Nhớ Anh Linh Anh Hùng Nguyễn Ngọc Trụ – Cựu Cán Bộ Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
“Con ngựa phóng trên đồng cỏ, dưới chân nó là một thảm cỏ xanh mịn như nhung. Nó không biết phía trước là một vực thẳm đang chờ sẵn, và con ngựa đã lao đầu xuống vực sâu vì mắt đã bị bịt. Người dân trong xã hội chủ nghĩa chính là những con ngựa đó.”
— Nguyễn Ngọc Trụ
Tôi trình diện tập trung tại trường Lê Quang Định chiều ngày 26 tháng 6 năm 1975, hạn chót dành cho cấp Thiếu úy và Trung úy. Tối khuya ngày 28, tất cả chúng tôi được dồn lên xe, không ai biết sẽ bị đưa đi đâu. Bọn cộng sản đưa chúng tôi đi vòng vèo, hết dừng rồi lại chạy, để đánh lạc hướng.
Cuối cùng, sau hơn mười tiếng đồng hồ lắt léo, chúng tôi bị "đổ quân" gần chân núi Bà Đen, vùng Trảng Lớn, Tây Ninh – nơi từng đặt Bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn 25 Bộ binh, cách nơi xuất phát không đầy hai giờ lái xe.
Bài học đầu tiên mà cộng sản dạy chúng tôi là: lươn lẹo, lắt léo, gian trá.
Sau đó, chúng tôi bị chia thành tổ, khối, trại. Tôi ở trại L4T1, gồm 14 khối, mỗi khối là một nhà chứa 120 người, chia thành các tổ 10 người. Khoảng hơn một tháng sau, chúng tôi bị "biên chế" lại, chỉ còn 5–6 khối cho một trại.
Tôi ở khối 13, khối 14 là khối nữ. Cả hai khối cộng lại cũng chưa đầy 120 người nên tạm thời sinh hoạt chung. Ngày hôm sau, các cô được phân công tháo đinh từ thùng đạn pháo, còn tù nam thì rào kẽm gai quanh trại.

Tôi vừa làm hàng rào tự nhốt mình, vừa nhìn quanh. Thấy lá cờ đỏ sao vàng dơ bẩn và tởm lợm đang đung đưa trên sân trại bộ đội, tôi bất giác căm ghét luôn cả lá cờ vàng sao đỏ của ông Thiệu – một lá cờ mà vài năm trước tôi đã linh cảm là điềm xấu. Cả hai lá cờ, dù màu sắc đối nghịch, lại trông y hệt nhau. Trong phút chốc hoang tưởng, tôi huýt gió một đoạn của bài hát “Cờ bay, cờ bay…”
Bất ngờ, có tiếng nói sát sau lưng: “Hay lắm, nào, chúng ta cùng hát!” Rồi người ấy hát theo vài câu, trong đó có câu anh sửa lại thành: “…Sài Gòn ơi, chờ quê hương giải phóng…”
Người đó chính là Nguyễn Ngọc Trụ, người mà không lâu sau đã trở thành huyền thoại trong các trại tù vùng Trảng Lớn, Tây Ninh.
Anh Trụ khoảng ngoài 30 tuổi, vóc dáng trung bình, da trắng, đeo kính dày, phong thái trí thức, điềm đạm và nói năng nhẹ nhàng nhưng dứt khoát. Sau này tôi mới biết thêm anh có vợ và hai con, là Trung úy, có bằng Cao học Luật – Công pháp Quốc tế, và luận án Tiến sĩ của anh sắp hoàn thành. Anh từng giảng dạy tại Trường Võ Bị Đà Lạt, chuyên về các môn Luật và Chính trị.

Vì tôi và anh không ở cùng nhà, thậm chí sau đợt “biên chế” cũng không còn cùng trại nên tôi chỉ biết về anh chừng đó. Sau đó, tù nữ khối 14 bị chuyển khỏi Trảng Lớn. Anh Trụ vẫn ở lại trại T1, còn tôi chuyển sang trại T3, cách T1 khoảng 1km.
