Sau bốn mươi mốt năm cuộc sống của người dân lại đứng trước nguy cơ bị huỷ hoại và sự phản kháng chống lại của nhân dân Việt Nam.
Đứng ở Bắc Vĩ tuyến 17, nh́n về phía Nam, bên kia cầu Hiền Lương, trước đây 41 năm là lănh địa của Việt Nam Cộng Ḥa. Và đứng trên suy nghĩ của người miền Bắc lúc bầy giờ th́ đó là nơi “đồng bào miền Nam bị o ép, không có cơm ăn áo mặc, đau khổ v́ bọn ngụy quân ngụy quyền…” theo lối nhồi sọ của người Cộng sản. Để rồi sau 41 năm, người ta lại đứng trên cầu Hiền Lương và nghĩ rằng giá như lúc đó đừng có ngày 30 tháng 4. Giá như… và giá như… cá chết sớm hơn nữa!
Thực ra trước khi cá chết hàng loạt, vấn đề người Trung Quốc xâm lược, tham nhũng, người dân nghèo mất đất, giới quan lại địa phương nhũng nhiễu… tất cả đă là những cái ung nhọt lớn của đảng Cộng sản, càng ngày nó càng lớn thêm. Mà con người th́ ai cũng muốn sống trong yên tĩnh, b́nh an và đừng để chuyện ǵ trở nên náo động. Chính cái tâm lư thủ phận an thường này cộng với kiểu quản lư sắc máu của nhà cầm quyền đă làm cho hầu hết nhân dân bị tê liệt tính phản kháng. Vẫn biết, vẫn bất b́nh, vẫn bất măn nhưng người ta bảo nhau “thôi kệ, ai làm ǵ th́ làm, miễn đừng đụng tới nồi gạo nhà tôi là được!”.
Không hẳn tâm lư thủ phận, an thường như vậy đă là xấu. Bởi khi sống trong bối cảnh Việt Nam, từng va chạm với nhà cầm quyền, với công an th́ mới thấy thông cảm cho thái độ lựa chọn này. Nhưng điều đó không hẳn là người Việt hoàn toàn tê liệt khi lựa chọn thái độ này. Bởi người ta đă quá ngán ngẫm cảnh tù cải tạo, cảnh dàn kịch bản để đẩy người ta đến cái chết trong trại tạm giam, nhà giam… và quá nhiều tṛ đẩy người ta ra đường.
Ngay cả khi rừng núi bị khai thác sạch sành sanh, thủy điện đầu nguồn tích nước làm cho ruộng đồng hạn, mặn, đất đai bị lấn chiếm, bị trưng thu một cách rẻ rúng và bất công, người Việt Nam vẫn chưa kịp đánh thức, vẫn cứ mặc kệ nó. Bởi đă sống quá lâu trong ḱm kẹp, sống quá lâu trong bất công và đói khổ, mà khi đói khổ, khó khăn, thứ người ta cần đầu tiên phải là cơm áo, có bao nhiêu giữ bấy nhiêu. Đó là tâm lư chung. Cái tâm lư chung này cộng với tính chịu thương chịu khó, vị tha của người Việt Nam đă khiến cho hầu hết người ta dễ thông cảm và bỏ qua cho giới cầm quyền.
Nhưng không! Đó là lúc chưa đụng đến chén cơm manh áo. Và cũng đừng ai vội vàng kết luận rằng người Việt Nam bị tê liệt khả năng phản kháng. Hoàn toàn không phải vậy. Đến thời điểm bây giờ, có thể nói rằng người Việt Nam có tính phản kháng rất cao và sức chịu đựng cũng rất cao. Khi đă hết chịu đựng được nữa, người ta sẽ phản kháng. Và sự phản kháng này không đến từ ư nghĩa hay quyền lợi cá nhân mà đến từ tập thể, quyền lợi chung của dân tộc. Câu chuyện cá chết và lời kêu gọi biểu t́nh trên toàn quốc vào ngày 30 tháng 4 đă chứng minh cho chuyện này.
Trong lúc tôi ngồi gơ những ḍng chữ này th́ tại huyện Quảng Trạch, Quảng B́nh, hàng ngàn nông dân và ngư dân đă ra đường biểu t́nh. Người ta kéo đi cả vài xă và khí thế hừng hực. Khác với mọi cuộc biểu t́nh trước đây chỉ kêu gọi chống bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông và ở các biên giới. Lần này người biểu t́nh nêu rơ tội danh của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Người dân yêu cầu nhà cầm quyền phải trả lời gấp về nguyên nhân cá chết và giải tŕnh trước nhân dân về khu kinh tế Vũng Áng cũng như Formosa.
Thực ra, hàng triệu câu hỏi mà nhân dân đặt ra và bắt buộc nhà cầm quyền, đảng lănh đạo phải trả lời thỏa đáng không phải chỉ mới có ngày hôm qua hay hôm nay mà điều này đă có từ sau 30 tháng 4 năm 1975. Khi mà cả miền Nam giàu có, trù phú và thơ mộng bỗng chốc trở thành tiêu điều, hoảng loạn. Người người đau khổ, nhà nhà đau khổ sau ngày “giải phóng” đă khiến cho người phía Bắc phải thấy giật ḿnh, tỉnh mộng rằng hóa ra lâu nay ḿnh bị tuyên truyền, bị nhồi sọ những thứ không có thật, hóa ra miền Nam giàu có gấp bội miền Bắc và người ta sống cũng văn minh, hiện đại gấp bội miền Bắc!
