Ngày nay đất nước hòa bình, yên hàn mà bộ máy công cụ công an phình ra khổng lồ! Tướng công an lên tới hàng trăm, nhiều như vịt đàn thả đồng! Giám đốc công an một tỉnh heo hút, nghèo xơ xác cũng là một ông tướng!... Đó là sự phát triển của nỗi đe dọa, căng thẳng, của cuộc sống không bình yên, sự phát triển của nhà nước “mang bục công an đặt giữa tim người”! ...
Vì sao người dân bị bắt vào trụ sở công an lại chết nhanh, chết nhiều như vậy? Xin hãy xem ứng xử của công an với người dân để thấy rằng: Được coi là thần bảo hộ của đảng, là công cụ bảo vệ đảng, bảo đảm sự tồn tại áp đặt của đảng, được đảng o bế, dung túng, lực lượng công an đã trở thành kiêu binh hung hãn, côn đồ như thế nào, đã coi thường nhân phẩm, mạng sống của người dân như thế nào!...
*
Lịch sử Việt Nam đã từng ghi nhận, cuối thế kỉ XVIII, thời Lê mạt, triều chính thối nát. Trịnh Kiểm với danh nghĩa cứu nước phò vua, bảo vệ ngôi báu nhà Lê, đã tạo nên thế lực chính trị độc quyền họ Trịnh, trở thành Chúa Trịnh bên cạnh Vua Lê! Là bộ tham mưu của Vua Lê nhưng quyền lực Chúa Trịnh lấn át Vua Lê, trùm lên Vua Lê! Quyền bính trong triều, Chúa Trịnh nắm cả, Vua Lê chỉ là bù nhìn. Một triều đình, hai bộ máy! Bên cạnh cung Vua thâm nghiêm nhưng im lìm vắng lặng là phủ Chúa nguy nga, lớp lớp lính canh, rầm rập quan quân lui tới! Bộ máy thực quyền Chúa Trịnh giật dây, chỉ huy bộ máy hình thức của Vua Lê! Mọi việc Vua Lê phải hỏi Chúa Trịnh! Vua muốn đề bạt ai, Chúa quyết, Vua mới được ban sắc phong! Hai bộ máy cồng kềnh, xa hoa và sa đọa cưỡi trên lưng, đè trên đầu dân đen nghèo đói! Coi thường Vua, quan lại ở phủ Chúa lộng hành, không coi kỉ cương phép nước của Vua ra gì, mặc sức cướp bóc, bóp nặn dân và sống xa xỉ, hoang tàn vô độ! Dân đói khổ, bất bình! Giặc giã nổi lên khắp nơi!
Để trấn áp sự chống đối của dân ở kinh đô, bảo vệ phủ Chúa, duy trì thể chế ngang trái Vua Lê – Chúa Trịnh mà thực chất là thể chế độc tài Chúa trị, Chúa Trịnh lấy tiền thuế của dân nuôi dưỡng đội quân cấm vệ đông đúc. Là công cụ trấn áp dân, bảo vệ nghiệp Chúa, quân cấm vệ được ban nhiều bổng lộc, được phong cấp binh cao chót vót cho hàng loạt kẻ thân tín, được nuông chiều trở thành đám kiêu binh, mặc sức cướp của, giết người, hãm hiếp đàn bà con gái! Đám kiêu binh coi dân đen như cỏ rác, coi mạng sống của người dân chỉ như mạng ruồi, mạng muỗi!
