MỘT CÂU CHUYỆN Ư NGHĨA
Ông Winston Churchill –
Cựu Thủ tướng Anh từng nói rằng “chúng ta sinh sống bằng những ǵ chúng ta kiếm được, nhưng chúng ta tạo lập đời ḿnh bằng chính những ǵ mà chúng ta cho đi”.
Thế giới này là một nơi tuyệt vời. Bạn cho đi thứ ǵ th́ sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại!
Câu chuyện ư nghĩa dưới đây sẽ giúp mỗi chúng ta nh́n thấy được “nhân” và “quả” của cuộc đời ḿnh, nó cũng sẽ là bài học để mỗi khi bạn đứng trước một hoàn cảnh cần phải gieo hạt tốt, bạn sẽ không ngần ngại hành động.
THOÁT CHẾT V̀ HÀNH ĐỘNG THEO NHÂN – QUẢ
Câu chuyện kể về vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Thế chiến thứ 2, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944 – 45 từ mặt trận phía Tây.
Vào thời đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng vội vă lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp.
Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy th́ ông bất ngờ để ư nh́n thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy v́ cái lạnh giá buốt.
Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này.
Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công vụ tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên v́ sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới th́ sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.
Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường.
Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ tŕnh, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.
Không ngờ chính sự chuyển hướng bất ngờ ngoài kế hoạch này đă cứu mạng ông! Quân Quốc Xă có tin t́nh báo nên biết chính xác hành tŕnh của ông và đă bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp ŕnh tại các ngă tư. Nếu ông tới th́ sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào ḷng tốt gieo đúng lúc đă giúp ông đổi lộ tŕnh và tránh thoát cuộc mưu sát.
THOÁT CHẾT
Câu chuyện thâm thúy trên đang nói với chúng ta một triết lư mà không phải ai cũng thấu hiểu, tin tưởng.
Sự cho đi hay “gieo hạt” là một quy luật vũ trụ, sự cho đi có ư nghĩa, giá trị chính là ở thời điểm và cách cho. Bạn gieo hạt đúng lúc, có thể thay đổi cả số mệnh và cuộc đời của bạn.
V́ vậy, nếu bạn đang khó khăn, bế tắc,… hăy nh́n lại hành tŕnh mà bạn đă đi qua, sự cho đi đă đúng và đủ hay chưa. Đừng đ̣i hỏi quá nhiều cho bản thân khi chúng ta chưa biết cho đi nhiều hơn.
– Thưa ông Krishnamurti, ông nói rằng tất cả những vấn đề của chúng ta đều nẩy sinh ra từ một vấn đề, đó là chúng ta sống cuộc đời do người khác chỉ cho cách sống. Chúng ta thuộc loại người bàn nh́, và trải dài từ bao nhiêu thế kỷ tới nay, chúng ta đă có đủ loại thẩm quyền. Nay đă đến lúc giới trẻ nổi dậy để phản kháng lại các loại thẩm quyền. Xin ông cho biết riêng cá nhân ông, cái ǵ đă khiến cho ông chống lại thẩm quyền?
J. Krishnamurti đáp:
– Tôi không nghĩ rằng cá nhân tôi có điều ǵ để chống lại thẩm quyền, nhưng bản thân thẩm quyền, đối với toàn thế giới, nó đă làm thui chột biết bao tâm hồn, không riêng về mặt tôn giáo mà ngay chính từ nội tâm, bởi v́ thẩm quyền về niềm tin tôn giáo gây nên ấn tượng chắc chắn đă phá tan khả năng khám phá thực tại. Người ta dựa dẫm vào thẩm quyền v́ người ta sợ phải đứng đơn độc.
Hỏi:
– Tôi hơi thấy bối rối về điều này, bởi v́ sự tích lũy biết bao trí tuệ của loài người chắc chắn rằng không phải tất cả đều là đồ bỏ.
J. Krishnamurti đáp:
– Không, nhưng cái ǵ là trí tuệ ? Sự tích lũy hiểu biết là trí tuệ chăng? Hay là trí tuệ chỉ đến khi sự đau khổ chấm dứt? Tóm lại, trí tuệ không ở trong sách, cũng không ở trong sự tích lũy hiểu biết về kinh nghiệm của người khác. Chắc chắn rằng trí tuệ phải đến từ sự tự tri, từ nội tâm của mỗi người, từ sự khám phá toàn bộ cấu trúc về tinh thần của chính họ. Khi người ta đă thâm hiểu về chính bản thân th́ đó là lúc chấm dứt đau khổ và khởi đầu của trí tuệ.
Làm sao mà một tâm hồn có thể sáng suốt khi c̣n bị kẹt vào với sợ hăi và buồn phiền. Chỉ khi nào sự sầu năo, sợ sệt chấm dứt, khi đó người ta mới có khả năng trở thành sáng suốt.
– Thay v́ nghe tôi nói Thượng Đế là ǵ, chúng ta hăy cùng nhau t́m hiểu coi các bạn có thể nhận ra được cái trạng thái đặc biệt đó, không phải là hăy để đến mai hoặc một thời gian nào đó trong tương lai, nhưng mà ngay lúc này, trong khi chúng ta đang cùng ngồi với nhau trong bầu không khí an tịnh này. Chắc chắn là điều đó quan trọng hơn nhiều. Nhưng nếu muốn t́m hiểu coi Thượng Đế là ǵ th́ phải liệng bỏ hoàn toàn niềm tin vốn có. Muốn phát hiện ra cái ǵ là chân thật th́ tâm trí không thể mang sẵn niềm tin về một cái ǵ đó đă được coi là chân lư, không thể có sẵn những lư thuyết hoặc giả thuyết về Thượng Đế. Xin các bạn hăy để ư, lắng nghe. Nếu các bạn đă có những giả thuyết, đă có những niềm tin, đă có những giáo điều, như thế th́ đầu óc các bạn đă đầy ắp những suy đoán. V́ đă đọc cuốn sách này hoặc cuốn sách kia viết về sự thế nào là thực tại hoặc Thượng Đế cho nên tâm trí các bạn rất phấn khích. Một cái đầu chứa đầy ắp kiến thức th́ luôn hoạt động, không an tịnh, chỉ làm cho tâm hồn thêm vướng mắc nặng nề và hiển nhiên là cái sự vướng mắc nặng nề ấy không thể biểu hiện một nội tâm b́nh thản. Khi tâm trí chứa đầy ắp những sự tin chắc, dù là tin rằng có Thượng Đế, hay là tin rằng không có Thượng Đế, th́ cũng là vướng vào kiến chấp, mà cái tâm đă vướng vào kiến chấp th́ không thể nhận ra được cái ǵ là chân lư.
Để phát hiện chân lư, tâm hồn con người phải được khai phóng, cởi mở, thoát khỏi những lễ lạc, những niềm tin, những giáo điều, kiến thức và kinh nghiệm sống mà họ đă trải qua. Chỉ khi đó th́ tâm trí mới nhận thức được thực tại, chân lư. Tâm hồn trong trạng thái an tịnh như thế th́ những hoạt động do ḷng ham muốn, do khát vọng từ ngoại cảnh cho tới nội tâm không c̣n nổi lên nữa. Đó không phải là đè nén ḷng ham muốn, đè nén khát vọng, v́ đè nén phải tốn sức. Ngược lại, khi tâm trí ở trong trạng thái an tịnh th́ người ta có tràn đầy sức sống, tràn đầy nghị lực. Nhưng sức sống, nghị lực không thể sung măn nếu đầu óc c̣n lăng xăng ḍm ngó chuyện thiên hạ khiến cho nội tâm lại phải bận rộn đối phó. Khi tất cả những chuyện thị phi này đă lắng xuống th́ tâm hồn sẽ ở trong trạng thái an b́nh, tĩnh lặng.
