Vào tháng 7/1961, một cỗ máy xuất hiện trên Hồ chứa nước Gorky khiến ngay cả những người quan sát giàu kinh nghiệm cũng phải bối rối. Cỗ máy này không phải là máy bay — đôi cánh quá nhỏ, và cũng không phải là thuyền — nó đang lao vút trên mặt nước với tốc độ 200 km/giờ.

Cỗ máy này bay cách mặt nước vài mét, như thể đang thách thức các định luật vật lý. Đây là lần đầu tiên thế giới nhìn thấy một chiếc ekranoplan — đứa con tinh thần của thiên tài Liên Xô Rostislav Alekseyev.
Chẳng bao lâu sau, tình báo Mỹ đặt cho sáng tạo này của ông biệt danh "Quái vật biển Caspi", và các chuyên gia đã thừa nhận rằng, người Nga đã đi trước Mỹ 30 năm. Làm thế nào mà con trai của một nhà nông học và một giáo viên đến từ một thị trấn tỉnh lẻ lại tạo ra một vũ khí khiến Washington phải sợ hãi?
Môn thuyền buồm và nhu cầu tốc độ
Rostislav Alekseev sinh ngày 18 tháng 12 năm 1916 tại thị trấn Novozybkov, tỉnh Chernigov, trong gia đình có cha là giáo viên và mẹ là nhà nông học. Năm 1935, ông nhập học tại Học viện Công nghiệp Gorky mang tên Zhdanov, khoa đóng tàu.
Trong những năm tháng sinh viên, nhà thiết kế tương lai rất thích môn thuyền buồm. Chàng trai trẻ đam mê du thuyền luôn trăn trở với một vấn đề: làm thế nào để con tàu di chuyển nhanh hơn. Câu trả lời đến một cách bất ngờ: cần phải giảm diện tích tiếp xúc của tàu với nước.
Alekseyev lưu ý đến "hiệu ứng đệm không khí" - một hiện tượng mà các phi công đã biết từ những ngày đầu của kỷ nguyên hàng không. Khi bay sát mặt đất hoặc mặt nước, cánh máy bay nén không khí bên dưới, tạo ra áp lực cao hơn, như thể va vào một đệm khí. Đối với ngành hàng không, đây là một trở ngại, nhưng Alekseyev nhìn nhận nó như chìa khóa cho một cuộc cách mạng trên biển.
Luận văn tốt nghiệp trong điều kiện chiến tranh
Vào tháng 7 năm 1941, khi quân Đức đang tiến về Matxcơva, tại Học viện Gorky đã tổ chức một buổi bảo vệ luận án tốt nghiệp khác thường. Chủ đề công trình của Alekseyev - "Tàu cánh ngầm tốc độ cao" - nghe có vẻ rất phù hợp với điều kiện chiến tranh lúc bấy giờ. Buổi bảo vệ luận án được tổ chức kín.
Kỹ sư trẻ ngay lập tức được điều động đến nhà máy Krasnoye Sormovo, nơi vào năm 1942, ông được bàn giao một phòng thí nghiệm và các chuyên gia để phát triển các loại tàu chiến. Alekseyev không kịp chế tạo tàu chiến độc đáo trước khi Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại kết thúc, nhưng những phát triển của ông được công nhận là rất hứa hẹn. Năm 1951, công trình nghiên cứu của nhà thiết kế đã nhận được Giải thưởng Stalin hạng hai.
Tàu cánh ngầm Raketa chinh phục thế giới
Tàu cánh ngầm Raketa chinh phục thế giới. Ảnh Sputnik
Năm 1951, những phát triển quân sự của nhà thiết kế trẻ tuổi đã được chuyển đổi thành một dự án dân sự. Phòng thiết kế của Alekseyev bắt đầu chế tạo tàu cánh ngầm chở khách mang tên "Raketa".
Năm 1957, chiếc "Raketa" đầu tiên được trình làng tại Matxcơva trong thời gian Liên hoan Thanh niên và Sinh viên Thế giới. Sự xuất hiện của chiếc tàu chở khách vượt trội hơn tất cả các loại tàu dân sự hiện có về tốc độ đã gây chấn động.
Những chiếc “Raketa” đã vượt xa Liên Xô: chúng được sử dụng thành công ở Anh, Canada, Đức, Phần Lan. Với việc chế tạo toàn bộ dòng tàu cánh ngầm - "Volga", "Meteor", "Kometa", "Sputnik" - nhóm nghiên cứu do Alekseyev đứng đầu đã được trao Giải thưởng Lenin năm 1962.
Sự ra đời của một "Quái vật"
Alekseyev không dừng lại ở đó. Giới hạn tốc độ tối đa của tàu cánh ngầm không vượt quá 100-120 km/giờ do hiện tượng sủi bọt - là sự hình thành bọt khí trong chất lỏng chuyển động nhanh. Để vượt qua rào cản này, cần phải loại bỏ hoàn toàn sự tiếp xúc với nước.
Alekseyev đã đích thân đưa chiếc ekranoplan SM-1 (mẫu tự hành) đầu tiên đi thử nghiệm vào ngày 22 tháng 7 năm 1961. Cỗ máy được chế tạo theo sơ đồ "tandem" với hai cánh tăng tốc lên 200 km/giờ và dễ điều khiển. Chủ tịch Ủy ban Nhà nước về Đóng tàu Boris Butoma, Nguyên soái Dmitry Ustinov và Tổng Tư lệnh Hải quân Sergei Gorshkov đã có mặt tại các cuộc thử nghiệm, họ đã bật đèn xanh cho việc phát triển dự án này.