Ba thế kỉ đã trôi qua! Ba thế kỉ liên tiếp những cuộc cách mạng xã hội và dồn dập, ào ạt những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, đưa xã hội loài người bước những bước dài đến văn minh. Ngày nay loài người đã bước vào nền văn minh tin học, rôbốt làm thay con người trong nhiều việc chân tay và internet thay con người trong nhiều việc quản lí. Với nền văn minh tin học, ở các nước dân chủ văn minh, bộ máy nhà nước đều rất gọn nhẹ, thực sự là bộ máy phục vụ dân, gần dân, thân thiện với dân. Tưởng rằng thể chế đã tạo ra hai thảm họa cho người dân: một nhà nước, hai bộ máy quản lí khổng lồ đè lên nhau rồi cùng đè xuống đầu dân đen và đám hung thần kiêu binh coi mạng người dân như cỏ rác đã vĩnh viễn chôn vùi trong quá vãng cùng chế độ phong kiến thối nát! Nhưng không ngờ những người thực thi chủ nghĩa cộng sản thủ tiêu nhà nước của ông Mác ông Lê nin lại khôi phục đầy đủ hai thảm họa của thời ngang trái, rối ren, đau khổ và nhục nhã của lịch sử Việt Nam, thời Vua Lê Chúa Trịnh! Cũng một nhà nước hai bộ máy công quyền quan liêu khổng lồ ngự trị trên đầu dân đen! Cũng nảy nòi thứ hung thần kiêu binh thản nhiên giết dân lành vô tội như giết kiến và nhơn nhơn vô can đứng trên pháp luật!
Thời Vua Lê Chúa Trịnh, thời độc tài Chúa trị, một nhà nước hai bộ máy chỉ có ở trung ương, lầu Chúa bên cạnh cung Vua chỉ có ở kinh đô! Đám hung thần kiêu binh chỉ có ở kinh kì! Thời đảng trị ngày nay, hai bộ máy lạnh lùng, quan liêu, nặng nề thiết lập đến tận phường xã, thôn ấp, tổ dân phố. Bên cạnh trụ sở Ủy ban Nhân dân bề thế là trụ sở đảng ủy nghênh ngang, ngạo nghễ! Và khủng khiếp hơn là những hung thần kiêu binh đông đúc cũng nghênh ngang ngạo nghễ ở mọi hang cùng ngõ hẻm!
Thật mỉa mai khi dân chúng đang xôn xao ngơ ngác, đang băn khoăn lo lắng trước tin hội trường Ba Đình, nơi diễn ra hội nghị Diên Hồng thời kháng chiến chống Mĩ sẽ bị đập phá để xây nhà Quốc hội, khi Quốc hội vừa đưa ra bàn có nên phá một di tích linh thiêng như hội trường Ba Đình thì có ý kiến lạnh lùng phán: Việc phá bỏ hội trường Ba Đình, Bộ Chính trị của đảng đã quyết rồi! Thế là Quốc hội khỏi bàn, chỉ còn bỏ phiếu cho đủ thủ tục lựa chọn phá hay không phá! Bỏ phiếu thủ tục vì việc lựa chọn, đảng cũng đã chọn cho rồi, các đại biểu Quốc hội cũng chẳng cần đắn đo lựa chọn! Gần trăm phần trăm đại biểu Quốc hội là đảng viên phải chấp hành nghị quyết của đảng nên gần trăm phần trăm phiếu tán thành phá bỏ một công trình kiến trúc rất tiêu biểu, rất đặc trưng của một thời lịch sử, phá bỏ một chứng tích hiên ngang của một thời lịch sử hào hùng! Bến Bình Than, nơi có mái nhà tranh dân dã để các bô lão cả nước họp hội nghị Diên Hồng hạ quyết tâm kháng chiến dẫn đến thắng lợi trong ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Mái nhà tranh Diên Hồng đã bị thời gian hủy hoại, nay chỉ còn cái tên Diên Hồng! Hội trường Ba Đình xây bằng vật liệu và qui trình công nghệ hiện đại, xi măng mác cao, bê tông cốt thép có thể thách đố sự tàn phá của thời gian hàng trăm năm nhưng đã bị nghị quyết của Bộ Chính trị với hơn chục người phá trong thoáng chốc! Hội trường Ba Đình lịch sử nay cũng chỉ còn cái tên Ba Đình! Lòng dân trống rỗng và lịch sử hoang vắng!