Tôi không mê hoặc các bạn, không thuyết phục, dụ dỗ các bạn rằng phải tĩnh lặng. Chính các bạn, tự bản thân, các bạn phải thấy được tầm quan trọng của việc từ bỏ, việc vứt đi tất cả những điều mê tín dị đoan, những niềm tin vô căn cứ, những kiến chấp đă tích lũy hàng bao nhiêu thế kỷ, hăy xả bỏ một cách thoải mái, không chút cố gắng, không chút ngần ngừ. Các bạn phải thấy được sự thật là bất cứ h́nh thức tích lũy nào cũng đều làm cho tâm trí bừa bộn lên, khiến cho năng lực bị tiêu hao phung phí.
Muốn cho tâm được tĩnh lặng th́ phải có một sức sống sung măn và sức sống đó phải an tịnh. Và nếu như các bạn đă thực sự có được trạng thái sống an b́nh, không lăng xăng, các bạn sẽ thấm thía được hương vị của sức sống đó, một sức sống an lạc, một sức sống mà tự nó có những hoạt động nội tâm khai phóng, không phải là cái loại hoạt động v́ bị sức ép của ngoại cảnh, của xă hội thôi thúc. Bởi v́ khi trong ḷng đă tràn ngập sức sống b́nh yên tự tại, th́ tâm trí tự nó sẽ trở thành an lạc thanh cao …
… Và cái sức sống b́nh yên tự tại đă nâng tâm hồn lên trạng thái an lạc thanh cao đó chính là ḷng thương yêu, niềm trắc ẩn, vốn không phân ly với chính bản thân sức sống này.
Vào ngày 21 tháng 10 năm 1980, J. Krishnamurti viết một bản tuyên ngôn như sau:
– “Cốt tủy những lời rao giảng của J. Krishnamurti đă được gói ghém trong lời phát biểu của ông ta vào năm 1929 khi ông tuyên bố :”Thực tại là mảnh đất không có lối vào”.Người ta không thể tới đó bằng tổ chức hội đoàn, bằng tín điều, bằng giáo lư, bằng người linh hướng hoặc bằng nghi thức lễ lạy, không từ kiến thức triết học hoặc kỹ thuật tâm lư . Người ta phải t́m nó từ sự quán chiếu mối liên hệ trong đời sống, từ sự thấu hiểu nội dung những điều nằm trong chính tâm trí của anh ta, từ sự quan sát chứ không phải là lư luận, phân tích bằng kiến thức hoặc nghiền ngẫm chia chẻ nội tâm.
Người ta đă tự xây dựng lên những h́nh ảnh như là hàng rào an toàn qua tôn giáo, chính trị, bản thân. Đó là những biểu tượng, những ư thức hệ và tín ngưỡng. Gánh nặng của những h́nh ảnh này đè trĩu lên tâm tư con người, chi phối sự suy nghĩ của họ, chi phối mối liên hệ của họ và ngay chính bản thân họ trong đời sống hằng ngày . Những h́nh ảnh này chính là nguồn gốc mọi vấn đề của chúng ta, v́ nó gây nên sự chia rẽ giữa chúng ta với nhau . Nhận thức về cuộc đời của mỗi người bị o ép bởi những khái niệm đă được thiết lập bền vững trong tâm trí họ . Nội dung tri thức của họ là những điều họ góp nhặt được trong suốt cuộc đời .
Cả loài người th́ cái nội dung này cũng đại khái giống nhau . Cá nhân chỉ là cái tên, cái h́nh thể và cái nền văn hóa hời hợt mà hắn thu lượm được từ truyền thống và môi trường sống chung quanh. Nhưng mà cái đặc điểm, cái độc đáo của con người không nằm tại cái bề mặt hời hợt, nông cạn, mà nó hoàn toàn vượt thoát ra khỏi cái mớ tri kiến mà khắp cả loài người đều cũng có đại khái giống nhau kia . Cho nên hắn ta không là một cá thể.
Tự do không phải là một phản ứng; Tự do không phải là sự chọn lựa . Đó là người ta tự dối ḿnh, tưởng rằng người ta có quyền chọn lựa, là người ta tự do . Tự do là thuần túy quan sát, không mục tiêu, không sợ hăi bị trừng phạt và không mong cầu sự ban thưởng. Tự do không có động cơ; Tự do không phải là kết thúc của một tiến tŕnh thay đổi của con người, nhưng nằm ngay tại lúc khởi sự hiện hữu . Trong sự quan sát, người ta bắt đầu t́m ra sự không có tự do . Tự do được t́m thấy khi không chọn lựa, tỉnh thức trong các hoạt động của đời sống hằng ngày . Tư tưởng là thời gian. Kinh nghiệm và kiến thức sinh ra tư tưởng, do đó, nó không thể tách rời ra khỏi thời gian và quá khứ. Thời gian là kẻ thù tâm lư của con người .
Hành động của chúng ta đặt nền tảng trên kiến thức và do đó, trên thời gian, cho nên con người luôn luôn bị lệ thuộc vào quá khứ. Tư tưởng th́ luôn luôn có giới hạn, cho nên chúng ta sống trong sự mâu thuẫn và vùng vẫy liên tục. Không có cái chuyện phát triển tâm lư. Khi nào con người trở nên tỉnh thức trước những hoạt động về tư tưởng của chính hắn, hắn sẽ thấy được sự phân chia giữa thực thể suy nghĩ và tư tưởng, thực thể quan sát và cái bị quan sát, thực thể kinh nghiệm và sự kiện được kinh nghiệm. Khi đó người ta sẽ thấy được rằng sự chia cách này chỉ là ảo giác.
Chỉ có từ sự quan sát thuần túy này người ta mới bừng tỉnh, không bị bóng tối của quá khứ và thời gian che khuất. Sự bừng tỉnh phi thời gian này là sự giác ngộ sâu sắc, triệt để, đột biến, của cái tâm. Sự hoàn toàn phủ định là căn bản của khẳng định. Khi có sự phủ định tất cả những cái mà tư tưởng đă tạo ra về mặt tâm lư, lúc đó sẽ chỉ c̣n có ḷng yêu thương, đó là từ bi và trí tuệ.”
Phần đông chúng ta thường bị ngoại cảnh chi phối, điều kiện hóa, v́ những học thuyết tôn giáo, tín ngưỡng, và bởi chính từ đáy ḷng ḿnh đ̣i hỏi để tiến tới một cái ǵ, đạt được một điều ǵ, v́ thế, rất khó cho chúng ta có cách nào mới mẻ hơn để mà nghĩ về vấn đề này mà không dính đến chuyện kỷ luật.
Trước nhất, chúng ta hăy nh́n cho rơ ràng những cái ǵ có liên quan đến chuyện rèn luyện, kỷ luật. Kỷ luật tự bản thân, nó đă làm cho đầu óc hẹp ḥi đi, đă hạn chế tư tưởng, thúc ép sự suy nghĩ chạy theo ḷng ham muốn, v́ bị ảnh hưởng và tất cả những thứ đại loại như vậy. Một cái đầu óc đă bị điều kiện hóa, đă rập khuôn, dù có được gọi là có lương tri, cũng không thể có được tự do, và như thế, không thể hội nhập được với thực tại.
