Sắp đến ngày quốc hận. Lần này là tṛn 40 năm kể từ khi VNCH ngă xuống. Nhưng bao vết thương chưa lành c̣n đó, không xóa hết được. Cùng vietbf.com khám phá bài viết dài nhưng rất hay.
Phạm Phong Dinh -- Chị Thàng đă chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào ḷng, chị Thàng b́nh tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt !
NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI LỬA BINH
Trong cuộc chiến tranh bảo quốc chống ngăn cơn sóng đỏ của cộng sản quốc tế với đạo quân tay sai tiền kích của chúng là binh đội cộng sản Bắc Việt và Việt cộng miền Nam, khuôn mặt của những người vợ lính dường như đă rất mờ nhạt đằng sau chất muối trắng đẫm đầy trên lưng áo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nhưng chiến tranh càng nặng độ th́ h́nh ảnh những người chị vô danh ấy đă dần hiện rơ trong một ánh sáng diệu kỳ, mà chúng ta chỉ có thể cúi người thật sâu xuống để tôn vinh và ngợi ca. Đó là những người lính không có vũ khí, không số quân, không tiền lương, không cả lương thực hành quân, nhưng là những người lính tỏa hào quang chói sáng nhất trong những hoàn cảnh nghiệt ngă thắt ngặt nhất, mà đă góp phần đem chiến thắng quyết định trên chiến trường.
Đó là NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH, những người chị cao cả mà đă cùng chồng dấn ḿnh trong cơn băo lửa của chiến tranh, cùng chia sẻ cái chết, có khi các chị hy sinh trước cả các anh. Những cái chết anh dũng trong âm thầm đó nào ai biết được. Không có Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ phủ trên chiếc quan tài được ghép thành từ những mảnh ván đơn sơ, không có chiếc huy chương Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu, không cả tiếng kèn truy điệu ai oán.
Những người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh cùng sống chui rúc trong những cái hầm tối tăm ngột ngạt, dưới những những cái hố nhỏ ngập đầy nước. Những người lính nghèo nàn, rách rưới và tội nghiệp co ro ôm súng gác giặc và đánh giặc trong cái lạnh xé thịt của đêm. Ăn uống th́ đạm bạc đến không có ǵ đạm bạc hơn được nữa. Một cái nồi cơm méo mó, với vài con cá nhỏ kho trong chất nước mắm hạng bét mặn chát những muối, một dĩa rau muống ruộng hay rau đắng xơ xác, mà có thể t́m thấy mọc đầy khắp những vũng nước đọng trên những cánh dồng lầy.
Cả gia đ́nh người lính Địa Phương Quân hay Nghĩa Quân quây quần chung quanh mâm cơm đơn sơ đó chấp nhận sự thua thiệt của ḿnh. Không than thở, không ta thán và vui ḷng với niềm hạnh phúc mong manh của ḿnh. Một năm 365 ngày, mười năm, hai mươi năm, cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, hơn bảy ngàn đêm những người chị ấy chưa từng bao giờ biết ngủ yên giấc là ǵ. Chị thao thức đến nửa khuya, lắng nghe tiếng đại bác vọng ́ ầm về thành phố từ phía mặt trận có anh ở đó, chị thổn thức nguyện cầu cho anh được b́nh yên, để anh có một ngày được về với chị và con, dù chỉ là những khoảnh khắc về phép thật quá hiếm hoi. Hay nếu chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn, anh chiến đấu cơ cực như thế nào, anh ăn ngủ chập chờn ra sao, th́ chị cũng cơ cực và chập chờn ngần ấy.
CHỊ PHẠM THỊ THÀNG, NỮ ANH THƯ ĐẤT G̉ CÔNG
Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công việc, mà công việc nào cũng biểu hiện h́nh ảnh và đức tính cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người vợ, người đàn bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia đ́nh, trông nom dạy dỗ con cái và nấu nướng những bữa ăn.
Thứ hai, khi quân giặc đă thấy dẫy đầy ngoài những ṿng rào kẽm gai, th́ những người nữ chiến sĩ chưa từng một ngày được huấn luyện ở quân trường ấy đă chiến đấu như bất cứ người lính chuyên nghiệp nào. Chị cũng biết dùng máy truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng thành thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném lựu đạn ác liệt và chính xác, tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những thùng đạn tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc poncho, để tên chị vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người chị như vậy lắm. Ở ngay tại đồng Giồng Đ́nh này th́ ít nhất cũng có những chị Phạm Thị Thàng và Trần Thị Tâm.
Đêm 2.10.1965, với âm mưu làm xáo trộn hệ thống tiếp viện của những đơn vị diện địa trong khu vực Tiền Giang để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ trong một đêm Việt cộng đă tổ chức tấn công 11 vị trí của quân ta với quân số thật lớn. Đồn Giồng Đ́nh thuộc tỉnh G̣ Công cũng bị áp lực rất nặng của quân địch khi hứng chịu cuộc cường kích của 300 lính cộng.