Tại trại mới, tù nhân bắt đầu bị khủng bố tinh thần bằng một đợt thẩm vấn chính thức kéo dài nhiều tuần. Một sáng nọ, chúng tôi được lệnh nghỉ lao động để viết bản tự khai. Đến chiều, dưới sự giám sát của quản giáo, từng người phải đứng lên đọc bản khai của mình cho người khác góp ý và đánh giá “mức độ thành khẩn”, rồi ghi biên bản nộp lại cho quản giáo.
Ngày kế tiếp, trong lúc thảo luận tiếp, có hai vệ binh với gương mặt hung dữ, cầm súng AK kêu từng người ra khỏi trại. Họ bị dẫn đi thẩm vấn trong các lều tranh kín nằm trên một khu đất rộng lớn và xa hẳn trại. Trước mỗi lều có một vệ binh vũ trang đứng gác. Bên trong, hai cán bộ công an ngồi chờ – một người hỏi cung, một người quan sát – với thái độ đanh ác và sẵn sàng buộc tội.

Trong thời gian ấy, nỗi sợ bao trùm. Ai cũng nghĩ mình có thể bị xử bắn, vì bị buộc tội phản động hoặc “ác ôn”.
Sau giai đoạn thẩm vấn và khủng bố tinh thần, "cách mạng" chính thức ban cho tù nhân "vinh dự" được lao động khổ sai dài hạn. Dù trước đó chúng tôi cũng đã bị lao động cực nhọc nhưng ít ra còn chưa theo quy hoạch. Chỉ vài tháng sau, nhiều người đã chỉ còn da bọc xương.
Thế nhưng, trên đường đi lao động, chúng tôi có cơ hội gặp người ở trại khác và nghe nhiều chuyện kể về Nguyễn Ngọc Trụ. Càng ngày, danh tiếng anh càng lan rộng như một biểu tượng anh hùng bất khuất. Nhất là sau mỗi đợt học tập chính trị, câu chuyện về anh lại được nhắc nhiều hơn, dù lúc đó tôi vẫn bán tín bán nghi, cho rằng có phần thêu dệt.
Rồi một hôm, có tin Quang và Vũ ở trại T1 trốn trại nhưng bị bắt lại. Nghe nói họ là học trò cũ của anh Trụ – khóa cuối Trường Võ Bị Đà Lạt. Trước khi trốn, họ đã nhờ anh Trụ giữ một bức thư để chuyển cho gia đình khi có dịp. Khi nghe tin hai người bị bắt, anh Trụ lập tức tiêu hủy lá thư đó.
Tuy nhiên, chính việc này đã khiến anh bị liên lụy. Sau đó là tin anh Trụ bị bắt đi biệt giam, lý do là hai người kia bị ép cung, khai rằng họ trốn trại theo "lệnh của thầy Trụ", với kế hoạch quay lại giải thoát trại.
Khi nghe tin anh Trụ bị biệt giam, tôi bắt đầu xét lại những điều trước đó mình từng cho là "thêu dệt" trong các câu chuyện về lòng anh dũng bất khuất của anh. Sau này, khi chuyển qua nhiều trại khác và được tiếp xúc với những người từng ở cùng anh Trụ, tôi mới nhận ra: sự thật về anh còn lớn lao và kinh ngạc hơn tất cả những gì tôi từng nghe.
Không nhận tội “tay sai đế quốc, bán nước, có nợ máu với nhân dân”
Chỉ trong vài tháng đầu, mỗi tù nhân phải viết và đọc hàng chục bản tự khai, lý lịch, thu hoạch… để nhận mình có tội theo đúng những luận điệu của cộng sản. Dù chỉ tự kể tội một cách "chung chung", tôi cũng cảm thấy vô cùng xấu hổ. Chính từ cái hèn mọn của bản thân mà tôi càng thấm thía sự vĩ đại của anh Nguyễn Ngọc Trụ.
Trong tất cả những bài viết đó, anh Trụ chỉ ghi tên, chức vụ, và để trống hoàn toàn phần "nhận tội". Anh khẳng định công việc của mình là phục vụ cho một tương lai Việt Nam độc lập, dân chủ, nhân bản. Một lý tưởng cao đẹp như thế không thể bị coi là tội lỗi.