Thượng đế, thực tại, hay tùy ư bạn muốn gọi là ǵ th́ gọi, từ ngữ không phải là chuyện quan trọng, chỉ có thể hiển lộ khi có tự do, và sẽ không thể có tự do khi mà chúng ta c̣n bị cưỡng bách, dù là tích cực hay tiêu cực, do sự sợ hăi.
Không thể có tự do nếu bạn c̣n muốn đạt một mục tiêu cho bạn và bạn tự cột ḿnh vào cái mục tiêu đó. Bạn có thể đă thoát khỏi quá khứ, nhưng tương lai sẽ cột bạn lại, thế là hết tự do rồi.
Chỉ có trong tự do người ta mới có thể khám phá ra mọi thứ mới mẻ, từ ư nghĩ, cảm giác, nhận thức. Bất cứ một loại g̣ bó nào đặt căn bản trên nền tảng của cưỡng bách đều chối bỏ tự do, dù là chính trị hay tôn giáo, khi mà đă bị g̣ ép, bị tuân theo một hành động có mục tiêu đặt ở đằng trước, đó là trói buộc, đầu óc hết tự do.
Khi đó, đời sống tinh thần sẽ chỉ hoạt động trên con đường ṃn như một cái máy hát mà thôi.
Kinh Nhật Tụng Sơ Thời” khi Phật c̣n tại thế – Đào Văn B́nh
Cư sĩ Nguyên Giác vừa cho xuất bản cuốn Kinh Nhật Tụng Sơ Thời mà theo sự nghiên cứu của các học giả đây là những lời dạy (kinh ) cổ xưa nhất của Đức Phật được các đệ tử ghi lại bằng thơ và học thuộc ḷng v́ lúc đó chưa có chữ viết. Theo Thư Viện Hoa Sen, căn cứ vào các nguồn sử liệu Tích Lan, th́ những lời dạy của Ngài được viết thành văn vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch để h́nh thành kinh điển Pali. Tác giả dẫn chứng kinh điển này có thực khi “Trong Kinh Sona Sutta (Kinh Ud 5.6), có nói về Kinh Nhật Tụng 16 Chương mà ngài Sona đọc, khi được Đức Phật yêu cầu đọc Phật Pháp, trích dịch:
“Đức Thế Tôn mời Thượng tọa Maha Sona, và nói, “Tỳ khưu, tôi muốn ông đọc lên Chánh Pháp. Xin vâng lời, Thượng tọa Maha Sona đọc toàn bộ 16 chương Atthaka Vagga.” Bản Anh dịch Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya Chương 005.
Mahāyaññavaggo, Kinh 5.10 Nandamātāsuttaṃ) của Ni Trưởng Sister Upalavanna cũng có một kinh ghi rằng nữ cư sĩ Velukantaki Nanda mỗi rạng sáng đều tụng đọc lớn tiếng nhóm 16 kinh trong Phẩm Qua Bờ Bên Kia.”
Sách dịch toàn bộ Phẩm Tám (Atthaka Vagga) và Phẩm Qua Bờ Kia (Parayanavagga) từ các bản dịch tiếng Anh từ Tạng Pali, với tham khảo từ bản Việt dịch của Ḥa Thượng Thích Minh Châu, cộng thêm phần chú giải riêng của tác giả. Phẩm Qua Bờ Kia nơi đây dịch từ các bản Anh dịch của quư ngài Laurence Khantipalo Mills (di cảo, do Bhikkhu Sujato hiệu đính), Bhikkhu Bodhi, Bhikkhu Anandajoti, Thanissaro Bhikkhu, V. Fausboll, John D. Ireland. Tác giả đă phải đối chiếu sáu (6) bản dịch tiếng Anh để cân nhắc từng câu, từng chữ của lời kinh.Theo tác giả, tất cả các bản tiếng Anh đều có trên mạng lưới toàn cầu, chỉ trừ hai bản trên sách in là của Bhikkhu Bodhi (The Suttanipata) và Gil Fronsdal (The Buddha before Buddhism). Chúng ta thử t́m hiểu xem trong Phẩm Tám và Phẩm Qua Bờ Kia, Đức Phật dạy những ǵ.
A- Phẩm Tám (Parayanavagga)
1) Kinh về Tham Dục
Kinh này gồm các bài kệ từ 766 tới 771.
766. Khi ước muốn tham dục đạt được, người đó sẽ hoan lạc v́ có điều ước muốn.
767. Với người tham dục đó, khi hoan lạc tan biến sẽ đau khổ như bị mũi tên xuyên trúng.
Khỏi cần bàn luận sâu xa, chúng ta thấy ngay Tham-Dục tạo đau khổ như thế nào.
2) Kinh về Thân Giam Trong Hang Động
Kinh này nói về chúng sinh bị giam trong hang động (trói buộc) của si-mê, tham-dục. Hầu hết các dịch giả đều dịch là “hang,” trong khi Gil Fronsdal dịch là “nơi ẩn núp” (hiding place).
-Người vương vào ước muốn, bị buộc vào niềm vui của hiện hữu sẽ không giải thoát nổi, v́ không ai cứu được ḿnh.
-Người nuối tiếc quá khứ, hay mong đợi tương lai, người ưa t́m hoan lạc dù đă qua hay sẽ tới, bám chặt vào tham dục, lo săn t́m niềm vui trong mê mờ và ích kỷ tằn tiện là đă rơi vào lối gian nan. Khi gặp khổ đau, mới than thở: Ḿnh sẽ là ǵ khi măn kiếp này.
Cứ theo như lời dạy th́ Tham-Dục giống như ma túy. Khi chích, hút, ngửi vào th́ đê mê. Nhưng khi giă thuốc th́ ră rời. Nhưng rồi lại tiếp tục lao vào như xác không hồn, gỡ không ra.
3) Kinh về Tà Kiến
Tác giả tóm lược ư kinh: “Tâm vắng lặng, ĺa tranh căi, không thấy tự ngă nào để khoe, ĺa mọi quan kiến/giáo thuyết dù Có hay Không…
Kinh này gồm các bài kệ từ 780 tới 787.” Chúng ta thử trích ra vài câu kệ:
– 780. Một số người tranh căi với tâm bất thiện, một số người tranh căi với tâm hướng về sự thật. Bậc hiền giả không tham dự các cuộc tranh căi khởi lên, và do vậy, dù đi bất cứ nơi nào cũng không bận tâm.
-781. Làm sao một người có thể vượt qua định kiến riêng của họ khi bị tâm tham dẫn đi, gắn chặt vào điều họ ưa thích rồi dẫn tới kết luận riêng của họ. Chỉ nên, biết ǵ th́ nói nấy.
– 783. Người trí nói một tu sĩ cao thượng là khi sống b́nh an, tâm hoàn toàn vắng lặng không khoe ǵ rằng tôi giỏi thế này thế kia đi đâu trong cơi (đời) này cũng không thấy có tự ngă.
4) Kinh về Thanh Tịnh:
“Niềm tin Ấn Độ cổ thời là, sự trong sạch có thể đạt được khi một người nh́n thấy, gặp gỡ hay thân cận một người trong sạch.