Những nghi vấn về đảng cứ âm ỉ cháy, đôi khi tưởng chừng như tắt lịm bởi cơm áo gạo tiền, bởi sức ép của xă hội mà ở đó mọi chuyện đều có thể xảy ra, con người có thể bốc hơi một cách bất thường và vô lư trong sức ép tập thể. Người ta buộc ḷng phải thủ phận bởi nói cho cùng th́ người ta đă quá đủ khổ đau và mất mát, người ta không muốn mất mát thêm nữa!
Tuy nhiên, khi tỉnh mộng, khi thấy rằng càng cố giữ, cố thủ và cố an phận th́ không những không an toàn mà càng mau chết, người ta buộc phải nghĩ lại, phải cất tiếng nói và phải đứng lên. Những bất công từ địa phương tới trung ương cũng như sự đớn hèn, nhược tiểu của nhà cầm quyền đảng Cộng sản trước thái độ hống hách của người Trung Quốc trên biển Đông và gần đây là trên bờ, cụ thể là câu phát biểu đầy ngạo mạn và mất dạy của Chu Xuân Phàm đă làm cho nhân dân tỉnh ngộ.
Câu hỏi đặt ra trong mỗi người dân Việt Nam từ Nam chí Bắc hiện nay là liệu chúng ta c̣n tồn tại được đến bao giờ? Và liệu chuyện ǵ sẽ xảy ra tiếp theo? Những câu hỏi này nhanh chóng biến thành hành động, hơn bao giờ hết, người dân sẵn sàng đứng lên để đ̣i lại một Việt Nam toàn vẹn lănh thổ, một Việt Nam thơ mộng rừng vàng biển bạc ngày nào.
Bởi sau bốn mươi mốt năm gọi là thống nhất hai miền đất nước, điều mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nhận thấy là mọi thứ tài nguyên trên đất nước này nhanh chóng bị tàn phá, nợ nần quốc gia chồng chất, gia đ́nh ly tán và nhục nhă nhất là chính những người bị cướp, bị bắt, bị hành hạ phải bỏ nước ra đi đă gởi tiền về xây dựng đất nước. C̣n những kẻ lên nắm quyền làm lănh đạo th́ chỉ lo vơ vét và bán đứng dân tộc, bán đứng quốc gia.
Bởi sau bốn mươi mốt năm, cái điều mà nhân dân Việt Nam nhận được chính là kẻ ăn không hết, người làm không ra, kẻ có quyền chức th́ ăn trên ngồi trốc, sống như những đế vương, người dân cô thế th́ thậm chí cả cái quyền được làm người nghèo cũng không có được bởi danh sách hộ nghèo đă lọt vào tay những kẻ không hề nghèo khổ nhưng lại có thế lực đỏ che chở. Nhiều kẻ có nhà cao ba, bốn tầng nhưng để cho con cái đứng tên, tách riêng ra thành một hộ khẩu và ở nhà tuềnh toàng để được vay diện hộ nghèo, được hỗ trợ và thâu tóm mọi khoản tiền dành cho người nghèo mà mang đi cho vay nặng lăi.
Sau bốn mươi mốt năm, cái điều gọi là “độc lập, tự do, hạnh phúc” chỉ là chiếc bánh vẽ và người thất nghiệp ngày càng cao, nạn trộm cướp, giết người tăng mạnh, giới quan chức lănh đạo ngành giáo dục sống xa hoa và thiếu hẳn tư cách con người, bệnh viện trở thành cái ḷ mổ của tổ quốc và mỗi cán bộ y tế đều tiềm ẩn một đao phủ.
Sau bốn mươi mốt năm, không những chỉ riêng mỗi hệ thống cán bộ của đảng phá nát đất nước này mà bọn họ c̣n chơi tṛ cơng rắn cắn gà nhà. Một ḿnh họ phá chưa đủ, họ đưa thêm anh bạn vàng Trung Cộng của họ sang tàn phá, môi trường bị hủy hoại, con người bị tàn hại, mọi thứ trở nên nguy hiểm và chết chóc…
Sau bốn mươi mốt năm, nếu như 30 tháng 4 năm 1975 đất nước trở nên náo nhiệt và ồn ào bởi tiếng reo ḥ của người miền Bắc và một bộ phận không nhỏ người miền Nam vui mừng “thống nhất đất nước” th́ bốn mươi mốt năm sau, cả đất nước cũng trở nên náo động, nhưng không phải là tiếng reo ḥ mà là tiếng khóc, tiếng thở dài và uất hận.
Tiếng khóc, tiếng hét căm phẫn và tiếng thở dài của cả hai miền đất nước sau bốn mươi mốt năm cũng đủ nói lên rơ tính chất của nhà cầm quyền. Và một khi cả đất nước đều phải khóc, phải hét lên v́ căm phẫn, uất ức và gào kêu sự minh bạch của nhà cầm quyền th́ câu chuyện không c̣n đơn giản nữa rồi!