Cộng sản và Mỹ đều là hiểm họa đối với dân tộc Việt Nam
Trong các buổi "thảo luận chính trị" do quản giáo chủ trì hoặc tại hội trường đông đến hàng ngàn người, nơi cán bộ chính trị cấp cao từ xa đến giảng bài, anh Trụ vẫn thẳng thắn lên tiếng. Anh tố cáo cả Mỹ và cộng sản: Mỹ lợi dụng xương máu của người Việt và nhân dân Mỹ để phục vụ quyền lợi nhóm. Còn chủ nghĩa cộng sản, theo anh, là một học thuyết hoang tưởng, lỗi thời, không thể thuyết phục được người văn minh.
Trước hai hiểm họa, không thể chống cả hai cùng lúc, anh buộc phải chọn hiểm họa nhẹ hơn là Mỹ, để đối đầu với cái họa lớn là cộng sản – dù bản thân anh không hề ủng hộ sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Theo anh, súng Mỹ, súng Nga hay súng Trung Quốc đều là kẻ thù của dân tộc.
Người dân trong xã hội chủ nghĩa giống như con ngựa bị bịt mắt
Trước hàng ngàn người trong hội trường T1, dưới sự giám sát của toàn bộ hệ thống cán bộ các cấp, anh Trụ kể một dụ ngôn:
“Con ngựa phóng trên đồng cỏ, dưới chân nó là thảm cỏ xanh mịn như nhung. Nó không hề biết phía trước là một vực thẳm đang chờ sẵn, và thế là con ngựa lao thẳng xuống vực sâu vì mắt đã bị bịt. Người dân sống trong xã hội chủ nghĩa chính là những con ngựa đó.”

Cả hội trường im phăng phắc. Anh nói thẳng, không che giấu, không sợ hãi.
Chuyện mới nhất kể lại về ngày đầu anh bị biệt giam
Cuối tháng 3 năm 2008, tôi may mắn liên lạc được với một người từng ở cùng khối và thân thiết với anh Trụ – anh T.T.T., hiện sống ở Mỹ. Anh xác nhận mọi điều tôi nghe về anh Trụ đều là thật, thậm chí còn chưa phản ánh hết được con người anh.
Theo lời kể của anh T.T.T., không lâu sau khi hai người trốn trại bị bắt lại, toàn trại T1 được lệnh tập trung tại hội trường. Anh T.T.T. ngồi bên cạnh anh Trụ. Chủ tọa buổi họp là một “đoàn cán bộ cấp cao” do một tên trung tá cộng sản dẫn đầu.
Khi tên trung tá tuyên bố rằng “có một phần tử cầm đầu tổ chức phản động…”, anh Trụ lập tức đứng dậy, dõng dạc nói:
“Tôi biết người ông định nói là ai. Là tôi, đúng không? Tôi không cầm đầu ai cả. Tôi chỉ bày tỏ chính kiến. Tôi không thích chế độ cộng sản. Ông có muốn nói chuyện với tôi về chủ nghĩa cộng sản không?”
Cả hội trường hơn ngàn người im lặng. Bọn cán bộ lý luận cộng sản khựng lại hoàn toàn trước sự kiên cường và khí phách của một kẻ sĩ. Sau phút lúng túng, tên trung tá chỉ đáp rằng "sẽ nói chuyện với anh sau", rồi yêu cầu anh ngồi xuống. Anh T.T.T. kể thêm rằng trước hôm buổi họp, anh Trụ đã nhờ anh chuyển lời trăn trối cho gia đình nếu có thể.
Ngoài những điều tôi nghe và kiểm chứng, tôi còn tận mắt chứng kiến năm tháng cuối đời của anh Trụ. Tôi thấy tận mắt cái cách bọn dã thú dàn dựng một phiên tòa giả tạo và trơ trẽn, để giết hại anh. Chính anh T.T.T. là một trong những người đã chôn cất anh Nguyễn Ngọc Trụ tại khu An Dưỡng Biên Hòa cũ – không phải ở Trảng Lớn, Tây Ninh như một số người lầm tưởng.