Tương tự, họ tin rằng nghi lễ tôn giáo cũng có thể giúp họ trong sạch. Nghĩa là, tin sự thanh tịnh hay sức mạnh tâm linh có thể truyền trao qua việc thân cận hay nghi lễ. Đức Phật nói rằng không hề có chuyện thanh tịnh hóa đạt được bằng thế giới ngoại xứ (thế giới bên ngoài).”
-788. [Bà la môn nói:] Nơi đây, tôi thấy một người thanh tịnh, bậc Thượng nhân, người xa ĺa tất cả bệnh. Tôi sẽ được thanh tịnh hóa nhờ những ǵ được thấy.
[Đức Phật:] Được thuyết phục như thế và rồi xem đó là cao nhất người ta rơi vào lưới kiến thức đó trong khi trầm tư về sự thanh tịnh.
-789. Nếu người ta được thanh tịnh hóa nhờ những ǵ được thấy hay nếu có ai tin sẽ thoát khổ nhờ kiến thức nghĩa là họ nghĩ sẽ được thanh tịnh hóa nhờ cái ǵ khác. Sẽ sai lầm khi nghĩ như thế, khi tin như thế.
-790 Một người phạm hạnh không nói rằng thanh tịnh sẽ có v́ dựa vào ǵ khác, hay v́ dựa vào thấy nghe chạm xúc hay v́ dựa vào giới luật hay nghi lễ tôn giáo Thiện và Ác không c̣n dính mắc ǵ nữa với người đă buông bỏ hết, không c̣n tạo tác ǵ. Lời dạy cho thấy chính chúng ta phải tạo sự thanh tịnh. Không nương tựa vào bất cứ cái ǵ dù là nghi thức cúng tế, giống như “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của Kinh Kim Cang. Khi không vướng mắc hoặc nương tựa vào đâu, dù đúng dù sai, dù phải dù trái, dù thần dù thánh….th́ sẽ đạt tới thanh tịnh.
5) Kinh về Tối Thượng
“Kinh này nói rằng những ai tự cho ḿnh đă có được tầm cao nhất của cái nh́n (một tri kiến, một quan kiến, một lập trường, một giải thích [về vũ trụ và con người…) và cho là thấp kém tất cả các quan kiến khác – người đó c̣n rơi vào tranh căi, c̣n thấy có “tôi” (ngă) và “của tôi” (ngă sở), c̣n nắm giữ những ǵ được thấy nghe hay biết.”
– 796. Nếu có ai chọn một cái nh́n [quan kiến, quan điểm] nào, cho rằng cái nh́n đó là tối thượng trên thế giới và nói rằng tất cả cái nh́n khác là thấp kém – như thế, người đó chưa thoát khỏi tranh căi.
6) Kinh về Tuổi Già
Kinh này gồm các bài kệ từ 804 tới 813.-804. Đời sống này thực sự ngắn ngủi – chưa tới 100 năm, ngươi sẽ chết và nếu sống thọ hơn, ngươi lúc đó sẽ chết v́ tuổi già.
805. Người ta sầu khổ v́ những cái “của tôi” – không tài sản nào là thường c̣n. V́ thấy những ly tan, không ǵ là “của tôi” ngươi chớ nên sống đời thế tục.
-806. Tất cả những ǵ người ta nhận là “của tôi” đều bị rời bỏ trong cái chết. Biết như thế, người trí không nên sống ích kỷ với những ǵ cho là “của tôi.”
7) Kinh dạy Tissa Metteyya “Trong kinh này, ngài Tissa Metteyya hỏi Đức Phật về nguy hiểm của t́nh dục. Đức Phật nói rằng hạnh cao quư là sống đời độc thân, tự rèn luyện trong cô tịch. Nhưng cũng chớ bao giờ tự xem ḿnh hơn người, dù đă xa ĺa ái dục, dù đă vào được bậc cao quư.”
8) Kinh Pasura: Chớ Tranh Căi
“Kinh này là lời Đức Phật nói với Pasura, một du sĩ nổi tiếng về biện luận đă tới t́m gặp Đức Phật để tranh luận về giáo thuyết. Đức Phật chỉ trích thói quen tranh căi, biện luận, kiểu tự cho giáo thuyết ḿnh là tối thắng và xem thường pháp của người khác. Thêm nữa, Đức Phật nói rằng Ngài là bậc Thuần Tịnh, không nắm giữ một quan điểm (quan kiến, lập trường, giáo thuyết) nào như là tối thượng, và do vậy không thấy có ǵ để tranh căi.”
828. Khởi lên tranh căi giữa các du sĩ sẽ gây ra cả vui thắng, buồn thua. Do vậy, chớ nên tham dự tranh căi không lợi ích ǵ trong các lời khen.
-829. Khi được khen giữa hội chúng v́ đưa ra lư thuyết lôi cuốn họ vui cười, tăng thêm kiêu mạn v́ đạt được như ước vọng.
9) Kinh về Không Giữ Quan Điểm Nào. Tóm lược ư kinh: Ĺa ái dục, bỏ tranh căi. Không nắm giữ một pháp nào. Y hệt như người lên tới đầu sào trăm trượng và bước thêm một bước vào chỗ không ǵ nương tựa. Kinh này gồm các bài kệ từ 835 tới 847.
839. (Đức Phật nói với Magandiya) Ta nói rằng thanh tịnh không thể tới từ quan điểm, học hỏi, kiến thức, giới luật, và nghi lễ tôn giáo; cũng không thể tới từ thiếu vắng quan điểm, học hỏi, kiến thức, giới luật, và nghi lễ tôn giáo. Nhưng chỉ là khi buông xả hết, khi không nắm giữ ǵ hết, th́ sẽ b́nh an (không dựa vào đâu), không c̣n muốn sanh hữu nữa.
10) Kinh Trước Khi Thân Tan Ră Duyên khởi /nguyên do của kinh là do Đức Phật nhận thấy một số chư thiên trong hội chúng khởi tâm thắc mắc, “Nên làm ǵ trước khi thân này tan ră?” Đức Phật mới dùng thần thông tạo ra h́nh ảnh một vị Phật đi cùng với 1,250 tỳ khưu tụ hội trên không trung, và Đức Phật Thích Ca dùng thần thông để vị Phật (trên không, do thần thông tạo ra) đặt câu hỏi để Ngài nói bài kinh này.
Nói thân tan ră, là nói về sự chết hay khi hấp hối. Kinh khởi đầu với một người hỏi Đức Phật rằng phải nh́n thấy ǵ (kiến) và giữ giới (sila) như thế nào để được b́nh an – người b́nh an c̣n gọi là người tối thắng.
– 849. Người đă không c̣n tham ái trước khi thân tan ră, không dựa vào những ǵ trong quá khứ không toan tính tư lường trong hiện tại cũng không ước muốn ǵ ở tương lai.
-861. Không lấy ǵ trên đời làm của ḿnh, không buồn v́ những ǵ ḿnh không có, không dính ǵ tới bất kỳ giáo thuyết nào người đó thực sự được gọi là B́nh An.
Cứ y theo lời Phật dạy, một người sắp chết mà c̣n nuối tiếc, dặn ḍ thân nhân, con cháu làm chuyện này chuyện kia… th́ không thể có b́nh an. Nếu niệm Phật được trước khi chết cũng có thể giúp chúng ta b́nh an.