Đến vụ cho người nước ngoài vào Đắc Nông đào bới bô xít mới càng cám cảnh cho thân phận nhà nước đảng trị! Đất nước đang hối hả công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà điện thiếu, công nghệ hiện đại càng thiếu! Đất nước cần điện, cần kĩ thuật công nghệ hiện đại chứ không cần nhôm! Có trữ lượng lớn quặng bô xít đấy nhưng chế biến từ bô xít ra nhôm tốn quá nhiều điện, giá nhôm ở thị trường thế giới lại rẻ, có nhôm xuất cũng chẳng mang lại lời lãi cho nền kinh tế! Từ lúc các nước xã hội chủ nghĩa còn là một hệ thống rộng lớn, hùng hậu trên thế giới, Việt Nam là thành viên của khối Tương trợ Kinh tế Xã hội Chủ nghĩa COMECOM. COMECOM đang cần nhôm và các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế COMECOM đã đến tận mảnh đất bô xit Đắc Nông, Lâm Đồng, Việt Nam giải bài toán kinh tế khai thác bô xít đã đi đến đáp án: Hiệu quả kinh tế là con số âm! Bốn kì đại hội đảng qua đi, gần hai mươi năm sau, ông Tổng bí thư vừa được bầu không biết đến bài toán kinh tế khai thác bô xít đó, lại bị đảng của nước lớn lừa mị nên ông đã hồn nhiên, ngây thơ liên tiếp kí với nước lớn, hết tuyên bố chung: Nhất trí thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trong dự án bô xít nhôm Đắc Nông! Lại thông báo chung: Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô xít Đắc Nông! Thế là người nước lớn ồ ạt kéo đến Đắc Nông. Người dân Việt Nam ở Tân Rai, Đắc Nông phải tức tưởi rời khỏi nhà cửa, đất đai, mồ mả tổ tiên để người nước lớn san bằng nhà cửa, san bằng những ngôi nhà mồ linh thiêng, san bằng những cánh rừng đại ngàn thâm nghiêm, san bằng những vườn cao su, cà phê đang thu hoạch, rồi giăng hàng rào, cắm biển ghi chữ nước lớn: Cấm người Việt Nam! Đau quá! Nhục quá! Nguy quá!
Dư luận sửng sốt, lo lắng thì ông Thủ tướng Chính phủ đồng thời là nhân vật lãnh đạo chủ chốt hàng thứ hai trong đảng liền lớn tiếng mang đảng ra trấn áp dư luận: Khai thác bô xít Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng! Đến lúc đó việc cho nước ngoài vào khai thác bô xít ở Tây Nguyên mới được đưa ra Quốc hội bàn chiếu lệ vì Quốc hội vừa bàn, ông Chủ tịch Quốc hội lại là nhân vật lãnh đạo chủ chốt hàng thứ ba trong đảng liền dẹp mọi ý kiến bằng câu nói xưng xưng áp đặt: Dự án khai thác bô xít Tây Nguyên đã được sự đồng thuận của xã hội! Thế là khỏi bàn! Thế là dự án khai thác bô xít của đất nước ta đang được người nước ngoài hối hả thực hiện, đang là gánh nặng của nền kinh tế đất nước, đang là hiểm họa hủy diệt tận gốc rễ nền văn hóa dân tộc Tây Nguyên, đang là tai họa tàn phá môi trường xanh của Tây Nguyên, đầu độc nguồn nước sinh sống của cả Trung và Nam Bộ, đang là mối nguy hiển hiện trước mắt: địa thế chiến lược Tây Nguyên đã trở thành lãnh địa của nước lớn, là thế đứng, là nơi tập kết lực lượng để họ thực hiện tham vọng bành trướng thôn tính Việt Nam!
Chỉ nêu hai việc cũng đủ nhận ra trang sử buồn một nhà nước gồng mình gánh hai bộ máy công quyền nặng nề mang đầy đủ bản chất phong kiến thời Vua Lê – Chúa Trịnh đang sống lại ở xã hội nước ta giữa thời văn minh tin học hôm nay! Bộ máy công quyền phong kiến nào cũng mang căn bệnh mãn tính di truyền là quan liêu, lạm quyền, xa dân! Một bộ máy quan liêu, lạm quyền, dân đã điêu linh, khốn khổ! Hai bộ máy quan liêu, lạm quyền, cồng kềnh chồng lên nhau càng xa dân, càng đè nặng xuống đầu dân! Đồng tiền thuế của dân càng bị chia nhỏ, phần còn lại chăm lo phúc lợi cho dân càng còm cõi, hẩm hiu! Vì thế mà tình cảnh trong các bệnh viện ba, bốn người bệnh chen chúc, rên rỉ trên một chiếc giường đơn cứ kéo dài suốt mấy chục năm nay! Vì thế mà học trò đi học từ lớp một đã phải nộp đủ các khoản tiền đóng góp! Vì thế mà lương giáo viên quá thấp và giáo viên phải mang lương tâm, mang phẩm giá người thầy ra bán cho chính học trò của mình! Học trò muốn học tốt phải đến lớp học thêm của thầy! Học trò từ lớp một đã phải tối mắt tối mũi cắm đầu học thêm! Tuổi thơ, tuổi thần tiên của lớp lớp con trẻ bị những lớp học thêm cướp mất! Dã man quá! Vô nhân đạo quá! Người thầy như thế, làm sao đạo đức nhà trường không băng hoại! Nhà trường giáo dục, hình thành lên nhân cách con người! Đạo đức nhà trường băng hoại, tất đạo đức xã hội cũng băng hoại!