Chuyến xe cuối định mệnh
Vào một buổi chiều giữa tháng 5 năm 1976, tôi thuộc danh sách những tù nhân Trảng Lớn bị chuyển đi đợt đầu tiên. Khoảng 4 giờ chiều, một đoàn xe tiến vào giữa sân trại T3. Tù nhân từ các trại lân cận được dẫn đến và tống lên xe, sau cùng mới đến lượt tù T3. Mỗi xe chở 40 người. Tôi lên chiếc xe cuối cùng – chiếc thứ 25.
Trong xe, không kể hai vệ binh ngồi hai bên phía sau, có tất cả 24 người tù. Hai người tên Non và Tỷ bị trói, bị cáo buộc là gián điệp CIA hạng bét, đã bị biệt giam trước đó một tháng. Khi trời sẩm tối, một chiếc xe hơi khác chạy đến, dừng sát bên xe tôi. Một người bị trói tay quặt sau lưng được lôi ra và tống lên xe tôi: Nguyễn Ngọc Trụ.
Anh bị nhét vào cùng khoang với Non và Tỷ. Lúc đi ngang qua chỗ tôi, lợi dụng bước chân anh chao đảo vì bị trói, tôi đứng lên giả vờ đỡ, rồi bóp nhẹ cánh tay anh. Anh mỉm cười, gật đầu chào. Có người thì thầm: “Xin anh đừng chết!”
Xe bắt đầu chuyển bánh khi trời tối hẳn. Lại một lần nữa, cộng sản cho chúng tôi ôn lại bài học “lắt léo lươn lẹo” – xe đi đường vòng, ngừng nghỉ liên tục. Đến khoảng 2 giờ sáng, chúng tôi bị đổ xuống Trung tâm An Dưỡng Biên Hòa. Anh Trụ bị nhốt thẳng vào một thùng sắt Connex ngay cổng trại. Non và Tỷ được cởi trói, nhập vào hàng cùng chúng tôi.
Chúng tôi – 24 người, cùng với 40 người khác – được chia về các đội lao động như Mộc, Rèn, Chăn nuôi. Tôi vào đội Mộc, nơi có nhà văn Nguyễn Hữu Nhật, tức thi sĩ Động Đình Hồ.
Trung tâm An Dưỡng gồm nhiều trại, mỗi trại khoảng 1.000 người, đánh số T1, T2, T3... Tôi không nhớ chính xác trại mình ở là số mấy, chỉ nhớ rõ thùng sắt giam anh Trụ nằm ngay sát cổng, nơi lúc nào cũng có vệ binh canh gác.
Từ cổng trại, một con đường lớn chạy thẳng, sát hàng rào bên trái. Bên phải là hai dãy nhà dài song song theo hàng rào. Cuối sân là hội trường lớn bằng tôn, nghe nói là nhà xác của Mỹ để lại – cũng chính là nơi xử án anh Nguyễn Ngọc Trụ năm tháng sau đó.

Phía cuối đường là dãy nhà 4 căn, tôi ở căn đầu tiên sát mặt đường. Đối diện bên kia đường là dãy hơn chục cầu tiêu nổi dành cho toàn trại.
Mỗi ngày, vào khoảng 8 giờ sáng, anh Trụ có chừng 15–20 phút để ra khu cầu tiêu. Đường đi từ thùng sắt connex tới đó phải băng ngang nhà có Quang và Vũ, rồi qua sân trại chiều ngang, đến gần nhà tôi thì quẹo vào dãy cầu tiêu. Trên tay anh luôn cầm theo lon "gô" đựng nước để vệ sinh cá nhân. Thường có một tên vệ binh mang súng đi kèm. Dáng anh đi trông thất thểu, nhưng khuôn mặt lại vô cùng an nhiên và đặc biệt lúc nào cũng nở nụ cười mỉm.

Vào những ngày không lao động, anh em trong trại thường đứng dọc theo hiên nhà, lặng lẽ nhìn theo bước chân anh. Có lần, anh hướng về phía Quang và Vũ đang đứng giữa đám anh em, dịu dàng nói: “Thầy không hề buồn giận em. Thầy biết, bằng mọi cách, họ sẽ giết thầy.” Anh em trong trại vẫn âm thầm tiếp tế cho anh bằng cách giấu một gói nhỏ đồ ăn trong buồng cầu tiêu cuối cùng – nơi dành riêng cho anh – dù khu vực này đã được bảo đảm là không có ai. Anh phải ăn ngay tại đó, giữa không gian tanh tưởi của phân và nước tiểu.