11) Kinh Cội Nguồn Tranh Căi
-862. (Câu hỏi) Từ đâu khởi lên các thứ gây gỗ, tranh căi tuyệt vọng, nỗi buồn, ích kỷ, tự hào kiêu mạn, và lời nói xấu? Từ đâu chúng khởi lên, xin trả lời với.
-863 (Đức Phật) Từ những ǵ được ưa thích sẽ hiện ra gây gỗ, tranh căi tuyệt vọng, nỗi buồn, ích kỷ, tự hào kiêu mạn, và lời nói xấu. Gây gỗ và tranh căi nối kết với ích kỷ. Lời nói xấu hiện ra, khi tranh căi khởi dậy.
– 877 Biết rằng những pháp đó đều do duyên khởi người trí sẽ khảo sát luật duyên khởi. Ngộ xong, người giải thoát không tham dự tranh căi. Người trí không c̣n dính ǵ nữa với hữu/vô, sinh/diệt.
Tác giả nhận xét rằng trong kinh này có chữ “danh” và “sắc” trong đó “danh” là dịch từ chữ “nama” tức là vận hành của tâm; và chữ “sắc” là dịch từ chữ “rupa”. Hầu hết dịch giả dịch chữ “sắc” là “form” hay “appearance”. Danh và sắc có khi c̣n được dịch là tâm và thân. Tuy nhiên, chữ thân không riêng chỉ cơ thể người. V́ sắc được hiểu là đối tượng của tâm, tức là: cái được thấy, cái được nghe… cái được suy nghĩ tư lường.
12) Tiểu Kinh Về Tranh Căi “Những ǵ được thấy, những ǵ được nghe, những ǵ được cảm thọ… chỉ là bức màn của Niệm hiện lên trong tâm. Hăy lẳng lặng để các pháp hiển lộ Như Thị, để cái được thấy chỉ là cái được thấy, để cái được nghe chỉ là cái được nghe… Lúc đó là thanh tịnh. Lời dạy trong kinh y hệt như Thiền Tông, qua các câu đầu trong Tín Tâm Minh của Tổ Tăng Xán, bản dịch của Trúc Thiên:
Đạo lớn chẳng ǵ khó
Cốt đừng chọn lựa thôi
Quí hồ không thương ghét
Th́ tự nhiên sáng ngời
-880. (Đức Phật) Nếu nói, ai không đồng ư giáo thuyết kẻ khác là trở thành kẻ khờ, là bất toàn trí tuệ th́ tất cả đều khờ, đều bất toàn trí tuệ v́ tất cả đều bám quan kiến riêng của họ.
-881. (Đức Phật) Nhưng nếu, tất cả họ đều tịnh hóa v́ quan kiến đó và nếu họ đều có thông minh, khéo léo, tuệ thanh tịnh th́ không ai trong họ có tuệ bất toàn v́ quan kiến của họ là toàn hảo.
13) Đại Kinh Về Tranh Căi
Tóm lược ư kinh: Giữ tâm vô sở trụ. Không thấy một pháp nào để nắm giữ. Kinh này gồm các bài kệ từ 895 tới 914.-895. (Câu hỏi) Với những người cứ nắm giữ quan kiến riêng của họ căi măi, “Chỉ thế này mới đúng!” tất cả họ đáng bị chỉ trích hay vài người trong họ c̣n đáng khen?
-896. (Đức Phật) Lời khen là chuyện nhỏ, không đủ để b́nh an. Ta nói có hai kết quả của tranh căi. Thấy thế, không nên tranh căi làm ǵ Thấy rằng an toàn là nơi không tranh căi.
-897. Với các ư kiến người ta thường chấp giữ, người trí không nên dính vào ư nào trong đó. Với người không dính mắc vào cái được thấy và nghe sao lại phải dính mắc vào [các ư tranh căi]?
– 907. Bậc Phạm hạnh không bước theo ai hết với trí tuệ, không nắm giữ giáo thuyết nào Do vậy, họ vượt xa khỏi các tranh căi Và v́ không xem giáo thuyết nào là tối thắng.
Lời Phật dạy thật chí lư. Làm sao chúng ta có thể tranh căi với những người cho rằng thần linh mà họ đang tôn thờ là tối thượng và tối linh thiêng, giáo lư của họ là chân lư và đạo của họ là thánh thiện c̣n các đạo khác chỉ là tà giáo. Cách hay nhất là chúng ta im lặng. Nếu cần phải nói th́ chỉ nói cái khác biệt của chúng ta đối với tôn giáo của họ và từ chối phần tranh luận hơn-thua, đúng-sai.
14) Kinh Lối Đi Nhanh Chóng
Trong kinh này Đức Phật dạy các pháp tu để nhanh chóng giải thoát, rất tỉ mỉ mà tôi chỉ có thể trích dẫn một vài đoạn:
-921. (Câu hỏi) Ngài là bậc đă mở tuệ nhăn, ngài là Người Chứng Của Pháp, đă xóa bờ hiểm nguy. Xin ngài dạy cho tôi về pháp thực hành về giới luật phải giữ, và về thiền tập.
-922. (Đức Phật) Chớ để mắt ngó linh tinh chớ để tai nghe chuyện tầm phào chớ khởi tâm thèm muốn ăn ngon và chớ nghĩ về bất cứ ǵ trong thế giới là “của tôi.”
-923. Khi chạm xúc [gặp chuyện sầu muộn] người tu chớ nên thấy ǵ để thở than cũng chớ nên muốn cảnh tái sinh nào cũng đừng run sợ trước cảnh kinh hoàng.
-924. Người tu chớ nên lưu trữ những ǵ nhận được dù là thức ăn, thức uống, trang phục cũng chớ lo ngại khi không nhận được ǵ.
-925 Hăy thiền định, chớ đi lại nhiều Hăy tinh tấn, chớ nuối tiếc ǵ Tu sĩ hăy t́m cư trú nơi vắng lặng để luân chuyển ngồi thiền và nằm ngủ.
-926. Đừng nên ngủ nhiều. Hăy nồng nhiệt, chuyên tâm trong tỉnh thức Chớ lười biếng, giả h́nh, cười cợt, cờ bạc chớ t́nh dục, chớ h́nh thức cá nhân.
927. Môn đệ của ta sẽ không ếm bùa chú không giải mộng, không chiêm tinh không đoán lành dữ từ tiếng thú kêu không làm phép chữa bệnh, hay trị vô sinh.
-928 Vị tu sĩ không bứt rứt khi bị chê không hể hả khi được khen. Phải ĺa tâm tham, tâm keo kiệt ĺa tâm sân, không nói lời tổn thương.
-929. Người tu sĩ không mua bán ǵ không làm ǵ để bị chỉ trích không la cà thân cận trong xóm cư dân không nói lời chiêu dụ để kiếm chác.
-930. Bậc tu sĩ sẽ không khoe khoang không nói lời với ám chỉ xấu không khởi chút nào tâm kiêu căng không nói ra lời tranh căi nào.
-931. Không nói trả đũa dù lời sai trái cũng không cố ư nói lời lừa dối ai. Không xem thường bất kỳ ai v́ dị biệt về nếp sống, giới luật, hành tŕ, trí tuệ.
– 932. Ngay cả khi bị nhiều lời tấn công lời chê bai từ giới ẩn sĩ hay đời thường, cũng đừng trả lời gay gắt bởi v́ người tịch lặng không thấy ǵ để trả đũa.
