Niềm tự hào tràn vào tim, nỗi buồn len lén ùa về
Vài hôm nay, đọc báo chính thống, xem truyền hình rồi lang thang trên mạng xã hội, trong lòng tôi dâng lên một niềm tự hào rất thật, nhưng song song với đó là một nỗi buồn mênh mang, lặng lẽ len vào làm tim mình chùng xuống. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang nói rất nhiều về hòa hợp, hòa giải dân tộc, hàn gắn vết thương chiến tranh sau ngày 30-4-1975; trong bối cảnh chúng ta kêu gọi hơn 6 triệu người Việt đang sống ở hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ cùng hướng về Tổ quốc, tham mưu, hiến kế, góp chất xám và cả “chất xanh” để đất nước vươn mình dựa trên “bộ tứ” Nghị quyết chiến lược cho kỷ nguyên mới – thì có những câu chữ, những lời bình trên mạng khiến người ta không thể im lặng được nữa.
Một cậu bé 4 tuổi và chức vụ cao nhất của người Việt hải ngoại
Sự kiện đầu tháng 11-2025, phái đoàn Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ vào thăm và làm việc với Bộ Quốc phòng Việt Nam, gặp Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là một dấu mốc không thể xem nhẹ. Trong phái đoàn ấy, có một người Việt Nam giữ vị trí lãnh đạo cấp cao: Thứ trưởng Bộ Hải quân Hoa Kỳ – ông Cao Hùng. Một chức vụ mà cho đến nay, có thể xem là cao nhất mà một người Việt ra đi định cư ở nước ngoài đang nắm giữ. Cậu bé 4 tuổi năm nào, mang một cái tên thuần Việt, rời khỏi quê hương sau 1975 cùng gia đình đi tìm chốn nương thân. Nhiều năm sau, chính cậu bé ấy đã phấn đấu trở thành sĩ quan cao cấp, rồi bước lên chính trường, giữ một chức vụ trọng yếu trong một bộ siêu quan trọng của nước Mỹ, không chỉ đối với Hoa Kỳ mà còn với trật tự thế giới – trong đó có Việt Nam. Trong các chiến dịch tranh cử bên Mỹ, ông gửi lời cảm ơn nước Mỹ đã cưu mang mình – điều đó hoàn toàn đúng, trúng, chuẩn. Đó là lòng biết ơn của một người tị nạn trở thành công dân, là đạo lý tối thiểu của một con người thành đạt. Thế nhưng, khi ông trở về Việt Nam với tư cách Thứ trưởng Bộ Hải quân Hoa Kỳ, thành viên số hai của phái đoàn cấp cao, báo chí chính thống lẫn báo mạng đã viết rất nhiều về ông – và mạng xã hội lại bắt đầu nổi sóng.
Khi niềm tự hào bị nhấn chìm bởi những lời chửi rủa vô cớ
Đáng lẽ, sự hiện diện của một người Việt giữ chức vụ cao trong chính quyền Hoa Kỳ, trở về thăm và làm việc với Việt Nam, phải là dịp để chúng ta nhìn thấy con đường hội nhập của dân tộc mình đã đi xa đến đâu. Đáng lẽ, đó phải là khoảnh khắc để kiều bào khắp nơi cảm thấy mình được tôn trọng, được nhìn nhận đúng với những cố gắng trong bao năm xa xứ. Thế nhưng, giữa những lời khen ngợi, tự hào, vẫn có không ít comment thô bạo, những câu chữ tục tĩu dùng để chửi bới Thứ trưởng Cao Hùng như thể ông là một kẻ thù, một kẻ “phản bội”, chỉ vì ông đang phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ. Ngày đông xe lạnh, nỗi buồn từ đó mà lạnh hơn. Một người mang dòng máu Việt, thành công nhất trong hàng ngũ quân đội Mỹ mà người Việt Nam từng đạt được, trở về Việt Nam theo đúng nghĩa một quan chức cấp cao của một quốc gia đối tác, bỗng chốc trở thành tâm điểm dè bỉu, nhục mạ vô cớ trên mạng. Cảm giác ấy, với bất kỳ ai còn quan tâm đến hai chữ “hòa hợp”, thật sự là đau.
Những đứa trẻ ra đi và cái nhìn hẹp hòi khi họ trở về
Tôi chợt nhớ đến một cậu bé khác, mẹ là người Việt, cha là người Đức, ra đi khi mới chừng hai tuổi, không trong một “khuôn khổ Nhà nước cho phép” nào cả. Nhiều năm sau, cậu trở thành Phó Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức. Khi ông về thăm Việt Nam, báo chí lẫn dư luận cũng đầy rẫy lời bàn ra tán vào, soi mói từng câu nói, từng cử chỉ, thậm chí nghi ngờ động cơ, chỉ vì ông là “người Việt ra đi không chính thức”. Và còn biết bao nhiêu người Việt khác ra đi bằng nhiều con đường: vượt biên, bảo lãnh, chương trình nhân đạo… Họ trở về xây dựng quê hương, giúp đỡ chính mình và gia đình, góp vốn làm ăn, làm từ thiện, kết nối đối tác; nhiều người chỉ đơn giản là muốn cho con cháu nhìn thấy nơi ông bà đã sinh ra. Nhưng nếu không cẩn thận, họ cũng có thể trở thành đích nhắm của những lời công kích “không thiện lành” từ những tài khoản giấu mặt trên mạng xã hội – những người ra sức ngăn cản hòa hợp, hòa giải dân tộc bằng chính sự cay nghiệt và hẹp hòi của mình.