Chiếc Quan Tài Trong Bụi Rậm
Đợt thăm nuôi đầu tiên trong đời tù bắt đầu vào cuối tháng 10 năm 1976. Đội Mộc gồm năm người, trong đó có tôi và anh Nguyễn Hữu Nhật, được thăm nuôi vào ngày 29 tháng 10 – cũng là ngày cuối cùng của đợt này.
Buổi tối thứ Bảy cuối cùng của tháng đó, tôi cùng vài người được lệnh đi theo hai tên vệ binh đẩy xe nước đến khu thăm nuôi, cách trại khoảng 2km. Trên đường trở về, chúng tôi bắt gặp bốn tên bộ đội đang chờ sẵn. Chúng ra lệnh kéo ra từ bụi rậm một chiếc quan tài gỗ thô sơ, đặt lên xe đẩy và tiếp tục di chuyển. Khi đến gần trại, chúng bảo chúng tôi giấu chiếc quan tài vào bụi cỏ cao bên đường và cấm không được nói ra với bất cứ ai. Chúng tôi hoang mang, không ngờ rằng chính chiếc quan tài ấy sẽ dành cho anh Trụ vào ngày hôm sau.
Sáng Chủ nhật cuối tháng 10 năm 1976, không thấy anh Trụ ra khu cầu tiêu như thường lệ. Có thể họ đã cho anh đi sớm hơn. Khoảng 7 giờ sáng, các nhà trưởng trong trại được lệnh đi "giao ban". Gần một giờ sau, một nhà trưởng quay về, tập hợp anh em lại và thông báo: sẽ có một phiên tòa xử Nguyễn Ngọc Trụ. Danh sách người tham dự bao gồm các tổ trưởng, tổ phó và nhà trưởng – và họ bị cấm bàn tán.
Nhưng cấm sao được lòng người. Mỗi người đều đoán số phận anh Trụ: có người cho rằng chỉ bị cảnh cáo, người đoán án tù vài năm, kẻ khác nghĩ có thể vài chục năm. Riêng tôi, khi nhớ đến chiếc quan tài trong bụi rậm, chỉ thì thầm với một người bạn: “Tử hình.”
Ruột gan tôi nhộn nhạo, như có ai đang bóp nghẹt. Tôi cảm thấy mình như người ngoài cuộc, lạc lõng giữa một cảnh phim. Dù không có tên trong danh sách đi dự phiên tòa, tôi xin đi thay một người bị đau bụng (hình như tên là Hùng "mặt mâm"). Những tù nhân từ các trại khác cũng được dẫn đến dự. Hội trường kín người.
“Công lý là công lý. Công lý luôn luôn thắng.”
Bên ngoài hội trường là một hàng rào lính cầm súng. Bên trong, ghế ngồi xếp hai hàng trên cùng dành cho cán bộ các trại. Trên sân khấu, bàn dài trải vải đỏ, treo hình Hồ Chí Minh và lá cờ đỏ sao vàng trông dơ bẩn, lạnh lùng và chết chóc. Dòng chữ "Tòa Án Quân Sự Khu 7" hiện rõ phía trước, bao quanh sân khấu là lính võ trang đứng gác mặt mày hung dữ.

Vành móng ngựa là một nửa ống cống bằng sắt, hình bán nguyệt, đường kính khoảng 1,5m – “di sản” của quân đội Mỹ để lại. Mọi người đứng lên khi đoàn xử án tiến vào. Hai sĩ quan mang quân hàm trung tá dẫn đầu, theo sau là cả chục cán bộ.
Anh Nguyễn Ngọc Trụ được dẫn ra, cởi trói, đứng vào trong vành móng ngựa. Một cây đèn dầu được thắp lên với lời tuyên bố: “Đây là ánh sáng công lý.” Nhưng ánh sáng ấy chỉ là một vầng lửa tù mù và tàn lụi.
Bản lý lịch được đọc lên: Nguyễn Ngọc Trụ, Trung úy, Cao học Luật, giảng viên Chính trị Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Cha là ông Nguyễn Văn Thắng – Trung tá Cảnh sát, đang cải tạo ngoài Bắc. Có vợ và hai con.