Xa ĺa tranh căi, xô xát, bạo lực.Nh́n vào thế giới ngày hôm nay, bạo lực lan tràn là v́ chấp vào đúng-sai, quan niệm của tôi đúng, anh sai. Chấp vào ngoại h́nh, sắc tướng như: Cách thờ phượng, cách ăn mặc, để râu tóc, khăn trùm đầu kín mặt mà ḿnh cố chấp và cho đó là biểu tượng linh thiêng. Và sau cùng là do chấp Ngă, tức cho rằng thực có “cái tôi”. Từ “cái tôi” mà đẻ ra “cái của tôi”. Đụng vào “cái của tôi” dù “cái của tôi” đó ở trên Cung Trăng, chắc chắn phải đổ máu. Đó là nguyên do của bạo lực.
16) Kinh Về Sariputta (Xá Lợi Phất)
-963. Đức Phật: Ta sẽ nói cho ngươi, Xá Lợi Phất, ngươi đă biết [Pháp] về những ǵ thoải mái với người đă ly dục người thường tới nơi cô tịch người ước muốn Giác Ngộ theo Chánh Pháp.
-964 Vị sư tỉnh thức, trí tuệ, sống cô tịch không nên có năm nỗi sợ: ruồi nhặng, muỗi ṃng, rắn gặp gỡ người khác, loài thú bốn chân.
-965 Cũng chớ nên sợ tín đồ giáo pháp khác kể cả khi người dị giáo kia làm điều kinh sợ. Thêm nữa, người đi t́m thiện lành nên vượt qua tất cả các hiểm nguy khác – 966. Kham nhẫn cả khi bệnh, đói và khát chịu đựng cả khi trời trở lạnh, cực nóng.
Người tu sĩ không nhà chớ dao động hăy tinh tấn, ra sức tu học.
B-Phẩm Qua Bờ Bên Kia (Đáo Bỉ Ngạn)
“Phẩm Qua Bờ Bên Kia gồm 16 kinh, mỗi kinh ghi lại những lời đối thoại của 16 giáo sĩ Bà La Môn với Đức Phật. Nhóm 16 vị này là học tṛ của đạo sĩ Bavari. Sau các câu đối thoại, 15 vị đầu tiên tức khắc vào thánh vị A La Hán. Các bộ chú giải đời sau nói dị biệt về giáo sĩ thứ 16. Vị này tên Pingiya. Có chú giải nói rằng ngài Pingiya sau khi đối thoại với Đức Phật (Kinh Sn 5.16) vào thánh vị Sơ Quả (Nhập Lưu), có chú giải khác nói rằng ngài Pingiya đắc thánh vị Tam Quả (Bất Lai).”
“Phần giới thiệu của kinh này là do đời sau ghép vào. Phần này kể rằng người Bà La Môn Bavari thông thạo các bộ Vệ Đà, bản thân có 16 môn đệ giỏi, và mỗi môn đệ có trường dạy với các môn đệ riêng. Bavari bị một dị nhân tới làm bùa chú, trù ếm là Bavari sẽ bị chẻ đầu làm bảy mảnh v́ không có để cúng ông này 500 tiền vàng. Bavari sầu khổ, được một vị thiên (trời) tới chỉ dẫn, rằng hăy t́m Đức Phật để cứu nạn. Bavari nhờ 16 môn đệ t́m tới Đức Phật. “
– 998. [Bavari] Bậc Toàn Giác rất hiếm gặp nơi thế giới này đă tới. Hăy nhanh chóng tới thành Savatthi để gặp Người Tối Thắng này.
-999. [Các môn đệ] Kính thưa Ngài Bà La Môn, làm sao chúng con biết vị đó là Đức Phật Toàn Giác? Thầy hăy chỉ chúng con cách làm sao để biết đó là vị Thế Tôn?
-1000. [Bavari] Trong các bộ Vệ Đà truyền lại cho chúng ta có ghi về 32 tướng tốt của bậc Thượng Nhân.
-1001. Hễ có ở tay chân 32 tướng tốt của bậc Thượng Nhân, vị đó sẽ chỉ có hai nơi định sẵn, không có trường hợp thứ ba.
-1002. Nếu sống đời tại gia, vị này sẽ chiến thắng địa cầu này, không dùng gậy hay gươm, vị này cai trị theo Chánh pháp.
1003. Nếu xuất gia, vị này sẽ là bậc Gỡ Bỏ Vô Minh, là bậc Thế Tôn, là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, vô thượng.
– 1015. Nay là lúc Đấng Thế Tôn ngồi trước tăng đoàn, đang giảng pháp cho các tỳ khưu, như tiếng gầm sư tử trong rừng.
-1016. Ajita nh́n thấy Đức Phật, hào quang như mặt trời sáng rực, như mặt trăng trong đêm rằm.
-1017. và sau khi nh́n thấy các đặc tướng đầy đủ nơi tay chân của Đức Phật, Ajita vui mừng đứng bên, và hỏi thầm trong tâm.
-1025. [Ajita] Bavari hỏi về đầu và về chẻ đầu ra nhiều mảnh. Xin Thế Tôn giải thích, gỡ bỏ nghi ngờ của chúng con.
-1026. [Đức Phật] Hăy biết vô minh gọi là “cái đầu” trong khi hiểu biết ra (giác ngộ) chính là “chẻ đầu ra” , nối kết với tín, niệm, định, dục tinh tấn, và năng lực.
-1027. [Người kể] Với cảm xúc lớn, bày tỏ tôn kính, chàng trai quấn tấm da nai lên một vai, quỳ lạy đặt đầu nơi bàn chân Đức Phật
– 1029. [Đức Phật] Người Bà La Môn Bavari, hăy sống vui, an lạc với các môn đệ. Và quư vị hăy sống vui, an lạc. Và chàng trai này, mong chàng sống trường thọ.
-1030. Tất cả nghi ngờ nào Bavari, hay ông, hay bất kỳ ai có, hay bất cứ những ǵ trong tâm, người đều được phép hỏi.
-1031. Được Đức Phật cho phép, Ajita ngồi xuống, hai tay chắp kính lễ và hỏi Đức Như Lai câu hỏi đầu tiên.
1) Các câu hỏi của chàng thanh niên Ajita
-1032. [Ajita] Thế giới này bị những ǵ bao phủ? Sao nó không chiếu sáng ra được? Xin ngài nói cái ǵ làm nó ô nhiễm? Nỗi sợ lớn của thế giới là ǵ?
-1033. [Đức Phật] Vô minh bao che thế giới này. Nó không chiếu sáng được v́ ngăn che bởi tham dục và không tỉnh thức (không được thấy như nó là). Tham cầu là ô nhiễm của nó. Ta nói, khổ là nỗi sợ lớn của thế giới.
2) Các câu hỏi của Tissa-Metteyya
– 1040. [Tissa] Ai thỏa măn trong thế giới này? Ai không dao động? Ai là người trí tuệ, đă biết suốt cả hai đầu (quá khứ và tương lai), và không nhiễm ô nơi chặng giữa (hiện tại)? Ai mà ngài gọi là bậc Thượng Nhân? Ai là người vượt qua được mạng lưới tham ái thêu dệt?
-1041. [Đức Phật] Đó là người sống đời trong sạch giữa các thọ lạc, xa ĺa tham, luôn luôn tỉnh thức và tịch lặng, tự quán chiếu sâu thẳm, không c̣n ǵ dao động.