Độc đoán đảng trị, đến Quốc hội, Chính phủ, đảng cũng chỉ coi là cơ quan thừa hành, là tay chân, là công cụ của đảng thì nhân dân, đám đông quần chúng nào có nghĩa lí gì! Học thuyết Mác – Lê nin và chủ nghĩa xã hội của học thuyết đó, đã được thực tế chứng minh là sai lầm, là thảm họa của loài người, đã bị lịch sử lên án và vất bỏ! Nhiều trí thức Việt Nam đã dũng cảm, thẳng thắn lên tiếng chỉ ra những sai trái, tệ hại của mớ lí thuyết ảo tưởng Mác – Lê, của chủ nghĩa xã hội tồn tại bằng chuyên chính vô sản mất tính người! Nhưng những người nắm quyền lực trong đảng vì đặc quyền đặc lợi ích kỉ của họ, họ vẫn “kiên trì” học thuyết Mác – Lê ảo tưởng, vẫn “kiên trì” trong ngõ cụt chủ nghĩa xã hội, họ đã đưa đảng vào thế hoàn toàn đối lập với nhân dân, hoàn toàn đối lập với dân tộc!
Trong thế đối lập đó, để duy trì đảng thực chất chỉ để duy trì đặc quyền, đặc lợi ích kỉ của nhóm người nắm quyền trong đảng, lại như thời Vua Lê – Chúa Trịnh, họ lại lấy tiền thuế của dân nuôi dưỡng, biệt đãi, vỗ về, nuông chiều bộ máy công cụ công an khổng lồ để trấn áp nhân dân, để thẳng tay bóp chết những tiếng nói dũng cảm, trung thực, thẳng thắn bộc lộ chính kiến khác biệt!
Thời chiến tranh thù trong, giặc ngoài vô cùng nguy nan! Ở miền Nam có mặt hơn nửa triệu quân nước ngoài! Ở miền Bắc, gián điệp, biệt kích len lỏi hoạt động khắp nơi, cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, dai dẳng diễn ra trên mọi lĩnh vực nhưng lực lượng công an rất ít ỏi, hoạt động lặng lẽ, được nhân dân ủng hộ nên đầy hiệu quả! Sắc áo công an thưa vắng hòa trong dân, không nhan nhản, xấc xược, hung hãn, là nỗi ám ảnh nặng nề, nỗi đe dọa bất an đối với người dân như hôm nay! Giám đốc công an tỉnh, thành phố chỉ là trung tá, thượng tá! Giám đốc công an Hà Nội đông dân và phức tạp nhất nước cũng chỉ đại tá! Toàn bộ lực lượng công an chỉ có hai thiếu tướng là thiếu tướng Tùng, cục trưởng cục cảnh sát và thiếu tướng Phạm Kiệt, tư lệnh công an nhân dân vũ trang và chưa đến mười người không mang hàm tướng mà hưởng lương tướng! Ngày ấy, lực lượng công an vũ trang có vị tư lệnh là thiếu tướng Phạm Kiệt nhiều công lao và đức độ, đã từng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, lính của ông, những chiến sĩ công an vũ trang lặn lội nơi biên giới biển đảo có câu nói vui về quân, tướng của họ là: quân nghèo, tướng kiệt!