Mùa hè năm 1962, Liên Xô đã thông qua chương trình phát triển ekranoplan quy mô lớn. Các chuyên gia bắt đầu chế tạo ekranoplan thử nghiệm khổng lồ KM-1, sau này đi vào lịch sử với tên gọi "Quái vật biển Caspi".
Cỗ máy khiến người Mỹ kinh ngạc
KM-1 đã là máy bay nặng nhất thế giới cho đến năm 1988, khi An-225 Mriya xuất hiện. Với sải cánh 37,6 mét, chiều dài 92 mét và trọng lượng cất cánh tối đa 544 tấn, "quái vật" này đạt tốc độ 500 km/giờ.
Ra mắt vào tháng 10 năm 1966 tại Chkalovsk, KM-1 đã được thử nghiệm trên biển Caspi. Chính tại đó, tình báo Mỹ đã ghi nhận được cỗ máy chưa từng thấy này. Theo truyền thông Nga, người Mỹ đã giải mã hai chữ cái "K" và "M" thành “Monstre Caspian” (Quái vật biển Caspi) và từ đó biệt danh này gán cho cỗ máy này.
Việc công bố những bức ảnh trên tạp chí Time đã gây ra nhiều tranh cãi. Người ta lo ngại rằng Liên Xô sẽ sớm có thể kiểm soát đường bờ biển của toàn bộ Đại dương Thế giới.
"Lun" - kẻ hủy diệt tàu sân bay
KM-1 đã được sử dụng làm nền tảng cho ekranoplan chiến đấu Lun với sáu thùng chứa tên lửa chống hạm Moskit. Gã khổng lồ nặng 600 tấn, dài 73 mét này thực sự là cơn ác mộng đối với hạm đội đối phương.
Lun có thể bay đến khu vực được chỉ định và phóng một loạt tên lửa hành trình vào nhóm tàu sân bay - chỉ cần hai quả tên lửa là đủ để vô hiệu hóa một tàu chiến thuộc bất kỳ lớp nào. Như con gái của nhà thiết kế - bà Tatyana Alekseyeva - nhớ lại, "người Mỹ rất sợ nó - chỉ cần một ekranoplan Lun là đủ để đánh chìm một tàu sân bay".
Orlyonok - siêu dị tàu đổ bộ có cánh
Song song với dự án đó, nhà thiết kế đã phát triển các loại ekranoplan vận tải và đổ bộ. A-90 Orlyonok có thể chuyển sang chế độ bay toàn phần ở độ cao lên tới 3.000 mét. Với tốc độ 400 km/giờ, nó có thể chở tới 200 lính dù hoặc hai xe bọc thép chở quân cùng kíp lái.
Orlyonok được hạ thủy vào năm 1972. Sau bảy năm thử nghiệm, nó đã được đưa vào biên chế Hải quân Liên Xô với tư cách là một đơn vị chiến đấu chính thức. Tổng cộng bốn chiếc Orlyonok đã được sản xuất, tạo thành phi đoàn không quân độc lập thứ 11.
Cái kết bi thảm của một thiên tài
Như Lenta.ru đã ghi nhận, dự án ekranoplan đã có rất nhiều đối thủ ở cấp cao. Sau khi Khrushchev từ chức, Nguyên soái Dmitry Ustinov và Tổng tư lệnh Hải quân Gorshkov đã ủng hộ dự án ekranoplan, nhưng năm 1984, Ustinov qua đời, và Sokolov, người kế nhiệm ông, đã đóng cửa chương trình ekranoplan.
Trong giai đoạn 1976-1977, hơn 250 bản vẽ ekranoplan độc đáo đã bị phá hủy. Chỉ còn lại một chiếc "Quái vật biển Caspi" duy nhất, nhưng vào năm 1980, nó đã bị rơi do lỗi của phi công và chìm. Năm 1990, Lun được chuyển sang hoạt động thử nghiệm, và sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, không còn thời gian cho nó nữa - giờ đây nó bị bỏ xó tại một ụ tàu khô ở Kaspiysk. Trong số 100 ekranoplan phải được sản xuất theo kế hoạch, chỉ có 24 chiếc được chế tạo, bao gồm năm chiếc "Orlyonok".
Rostislav Alekseyev qua đời vào ngày 9 tháng 2 năm 1980 trong hoàn cảnh bi thảm. Trong quá trình thử nghiệm nguyên mẫu máy bay ekranoplan dân dụng "Volga-2", ông bị thương nặng và qua đời vì nhiễm trùng máu sau hai ca phẫu thuật. Ông hưởng thọ 63 tuổi.
Sự công nhận xứng đáng sau mấy thập kỷ
Sau này, nhà thiết kế người Mỹ Stephen Hooker đã đánh giá cao những gì Alexeyev và nhóm của ông đã tạo ra. Sau khi đến thăm các công ty Nga chuyên phát triển ekranoplan, ông đã thốt lên: "Người Nga đã đi trước chúng tôi 30 năm!".
Những phát minh của Rostislav Alexeyev sống mãi với thời gian. Ekranoplan là một ngành công nghiệp hoàn chỉnh, và Nga có thể thực sự đột phá vào thị trường thế giới trong lĩnh vực này. Từ hậu cần Bắc Cực đến du lịch biển, những cỗ máy đã học cách bay trên mặt nước có thể tìm thấy chỗ đứng của mình trong thế kỷ 21.
VietBF@ sưu tập