-1042. Đó là một người trí tuệ, đă biết cả hai đầu nhị biên, và không dính mắc vào chặng giữa. Ta gọi đó là bậc Thượng Nhân, người đă vượt qua mạng lưới lưới thêu dệt ái nhiễm.
3) Các câu hỏi của Punnaka
-1043. [Punnaka] Đối trước người bất động, người đă thấy cội rễ, con xin nêu câu hỏi: V́ sao nhiều đạo sĩ, dân chúng, giới quư tộc và giới Bà La Môn trong thế giới này cúng lễ các vị thiên? Xin Đức Phật trả lời cho con.”
“Qua lời Phật dạy, nghi lễ tôn giáo là vô ích. Cúng lễ, hiến tế vô ích. Giải thoát là người đă thấy được xa và gần trong thế giới này (has discerned far and near in the world). Xa và gần là ǵ? Có thể hiểu như Kinh Sn 5.2. Nhưng Kinh Sn 5.3 không nói ǵ về chặng giữa, cho nên “xa và gần” có thể hiểu như nh́n thấy trong chánh niệm các pháp tập khởi và biến diệt. Đức Phật cũng dạy là phải vắng lặng và tỉnh thức và xa ĺa tham với sân.”
“Kinh này Đức Phật dạy giữ tâm vô sở trụ, không để dính mắc vào bất cứ những ǵ ở hướng trên, ở hướng dưới, và các hướng giữa hai phía. Như thế, thức sẽ không duyên vào sanh-hữu, xa ĺa mọi thứ “cái của tôi” và như thế, sẽ giải thoát.”
– 1049. [Mettagu] Bạch Thế Tôn, xin trả lời con câu hỏi này. Con xem ngài là vị Thầy thông suốt các bộ Vệ Đà, bậc hiền trí. V́ sao vô lượng sầu khổ khởi lên cho bất kỳ ai trong cơi này?
-1050. [Đức Phật] Ngươi hỏi ta về cội nguồn sầu khổ. Ta đă Biết, ta sẽ nói: sầu khổ trong vô lượng h́nh thức sinh khởi v́ dính mắc chấp giữ.
5) Các câu hỏi của Dhotaka
“ Kinh này bắt đầu bằng câu hỏi, làm sao tự tu học để thể nhập Niết Bàn. Đức Phật trả lời rằng pháp tịch tịnh tối thượng là đối với bất cứ những ǵ trên, dưới, ngang bằng chặng giữa, đừng khởi bất kỳ tâm tham ái hay tâm dính mắc nào.”
– 1061. [Dhotaka] Con xin hỏi Thế Tôn, xin mở lời dạy cho con để con có thể tự thể nhập Niết Bàn.
– 1068. [Đức Phật] Hỡi Dhotaka, với bất cứ những ǵ con biết, dù trên cao, dưới thấp và khắp chặng giữa, hăy hiểu rằng đây như là dây trói vào thế giới này, đừng tham đắm với bất kỳ trạng thái sinh tồn nào.
6) Các câu hỏi của Upasiva
“Làm cách nào vượt qua trận lụt lớn?
Đức Phật dạy rằng hăy tỉnh thức và không nương tựa bất kỳ một pháp nào. Không một pháp nào? Thiền sư Phật Quả Viên Ngộ là người soạn ra tuyển tập công án Bích Nham Lục, vẫn thường nói rằng chư Phật không một pháp trao cho người. Trong tác phẩm “Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất” của Bồ Đề Đạt Ma, bản Việt dịch của Trúc Thiên, nơi những trang đầu tiên có ghi hai câu thơ của Thiền Tông Trung Hoa:
Tịch diệt thể vô đắc
Chân không tuyệt thủ phan.
(Thể Niết bàn không chứng đắc,
Chân không chặt đứt tay leo.)
Đó là nơi không thể vin tay vào đâu được. Đó là nơi không có ǵ để được (vô đắc) v́ vốn đă có sẵn trong thể vắng lặng (trong tâm). Hễ c̣n vin vào bất kỳ pháp nào, dù là dính tới bất kỳ sắc thanh hương vị xúc pháp nào, đều sẽ hỏng , v́ là, hễ vin vào bất cứ ǵ, là trên đầu mọc thêm đầu, trên tâm lại chồng thêm tâm. Và v́ không hề nương vào một pháp nào, nên mới vào được Cửa Không Cửa (Vô Môn Quan).”
-1069. [Upasiva] Ô ngài Thích Ca, con đơn độc, không ǵ nương tựa, con không thể vượt qua ḍng nước lũ lớn này. Hỡi Bậc Nh́n Thấu Suốt Tất Cả, hăy chỉ con phương tiện để vượt qua trận lụt.
-1070. [Đức Phật] Hỡi Upasiva, hăy tỉnh thức, nh́n về không một pháp nào, nương tựa “không một pháp nào” mà vượt qua ḍng nước lũ. Rời dục lạc, bỏ nói năng, ngày đêm liên tục nh́n cho cạn kiệt tham ái.”
– 1076. [Đức Phật] Hỡi Upasiva. Không thể đo lường nào đối với người đă tới nơi an nghỉ giải thoát, không có ǵ người ta có thể mô tả về người đó, nơi tất cả các pháp đều hoàn toàn được gỡ bỏ, nơi tất cả mọi đường ngôn ngữ cũng hoàn toàn được gỡ bỏ.
7) Các câu hỏi của Nanda
– 1080. [Đức Phật] Hỡi Nanda, bất kỳ ai trong các ẩn sĩ và Phạm chí này nói rằng thanh tịnh tới từ những ǵ được thấy và nghe, nói rằng thanh tịnh tới từ giới luật và tuân thủ rèn luyện, nói rằng thanh tịnh tới từ nhiều cách khác nữa, mặc dù họ đang sống kềm chế như thế, ta nói họ vẫn chưa vượt qua sinh và già.
– 1083. [Nanda] Bạch ngài Gotama, con rất mực vui mừng nghe lời dạy của ngài đại đạo sư, dạy rơ ràng pháp giải thoát ra khỏi dính mắc. Bất kỳ ai nơi đây không c̣n dựa vào những ǵ được thấy, nghe, cảm thọ, không c̣n dựa vào giới cấm và rèn luyện tu tập, và cũng đă rời bỏ toàn bộ vô lượng cách khác nữa – hễ ai biết rơ tận tường tham ái, không c̣n lậu hoặc nữa – con cũng nói những vị đó đă vượt qua trận lụt.
8) Câu hỏi của Hemaka “ Hemaka hỏi rằng, làm sao để giải thoát. Đức Phật trả lời rằng, hăy gỡ bỏ ham mê say đắm đối với bất cứ những ǵ khả ái, những ǵ dễ thương trong các cơi được thấy, được nghe, được cảm thọ, được nhận biết. Luôn luôn giữ chánh niệm như thế, sẽ giải thoát ngay trong đời này. Tuy nhiên, không mê đắm, cũng có nghĩa là không ghét bỏ. Bởi v́ hễ có tâm mê đắm cái này, tất sinh tâm ghét bỏ những ǵ trái nghịch với nó. Hăy thấy, các pháp như thế, chỉ là như thế, hễ đủ duyên th́ khởi lên được thấy nghe hay biết, không có ǵ phải ưa thích hay ghét bỏ. Đại Châu Thiền sư từng nói:
“Định là đối cảnh vô tâm, tám ngọn gió chẳng làm lay động. Nếu chứng đặng pháp Định như thế, tuy là mang thân phàm phu mà đă và đă vào ngôi vị Phật.”