Ngày nay đất nước hòa bình, yên hàn mà bộ máy công cụ công an phình ra khổng lồ! Tướng công an lên tới hàng trăm, nhiều như vịt đàn thả đồng! Giám đốc công an một tỉnh heo hút, nghèo xơ xác cũng là một ông tướng! Tướng tá công an nhiều là thể hiện sự phát triển của đất nước ư? Đất nước phát triển phải thể hiện ở kinh tế, ở văn hóa, thể hiện ở cuộc sống dân chủ, văn minh. Tướng tá công an nhiều chỉ thể hiện sự phát triển từ nhà nước dân sự thời chiến tranh sang nhà nước cảnh sát thời hòa bình! Đó là sự phát triển của nỗi đe dọa, căng thẳng, của cuộc sống không bình yên, sự phát triển của nhà nước “mang bục công an đặt giữa tim người”!
Ngân sách nghèo của đất nước đã phải nuôi bộ máy đảng cồng kềnh, nhiều đặc lợi, nhiều chế độ đãi ngộ cao! Ủy viên trung ương đảng phải đi ô tô có giá trị hơn một tỉ đồng! Số tiền mua ô tô cho Ủy viên Bộ Chính trị còn bộn hơn nữa! Nay đảng lại biến lực lượng giữ gìn an ninh cuộc sống thành đội cận vệ con cưng của đảng với đội quân đông đúc, cấp hàm lớn, lương cao, với trang thiết bị tối tân đắt đỏ! Bộ máy của đảng thiết lập tới tận thôn xóm nên lực lượng công an cận vệ của đảng cũng giăng tới tận thôn xóm, giám sát từng gia đình, từng người dân! Lực lượng công an cận vệ của đảng đông đến nỗi chỉ một tiếng nói khác biệt với đảng, một tiếng nói đòi dân chủ cất lên lập tức có ngay một tốp công an kéo đến lập chốt gác đằng trước, đằng sau nhà! Quanh nhà người có chính kiến khác biệt đó, lúc nào cũng có ba, bốn công an gác chặn suốt ngày đêm trong thời gian dài! Một phụ nữ mảnh mai như luật sư Lê Thị Công Nhân cũng chỉ vì có chính kiến khác biệt mà bị tù tội, bị quản thúc, chị vừa đến nhà hàng liền bị hàng chục công an xô đẩy làm cho ngã lăn trên cầu thang xuống đất rồi bị khiêng ném lên thùng xe chở về trụ sở công an như chở heo! Đồng tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân được dùng để nuôi những người kìm kẹp dân như vậy đó! Ngân sách nghèo của đất nước lại phải cắt xén thêm phần phúc lợi xã hội còm cõi để có tiền nuôi đội cận vệ khổng lồ con cưng của đảng, những kiêu binh kinh hoàng với dân!
Một lực lượng vũ trang được trang bị công cụ bắt bớ, tra khảo, giết người: Còng sắt, dùi cui, roi điện, súng ngắn, súng dài, được ưu ái, nuông chiều, được ban phát ân sủng, được dung túng bao che cho những việc làm chà đạp lên pháp luật lại với nhận thức méo mó, sai lạc: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình! đã thực sự trở thành thứ kiêu binh có mặt ở khắp thôn cùng ngõ hẻm, giáng tai ương xuống dân lành, mang chết chóc đến cho bao người dân lương thiện! Những kiêu binh đó ra uy bắt bớ, tra tấn, giết hại dân lành đã trở thành chuyện thường ngày.

Ngày 14.7.2009, chỉ vì đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, anh Phạm Ngọc Đến, 29 tuổi bị cảnh sát giao thông Gia Lai truy đuổi dẫn đến cái chết thảm thương. Hàng ngàn người dân Gia Lai kéo đến công an biểu lộ thái độ bất bình trước hành xử thiếu tính người của công an. Không phục thiện, vẫn hung hãn kiêu binh, công an Gia Lai đã bắt 75 người dân tống giam! Hôm sau, trong số người bị bắt, anh thanh niên trẻ khỏe Trần Minh Sỹ, 23 tuổi, chết âm thầm trong nhà giam công an Gia Lai!
Ngày 21.11.2009, anh Nguyễn Mạnh Hùng, 33 tuổi, chết trong trại tạm giam công an quận Hà Đông, Hà Nội!