Sau các nghi thức, tòa hỏi anh có muốn thay đổi thành phần hội đồng xử án không. Anh đáp: “Tôi nghĩ không cần thiết.”
Tòa hỏi: “Anh có phải là trí thức không?”
Anh đáp: “Đúng.”
Rồi bắt đầu phần buộc tội: “tay sai đế quốc,” “phản động,” “nợ máu,” “xúi giục cải tạo viên chống phá đường lối khoan hồng.” Công tố viên lôi cả gia đình anh vào để làm "tang chứng", đọc từ giấy viết sẵn, vấp váp từng chữ. Tòa không có luật sư, nhưng anh Trụ được phép phản biện.
Anh phủ nhận tất cả. Nói ngắn, gọn, sắc bén. Anh cho rằng chính những người buộc tội anh mới là những kẻ phạm tội. Anh nói anh không chống lại việc cải tạo, ngược lại, anh đã thành khẩn bày tỏ tư tưởng để "được cải tạo".
Câu nói cuối của anh vang lên giữa hội trường:
“Công lý là công lý. Công lý luôn luôn thắng. Tôi tin vào công lý và chấp nhận mọi số phận cho niềm tin đó.”
Sau chừng mười phút "nghị án", đoàn xử án quay lại, đọc bản án đã được đánh máy sẵn:
“Tử hình tội phạm Nguyễn Ngọc Trụ. Thi hành ngay sau khi phiên tòa bế mạc.”
Ngay khi hai chữ "tử hình" vang lên, một tên trong đoàn xử án thổi tắt cây đèn dầu – "ánh sáng công lý" – giờ đã chỉ còn khói đen ám nghịt. Hai tên lính xông tới trói tay anh, tên thứ ba tiến lên bịt miệng anh bằng giẻ. Anh hét lên:
“Xin đừng bịt mắt tôi!”

Rồi ngẩng cao đầu, hô lớn:
“Chào các anh em ở lại! Tôi đi!”
Không đầy một giờ, phiên tòa kết thúc. Cả hội trường lặng ngắt, không ai nói một lời. Mọi người cúi đầu bước ra, chỉ còn tiếng bước chân lặng lẽ trên nền sỏi và tiếng hô lạc lõng: “Khẩn trương lên!”
Không ai buồn ăn uống trong suốt ngày hôm đó, dù có đồ thăm nuôi chia sẻ với nhau. Người ta mới thấm thía câu nói xưa: "Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ."
Người Đào Mộ
Dù đã chứng kiến và trải qua biết bao cảnh đau thương do “đảng và cách mạng” gây ra, tôi vẫn không khỏi có lúc hoài nghi về mức độ khát máu của họ. Sau phiên tòa ấy, suốt hơn 30 năm, trong lòng tôi vẫn le lói một tia hy vọng: phải chăng bản án tử hình chỉ là một trò hù dọa, một biện pháp răn đe để kiểm soát số đông? Phải chăng anh Trụ được đưa đi nơi khác giam giữ, vì chính bọn chúng cũng biết anh không làm gì sai, chỉ “tội” nói thật lòng?
Niềm hy vọng mong manh ấy chỉ thực sự chấm dứt vào cuối tháng 3 năm 2008, khi tôi tìm gặp được anh T.T.T. – người từng ở cùng trại với tôi trong Khu An Dưỡng Biên Hòa, tuy ở nhà khác. Chính anh là người đã đào huyệt và chôn xác anh Nguyễn Ngọc Trụ vào sáng hôm sau phiên tòa kết thúc. Dưới đây là một đoạn trong bức thư anh T.T.T. viết ngày 25 tháng 3 năm 2008:
“Sáng sớm, khoảng 3 giờ, tổ của tôi – gồm toàn là các cựu sĩ quan cảnh sát lớn tuổi, chỉ có tôi là người trẻ thuộc quân đội – bị gọi đi công tác khẩn cấp. Khi ra đến cổng trại thì có một toán bộ đội khoảng mười người chờ sẵn. Tỷ lệ mười bộ đội kèm mười tù khiến chúng tôi linh cảm điều gì đó rất nghiêm trọng sắp xảy ra.