6 triệu kiều bào – không chỉ là con số kiều hối
Việt Nam hôm nay đã trở thành một trong 30 nền kinh tế lớn của thế giới, có tên tuổi trên trường quốc tế, có tiếng nói và trách nhiệm trong các cơ chế đa phương, trong đó có Hội đồng Liên Hợp Quốc. Chúng ta ký kết hàng loạt hiệp định hợp tác song phương, đa phương, những khuôn khổ “đối tác chiến lược toàn diện” ngày càng dày thêm. Thẳng thắn mà nói, trong bức tranh ấy, có một phần đóng góp không nhỏ của bà con kiều bào. Thành công về kinh tế hôm nay có cả dòng tiền kiều hối chảy về đất nước mỗi năm hơn chục tỷ USD, có cả những dự án đầu tư trực tiếp gần 4 tỷ USD từ người Việt xa xứ. Đằng sau những con số ấy là mồ hôi, nước mắt, là những ca làm đêm, là những năm tháng bươn chải trên đất khách quê người. Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và Mặt trận Tổ quốc nhiều lần khẳng định: “Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.” Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã nói rõ: 106 triệu người Việt Nam trong và ngoài nước chính là nguồn tài nguyên quan trọng nhất cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình. Nếu đã xác định con người là “tài nguyên quý nhất”, thì mọi lời nói, mọi chính sách, mọi cách ứng xử với kiều bào đều phải được đo bằng thước đo ấy.
Khi rào cản không còn là biên giới, mà là những cái đầu hẹp hòi
Chúng ta nói nhiều về hội nhập sâu rộng, về hòa giải dân tộc, về việc khép lại quá khứ để hướng đến tương lai. Nhưng mọi kế hoạch, mọi Nghị quyết, mọi chiến lược phát triển đều có thể bị kéo chậm lại bởi những rào cản vô hình: những suy nghĩ thiển cận, duy ý chí, những cái nhìn vẫn muốn chia người Việt thành “bên ta – bên địch”, “ở lại – bỏ đi”, “trong nước – ngoài nước”. Những comment thô bạo nhắm vào Thứ trưởng Cao Hùng, vào bất cứ người Việt thành đạt nào trở về, chính là biểu hiện của thứ rào cản ấy. Nó không chỉ xúc phạm một cá nhân, mà còn làm tổn thương tâm lý của hàng triệu người Việt đang do dự giữa việc “về hay không về”, “gắn bó hay quay lưng”. Nếu họ chọn im lặng, chọn đứng ngoài, chọn không đầu tư, không kết nối, không hiến kế – thì người chịu thiệt đầu tiên không ai khác chính là đất nước này.
Không thể để những cái miệng ẩn danh kéo lùi tương lai
Việt Nam muốn vươn mình, muốn đi nhanh và đi xa, thì phải mở cửa trái tim mình với chính đồng bào Việt Nam trên khắp thế giới. Hòa hợp, hòa giải dân tộc không thể chỉ là khẩu hiệu trong báo cáo, mà phải được cụ thể hóa trong ứng xử, trong ngôn từ, trong cách chúng ta đón nhận mỗi người con trở về – dù họ mang hộ chiếu gì, nói giọng gì, ra đi bằng con đường nào. Dĩ nhiên, mạng xã hội là nơi khó kiểm soát, không thể bịt miệng tất cả những lời xúc phạm vô lối. Nhưng Đảng, Nhà nước và các cơ quan hữu quan hoàn toàn có thể – và cần phải – có những quy định minh bạch, rõ ràng, những biện pháp đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi cố tình kích động hận thù, chống phá hòa hợp dân tộc, cản trở con đường phát triển chung. “Không thể không nói” – không phải để đổ thêm dầu vào lửa tranh cãi, mà để nhắc nhau rằng: mỗi lời ta viết ra về một người Việt khác, nhất là về những người đang cố gắng kết nối hai bờ, đều là một viên gạch. Nó có thể xây lên một nhịp cầu, hoặc đập nát một cây cầu vừa chớm hình thành. Chúng ta chọn loại viên gạch nào, chọn xây hay chọn phá, sẽ quyết định không chỉ số phận của một Thứ trưởng Cao Hùng, của một chính khách mang dòng máu Việt ở Đức, mà còn quyết định cả dáng đứng của dân tộc mình trong kỷ nguyên hội nhập.
Nguồn bài trong nước (sửa và viết bởi Gibbs VIETBF)