và “con của mẹ rất hiền”, th́ “ba mẹ là lá chắn che chở suốt đời con”. Kể cả khi con nhỡ làm điều ǵ dại dột, th́ ba mẹ cũng rộng ḷng tha thứ. Nhưng nếu đă đủ già dặn mà con lại xưng là bố của ba, đ̣i làm má của mẹ, rồi đè đầu ba mà lănh đạo, túm tóc mẹ mà giáo dục, th́ không thể coi là vụng dại được nữa. Thử hỏi, trong hoàn cảnh ấy, ba mẹ c̣n biết làm ǵ với thứ đă mang nặng đẻ đau tốn công nuôi dưỡng, ngoài việc đấm ngực mà kêu: Trời ơi, sao nhà tôi vô phúc thế này?
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.