Loăng xương gây xẹp đốt sống là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến c̣ng lưng, không chỉ gây đau mà c̣n ảnh hưởng chất lượng sống của người già.
C̣ng lưng là t́nh trạng thân đốt sống, đặc biệt là phần trước, bị xẹp hoặc tiêu hủy, làm cho cột sống nghiêng về phía trước. C̣ng lưng thường xảy ra ở các đốt sống lưng - thắt lưng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến t́nh trạng này, tuy nhiên, ở người cao tuổi, c̣ng lưng thường là do bệnh lư loăng xương gây xẹp đốt sống.
C̣ng lưng làm giảm chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Ảnh: Shutterstock
Bác sĩ CKI Nguyễn Tấn Vũ, Trung tâm Chấn thương Chỉnh h́nh, Hệ thống BVĐK Tâm Anh cho biết, xương tạo thành từ nhiều khoáng chất như canxi, vitamin D, protein... Trong suốt cuộc đời, xương không ngừng trao đổi chất, quá tŕnh này gồm hai phần chính là tạo xương và hủy xương. Theo thời gian, tuổi tác ngày càng cao, hoạt động tạo xương giảm đi trong khi hoạt động hủy xương tăng lên. Điều này làm sụt giảm khối lượng xương và suy thoái cấu trúc xương, gây ra t́nh trạng loăng xương. Lúc này, người bệnh có thể bị găy xương dù chỉ gặp phải chấn thương nhẹ; thậm chí, khi không xảy ra chấn thương nào, đốt sống vẫn xẹp do trọng lượng cơ thể.
Theo bác sĩ Nguyễn Tấn Vũ, một trong những dấu hiệu đầu tiên của t́nh trạng xẹp đốt sống là giảm chiều cao, giảm khả năng vận động cột sống. Ngoài ra, nếu người bệnh cảm thấy đau khi trở ḿnh có thể là dấu hiệu của xẹp đốt sống cấp; nếu đốt sống xẹp gây chèn ép thần kinh, sẽ gây ra hiện tượng đau tê chân, yếu chân, đau theo rễ thần kinh liên sườn, rối loạn cơ tṛn... Tuy nhiên, trong đa số trường hợp, xẹp đốt sống không có dấu hiệu rơ rệt mà người bệnh chỉ vô t́nh phát hiện khi thực hiện chẩn đoán h́nh ảnh cho các bệnh lư khác.
T́nh trạng loăng xương, xẹp đốt sống nếu không được điều trị kịp thời có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người bệnh như khó đứng thẳng, dễ mỏi; đau dữ dội nếu xẹp đốt sống cấp; dễ bị găy xương do té ngă và nguy cơ găy xương tái phát; t́nh trạng găy xương chậm lành... Đặc biệt, nếu găy những xương lớn như xương đùi ở vùng háng, việc điều trị gặp nhiều khó khăn do người bệnh cao tuổi, mắc nhiều bệnh lư nền. Ngoài ra, trong quá tŕnh chờ lành xương, người bệnh phải nằm một chỗ trong thời gian dài. Điều này dẫn đến những biến chứng như viêm phổi, tắc mạch chi, suy dinh dưỡng, teo cơ.... góp phần làm tăng nguy cơ tử vong.
Phương pháp điều trị sẽ tùy thuộc vào mức độ xẹp đốt sống, có kèm theo các tổn thương thần kinh hay không. Xẹp đốt sống không có tổn thương thần kinh kèm theo sẽ được chỉ định điều trị nội khoa. Theo đó, người bệnh sẽ được yêu cầu nghỉ ngơi tại giường, dùng dụng cụ nẹp cố định cột sống nhằm nâng đỡ và hạn chế cử động vị trí đốt sống bị xẹp. Các loại thuốc thường được kê đơn là thuốc giảm đau, chống viêm, giăn cơ, chống loăng xương, hủy cốt bào...
Xẹp đốt sống có tổn thương thần kinh ở mức độ trung b́nh cho đến nặng, không đáp ứng điều trị bảo tồn sau 2 tháng sẽ được chỉ định phẫu thuật can thiệp. Người bệnh có thể được chỉ định bơm xi măng sinh học, giúp đẩy thân đốt sống phồng lên và cứng lại như ban đầu, khắc phục t́nh trạng xẹp. Trong trường hợp xẹp đốt sống nặng, biến dạng cột sống lớn, bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật.
Theo bác sĩ Nguyễn Tấn Vũ, phương pháp hiệu quả nhất để pḥng ngừa bệnh là tầm soát loăng xương hàng năm. Những đối tượng nên tầm soát loăng xương xẹp đốt sống là phụ nữ sau măn kinh 3 năm, nam giới trên 70 tuổi... Để chẩn đoán chính xác người bệnh có bị loăng xương hay không, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh sử dụng phương pháp đo DEXA. Phương pháp này dùng tia X để đo hàm lượng canxi và các khoáng chất khác có trong xương; thường được đo ở cột sống, hông hoặc cổ tay. Mật độ xương càng cao th́ xương càng chắc khỏe và nguy cơ găy xương càng thấp.
Ngoài ra, một chế độ dinh dưỡng lành mạnh và sinh hoạt hợp lư giúp ngăn chặn, làm chậm quá tŕnh suy giảm mật độ xương hiệu quả. Người bệnh nên bổ sung đủ canxi và vitamin D, tăng cường các loại thực phẩm giàu chất chống oxy hóa như vitamin C và E; vận động thường xuyên với cường độ thích hợp để xây dựng hệ xương chắc khỏe, tăng sự dẻo dai và linh hoạt; không hút thuốc lá, uống rượu bia và sử dụng chất kích thích; không tự ư dùng thuốc, đặc biệt là các loại thuốc giảm đau chống viêm; thăm khám bác sĩ định kỳ hoặc khi xuất hiện bất thường.