Đây là một lực lượng chính qui Việt cộng với hỏa lực rất mạnh, chúng quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Đ́nh nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn một Trung Đội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ. Là những con ác quỷ hung tợn và thâm độc, lực lượng cộng quân đă bố trí ở hướng có nhiều nhà dân chúng, vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác miệng tuyên truyền gây căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là những ông bà lăo già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn nhát gọi là những người “giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí hùng hậu ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt của đồng bào để có cơ may thủ thắng, th́ c̣n từ ngữ nào, h́nh dung từ tồi tệ nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt của cộng sản nữa không.
Đúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng Úy Sáu Bích, đă mở cuộc tấn công từ hai mặt đánh vào Giồng Đ́nh, với sự tin tưởng điên rồ, rằng chúng sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này trong một thời gian ngắn. Chiến thắng dường như là chắc chắn, v́ với quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu chúng có thí chín tên th́ cũng có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng Đ́nh.
Trên lư thuyết, th́ giả thiết đó dường như đúng. Nhưng trên trận địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa luôn luôn thể hiện những chuyện phi thường, mà rất hằng hiện hữu trên bất kỳ chiến trường nào, quả thật cộng quân đă chọn lầm mục tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo, tưởng gạch đá cũng phải nát thành tro, đă chiếm được 2 trong số 3 lô cốt trong đồn, cộng quân vẫn phải rút trở ra. Cuộc tấn công lần thứ tư được hối hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Đ́nh. Nhưng liệu 24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không. Câu trả lời là không, không chỉ đến từ ư chí hừng hực tử thủ của các anh, mà c̣n là từ đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ lính đang sống cùng với chồng con của các chị trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối cùng của Nghĩa Quân đồn Giồng Đ́nh sẽ không thể thực hiện được, nếu không có sự góp sức chiến đấu của những người chị này. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những người chị dũng cảm ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng đánh.
Đồn Giồng Đ́nh nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong tỉnh G̣ Công, do một Trung Đội Nghĩa Quân trấn giữ, với thành phần chỉ huy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, Đồn Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Đồn Phó và anh Lê Văn Mẫn, âm thoại viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không chỉ có 24 tay súng mà đă đủ, nên tất cả những người vợ lính trong đồn đều đă được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những loại máy móc truyền tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đă được nhân lên gấp đôi.
Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh tuyệt vọng nhất, những em bé cũng tham chiến, khi các em gan dạ ḅ dưới lưới đạn của giặc để đem tiếp tế đến cho cha và mẹ. Không ai buộc những người vợ lính, con lính cầm súng đánh địch. Nhưng chính những người vợ lính, con lính ấy làm sao có thể ẩn náu t́m cái sống trong khi chồng và cha của họ sắp ngă gục ngoài chiến hào.
Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn công, th́ t́nh trạng bên trong đồn Giồng Đ́nh đă khá là bi đát. Đă có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị thương, chỉ c̣n 8 Nghĩa Quân c̣n chiến đấu được. Âm thoại viên Lê Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu.
Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là cứu tinh của đồn Giồng Đ́nh. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối đầu với một lực lượng quá đông của địch.
Nh́n ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đă đă tràn vào đen ng̣m như những con quái vật hung hăn. Anh Hùng chỉ c̣n trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá và súng SKZ của Việt cộng bắn vào quá gần, các em không c̣n khóc được nữa mà đă nằm bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng th́ thào:
- Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh ḅ về giữ. Lô cốt mất là đồn ḿnh mất, em nằm tại đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào th́... th́... em ném lựu đạn ra, có thể cầm cự đến sáng được.
Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nh́n vợ con, rồi nh́n về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đă yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đă kiệt quệ quá rồi. Số phận của anh Thi Đồn Trưởng thế nào. Anh Hùng lắc đầu không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đă xảy ra cho đồng đội. Nhưng nếu Việt cộng chiếm được lô cốt ấy, th́ coi như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đă ḥ hét ngay sát bên rồi:
- Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh.
Anh Hùng nh́n chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng. Trong ḷng anh quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con ḿnh. Hai đứa nhỏ chẳng biết c̣n sống hay đă chết. Anh phóng ḿnh xuống hào chạy băng băng về hướng lô cốt. Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn rải vào những cái bóng đen đă quá gần. Anh Hùng đă ḅ vào được lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng.
Nước mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh đă đếm được đến con số 15, mà tiếng súng của địch vẫn nỗ ḍn dă ngay sát tuyến pḥng thủ của chị Thàng. Anh biết giây phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đă điểm. Chị Thàng sẽ làm ǵ với quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong ḷng : “Chỉ c̣n một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”. Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái ǵ sẽ xảy đến cho vợ con ḿnh, v́ dưới chân lô cốt anh tử thủ đă đông nghẹt quân giặc. Đủ mọi thứ loại súng nỗ chát chúa khắp đồn, anh Hùng không biết chắc là ḿnh đă nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa.