Ngày 28.11.2009, anh Đặng Trung Trịnh, 32 tuổi, chết ở trụ sở công an xã Tiên Động, huyện Tứ Kì, Hải Dương!
Ngày 22.12.2009, ông Nguyễn Văn Long, 41 tuổi, chiều bị công an xã Bom Bo, huyện Bù Đăng, Bình Phước bắt. Tối vợ đến thăm thấy ông Long sưng u, bầm dập khắp người và nghe ông Long rên rỉ: Bị đánh dữ! Đau lắm! Chắc không sống nổi! Quả nhiên, sáng hôm sau công an đến báo cho vợ ông Long biết: Ông Long đã chết!
Ngày 21.1.2010, anh Nguyễn Quốc Bảo, 33 tuổi, chết tại trại tạm giam của công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội!
Ngày 24.4.2010, anh Huỳnh Tấn Nam, 21 tuổi, đi xe máy không đội mũ bảo hiểm bị một cảnh sát giao thông và một công an xã Diên Phú, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa đánh chấn thương nặng đốt sống cổ, lún xương thái dương phải, vỡ xương bướm và xương cung gò má phải, dập tủy, đứt dây chằng dọc trước, gãy bốn răng, tính mạng nguy kịch!
Ngày 7.5.2010, anh Võ Văn Khánh, 29 tuổi, chết khi bị giam ở công an Điện Bàn, Quảng Nam!
Ngày 25.5.2010, dân xã Tĩnh Hải, Tĩnh Gia, Thanh Hóa tập trung ngăn cản không cho chính quyền thu hồi đất một cách cưỡng bức, áp đặt, công an liền nổ súng bắn gục hai người dân, em Lê Xuân Dũng, 12 tuổi chết tại chỗ, ông Lê Hữu Nam, 43 tuổi, bị thương nặng, năm ngày sau chết!
Ngày 7.6.2010, ông Nguyễn Phú Trung, 41 tuổi bị hai công an xã Thủy Xuân Tiên, Chương Mỹ, Hà Nội đánh chết!
Ngày 30.6.2010, ông Vũ Văn Hiền, 40 tuổi, chết khi bị tạm giam ở công an Đại Từ, Thái Nguyên!
Ngày 3.7.2010, ông Nguyễn Thành Nam, 43 tuổi, bị công an và dân phòng đánh chết trong đám tang ở Cồn Dầu, Đà Nẵng!
Ngày 23.7.2010, anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, bị bắt vào công an huyện Tân Yên, Bắc Giang, chỉ mấy giờ sau, chết gục trong nhà công an!
Ngày 6.8.2010, chị Hoàng Thị Trà, 20 tuổi, sinh viên, bị cảnh sát mặc thường phục bắn, viên đạn xuyên đùi, phá vỡ xương chậu!
Ngày 8.8.2010, anh Trần Duy Hải, 32 tuổi, chết khi bị giam ở công an Hậu Giang!
Ngày 9.9.2010, ông Trần Ngọc Đường, 52 tuổi, chết khi bị công an tạm giữ tại trụ sở Ủy ban Nhân dân xã Thanh Bình, Trảng Bom, Đồng Nai!
Ngày 28.2.2011, ông Trịnh Xuân Tùng đi xe máy không đội mũ bảo hiểm đến ga Giáp Bát, Hà Nội, bị công an bắt dẫn về trụ sở công an phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai. Đến tối ông Tùng bị bầm dập khắp người, tê liệt toàn thân. Bệnh viện Việt Đức phải mổ cấp cứu xác định ông Tùng bị giập hai đốt sống cổ và chấn thương khắp người! Tám ngày sau ông Tùng chết!
...
Những người dân lương thiện chết tức tưởi trong trụ sở công an cứ kéo dài theo năm tháng!
Vì sao người dân bị bắt vào trụ sở công an lại chết nhanh, chết nhiều như vậy? Xin hãy xem ứng xử của công an với người dân để thấy rằng: Được coi là thần bảo hộ của đảng, là công cụ bảo vệ đảng, bảo đảm sự tồn tại áp đặt của đảng, được đảng o bế, dung túng, lực lượng công an đã trở thành kiêu binh hung hãn, côn đồ như thế nào, đã coi thường nhân phẩm, mạng sống của người dân như thế nào!