Đi được khoảng 200 thước, thì nghe tiếng lên đạn, tiếp theo là tiếng hô ‘đứng lại!’ Không khí căng thẳng tột độ. Một người bộ đội tách ra, đi vào lề đường, rồi kêu chúng tôi lại kéo ra một chiếc xe bốn bánh nhỏ (loại ‘rơ-mọt’). Trên xe có một chiếc quan tài gỗ thô.
Đi thêm chừng 500 thước nữa, chúng tôi dừng lại một lần. Trời còn tối nên không rõ đi đâu. Mãi tới sáng, khi mặt trời lên, chúng tôi mới thấy rõ địa hình xung quanh – đó là một khu chống pháo kích cũ của thiết giáp VNCH, gồm nhiều ô vuông với vách đất, có thể cho xe thiết giáp ẩn nấp.
Gần trưa, một đoàn xe jeep từ xa băng qua trảng trống, tiến thẳng đến chỗ chúng tôi. Bộ đội đi kèm lập tức lên đạn, quát bảo chúng tôi ngồi yên. Tôi nhìn thấy một người cao lớn hơn đám lính, bị trói tay, bị xô đẩy bước vào ô vuông phía sau vách đất.
Khoảng 10 phút sau, vang lên nhiều tràng súng AK, rồi hai tiếng súng ngắn. Sau đó, chúng tôi được dẫn vào trong ụ đất. Cuốc xẻng đã được chuẩn bị sẵn. Người đó – Nguyễn Ngọc Trụ – nằm dưới chân một cây cột, tay bị trói, mắt bị bịt.
Một tên trung tá cộng sản hỏi: ‘Có ai là học trò của hắn không?’ rồi lạnh lùng nói: ‘Tên này ngoan cố đến cùng.’ Không ai trong chúng tôi lên tiếng. Tên đó lại ra lệnh: ‘Các anh làm thủ tục của các anh đi.’ Chúng tôi chưa hiểu, hắn nói tiếp: ‘Quỳ lạy và cầu nguyện đi.’
Không ai trong chúng tôi nhúc nhích. Cuối cùng, hắn hét: ‘Chôn nó đi!’
Tôi là người cởi dây trói, tháo băng bịt mắt cho anh Trụ. Trên người anh chi chít vết đạn, máu không còn chảy nhiều. Da anh trắng bệch, gương mặt bình thản, không mang dấu vết đau đớn. Chúng tôi âm thầm đào huyệt và chôn anh.”
Sau khi trở về trại, anh T.T.T. mới biết được chuyện xảy ra tại phiên tòa. Anh cũng cho biết trước hôm xử án, anh Trụ đã gửi gắm anh lời trăn trối nếu có cơ hội gặp lại gia đình.
Hồn Thiêng Sông Núi
Có người tin rằng “Hồn Thiêng Sông Núi” là một vị thần đầy phép tắc, có thể khấn vái, cầu xin. Riêng tôi, tôi hiểu đơn giản hơn: Hồn Thiêng Sông Núi chính là di sản tinh thần, là lịch sử dựng nước và giữ nước bằng xương máu của cha ông – thứ tài sản linh thiêng mà những thế hệ hôm nay phải có bổn phận gìn giữ, để truyền lại cho con cháu mai sau.

Trong ý nghĩa ấy, Tâm và Huyết của Nguyễn Ngọc Trụ đã trở thành một phần bất khả phân ly của Hồn Thiêng Sông Núi. Anh là hiện thân của khí phách bất khuất, của đạo lý làm người, và là minh chứng sống động cho tinh thần của người trí thức miền Nam – dám sống, dám nói, dám chết cho điều mình tin là đúng.
Nhà ái quốc Phan Bội Châu từng nói:
“Hồn thành thánh, phách hóa thần.”
Với tôi, anh Nguyễn Ngọc Trụ – người giáo sư trẻ tuổi, người sĩ quan tận tụy, người tù kiên cường – đã thành thánh trong lòng người sống, và hóa thần trong dòng máu của dân tộc.
Trích hồi ký Tù cựu XM520. Ghi chép và tổng hợp bởi Hoàng Thái Sơn. Sửa bởi Gibbs VietBF.