Cuộc chiến đấu đă kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đă phá được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Đ́nh. Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày 2.10.1965. T́nh h́nh đă quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Đồn Trưởng, quyết định thà hy sinh c̣n hơn là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay chị Tâm và thét lớn:
- Hăy bắn lên đầu chúng tôi ! Bắn vào giữa đồn... Hai lô cốt thứ nhứt và thứ hai đă thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ ba. Hăy bắn lên trên đầu chúng tôi, Việt cộng đông lắm. Bắn đi... bắn....
Sau tiếng gọi thống thiết của người Đồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu G̣ Công lập tức bắn vào đồn với loại đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch, quân ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe, tiếng kêu dẫy chết của chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi cùng anh Hùng từ trong những lổ châu mai bắn tỉa từng tên địch. Giữa tiếng súng nổ ḍn, dường như người ta nghe âm thanh ŕ ŕ của máy bay. Không Quân Việt Nam đă tới. Những chiếc A1 khu trục cơ đă xuất kích. Đến đây th́ Thượng Úy Sáu Bích, tên chỉ huy trận đánh đă có thể nhận thấy rằng, cuộc tấn công đồn Giồng Đ́nh đă đánh dấu chấm hết, với phần thắng nghiêng về phía Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn im tiếng súng. Quân địch đă kéo những xác chết và những tên bị thương chạy trốn vào phía bóng tối.
Khi ánh hừng đông của một ngày mới đă lên, hai Đại Đội Địa Phương Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng G̣ Công chỉ huy đă đến và tổ chức bung quân ra lục soát. Quân cộng đă để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Đồn Trưởng Thi, Đồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin đă kháng cự mănh liệt, thà chết không hàng. Những tên Việt cộng này mang trên ḿnh rất nhiều lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng để phá cho bằng được ổ kháng cự cuối cùng này.
Anh Thi và anh Hùng đă bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo góc với nhau tạo thành một xạ trường quét gọn tất cả những tên cộng nào nằm trong đó. Ngày hôm sau, một người thường dân bị Việt cộng bắt đi tải thương lén trốn về được đă cho biết số bị thương của chúng chở đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính cộng may mắn bị thương tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại sao may mắn ? V́ nếu anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết v́ nhiễm trùng, bị những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng những loại cưa và đục của thợ mộc, th́ cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi thủ tiêu. Đó là lư do giải thích tại sao sau ngày 30.4.1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người thương phế binh cộng sản trên đường phố.
Nhưng đối với anh Hùng, th́ tất cả những ǵ mà Viêt cộng đă trả giá cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt., quân cộng đă rút đi, th́ anh đă như một người điên lao ḿnh ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đă một ḿnh một súng trấn giữ ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng ḅ vào khúc hào mà anh đă nuốt nước mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt cộng. Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt làm đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ th́ chị Thàng cũng đi vào cơi chết, v́ chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đă chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào ḷng, chị Thàng b́nh tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt.
Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ đó đă được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào ḷng và gần như ngất xỉu. Nhưng khi nh́n ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngỗn ngang khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của ḿnh, anh Hùng thấy trong ḷng dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị Thàng đă cứu sống được tất cả những thương binh Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng mà chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị đă đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Đ́nh. Một người lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, th́ chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ con của đồng Giồng Đ́nh đều sẽ chết hết.
Anh Hùng ẳm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những người c̣n sống, những người vợ lính khác đă gục đầu khóc tiếc thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội với ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai kia của cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ của lính trong thời lửa binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị Trần Thị Tâm, và nhiều người chị khác trên khắp nẽo chiến trường, chị Thạch Thị Định, chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng. Người lính của chúng ta, những công dân xếp hạng chót nhất trong bậc thang xă hội, nhưng là những người hứng chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường chắn cho sự an toàn của hậu phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong đời của các anh không có được một thứ ưu tiên vật chất nào cả, ngoài cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những người lính từ Miền Tây ra tận miền hỏa tuyến hay trên vùng cao nguyên sương mù Miền Trung, nhiều năm liền không có lấy được một ngày phép về thăm gia đ́nh. Nếu anh may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương, th́ anh mới có cái diễm phúc được nắm trong tay tờ giấy phép. C̣n nếu sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một bước, anh chết, th́ anh được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở nơi đă sinh ra anh. Đầu năm 1972, trong một trận đánh của Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại khu vực Cồn Tiên nằm sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến Hải, một tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đă không thể chiếm được một cao điểm. Vị Tiểu Đoàn Trưởng gọi bốn người lính gốc Miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép nếu các anh chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ Kinh Kha đă nai nịt tề chỉnh, mang thật nhiều lựu đạn ḅ lên, mỗi người cầm một cây gậy ngắn ḍ đường. Đêm tối như mực. Hễ chọt trúng cái lổ nào là thảy lựu đạn vô cái lổ đó, v́ ở đó chính là cái miệng hầm chốt của địch. Đến sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó đă reo ḥ trương Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép đă trở thành một ân huệ chứ không phải là một quyền lợi đương nhiên của những người lính trận.