Như thế, Phật chính là Tâm Bất Động vậy.”
– 1085. Ngài là Đấng Mâu Ni, con xin ngài dạy Pháp phá hủy tham ái, để người nghe hiểu được và sống một cách tỉnh thức, vượt qua những dính mắc của thế giới này.
-1086. [Đức Phật] Hỡi Hemaka, với các pháp khả ái nơi đây được thấy, được nghe, được cảm thọ và được nhận biết, hăy gỡ bỏ ḷng ham mê say đắm – như thế là trạng thái Niết Bàn bất tử.
-1087. Hiểu được Pháp này, những người tỉnh thức (để gỡ bỏ như trên) sẽ giải thoát ngay trong đời này. Và luôn luôn tịch lặng, họ bước qua những dính mắc trong thế giới này.
9) Các câu hỏi của Toddayya
“Kinh này gợi nhớ tới Bát Nhă Tâm Kinh, trong đó nói rằng khi đă thấy tất cả các pháp đều rỗng rang, đều vô tự tánh, đều không tịch… th́ sẽ không c̣n chút ái dục (với các căn), sẽ không c̣n chút tham, chút ước vọng nào (dù là muốn làm Phật, muốn làm Thánh). Chính nơi tịch lặng như thế là giải thoát tối thượng.”
1088. [Todeyya] Với người không c̣n ái dục nữa, với người không c̣n chút tham nào nữa, với người đă vượt qua tất cả ngờ vực – như thế là loại giải thoát nào cho người đó?
-1089. [Đức Phật] Với người không c̣n ái dục nữa, với người không c̣n chút tham nào nữa, với người đă vượt qua tất cả ngờ vực – đó chính là giải thoát tối thượng.
10) Các câu hỏi của Kappa
“Kinh này cũng nói là đừng, là chớ, là không… mà không nói là phải làm ǵ. Đức Phật nói rằng hỏn đảo cứu người đang bị ngập lut giữa ḍng là tỉnh thức sống với pháp “Không sở hữu ǵ hết, không dính mắc ǵ hết.” Có thể gọi tắt Kinh Sn 5.10 là “ưng vô sở trụ” – như lời Đức Phật dạy trong Kinh Kim Cương.”
– 1093. [Đức Phật] Với những người đứng giữa ḍng nước, trong khi lũ lụt kinh hoàng dâng cao thêm – với những người bị già chết tràn ngập, hỡi Kappa, ta sẽ nói về một ḥn đảo.
-1094. “Không sở hữu ǵ hết, không dính mắc ǵ hết” – đó là ḥn đảo của pháp tối thượng, ta gọi đó là Niết Bàn, nơi đoạn diệt của già chết.
11) Những câu hỏi của Jatukani
“Chàng trai Jatukanni hỏi rằng làm sao buông bỏ sinh và già. Đức Phật trả lời rằng chớ tham ái dục, nhưng cũng chớ nắm giữ hay xua đẩy ǵ. Và chớ để dính ǵ tới quá, hiện, vị lai. Nghĩa là, buông bỏ cả quá, hiện, vị lai.”
-1099. Hăy để khô héo tất cả những ǵ của quá khứ, và chớ hề có chút ǵ dính tới tương lai. Nếu con không nắm giữ ǵ trong chặng giữa (hiện tại), con sẽ sống trong b́nh an.
12) Các câu hỏi của Bhadravudha
“ Kinh này nói rằng chớ nên dính mắc bất cứ thứ ǵ, dù là dính mắc vào những ǵ ở trên, ở dưới, ở chặng giữa. Nhóm chữ “trên, dưới, chặng giữa” được Luận thư Nidd II giải thích là: tương lai (trên), quá khứ (dưới), hiện tại (giữa); cơi thiên, cơi địa ngục, cơi người; cơi vô sắc, cơi dục, cơi sắc. Trong sách “Công Án của Phật Thích Ca và Tổ Đạt Ma,” bản Việt dịch của Thầy Thích Duy Lực có một công án, như sau:
“Thế Tôn thăng ṭa, có một Phạn Chí cúng dường hoa ngô đồng. Phật bảo: Buông xuống đi! Phạn Chí buông hoa bên tay trái xuống. Phật bảo tiếp: Buông xuống đi! Phạn Chí buông hoa c̣n lại bên tay mặt xuống. Phật lại bảo: Buông xuống đi! Phạn Chí nói: Nay hai tay con đă không c̣n ǵ, sao Phật c̣n bảo buông cái ǵ xuống nữa? Phật nói: Chẳng phải ta bảo ngươi bỏ hoa. Ngươi phải buông xả ngoài lục trần, trong lục căn, giữa lục thức, nhất thời xả hết đến chỗ không c̣n ǵ để xả. Ấy chính là buông thân xả mạng của ngươi. Phạn Chí ngay đó ngộ vô sanh nhẫn.”
13) Các câu hỏi của Udaya
-1105. [Udaya] Đối trước bậc Thiền nhân, ngài đă ngồi xa ĺa bụi, đă làm xong việc phải làm, với lậu hoặc không c̣n, đă vượt qua tất cả các pháp, con xin hỏi, xin ngài nói về trí giải thoát, về phá vỡ vô minh.
-1112. [Posala] Đối trước người đă chỉ ra quá khứ, người đă bất động, người đă cắt đứt mọi ngờ vực, người toàn hảo trong mọi pháp, con tới với một câu xin hỏi.
-1113. Đối với người đă đoạn tận tưởng về sắc, người đă buông bỏ thân toàn bộ, người thấy cả trong và ngoài đều là “rỗng rang, không có ǵ”, người như thế có sẽ bị dẫn dắt đi đâu?
-1114. [Đức Phật] Hỡi Posala. Như Lai biết tận tường tất cả các nơi trú của thức, biết nơi thức trụ vào, nơi thức sẽ được giải thoát, hay sẽ bước qua bờ giải thoát.
15) Các câu hỏi của Mogharaja
– 1117. Con không hiểu về quan kiến (view, quan điểm) của người Gotama nổi tiếng về thế giới này, về thế giới khác, về cơi Phạm Thiên, về cơi chư thiên.
-1118. Do vậy, con xin hỏi vị Có Mắt Tối Thượng: Nên nh́n thế giới như thế nào để Thần Chết không nh́n thấy ḿnh?
-1119. [Đức Phật] Hỡi Mogharaja, hăy luôn luôn tỉnh thức và nh́n thế giới như rỗng rang, với cái nh́n về tự ngă đă bứng gốc, người đó sẽ vượt qua sự chết. Thần Chết không thể thấy người đă nh́n thế giới này như thế.
Theo tác giả, gom về một lời của Đức Phật: “Hăy luôn luôn tỉnh thức và nh́n thế giới như rỗng rang, với cái nh́n về tự ngă đă bứng gốc. Như thế, chính là Bát Nhă Tâm Kinh, với lời dạy “ngũ uẩn giai không.”
Nơi đây, căn-trần-thức đều rỗng rang vô tướng. Chỉ cần rút cọng tranh này ra, cả bó tranh sẽ tan ră. V́ Duyên Khởi, nên tất cả đều rỗng rang không có tự thể/ thực thể.”
16) Các câu hỏi của Pingiya
Kinh này, Đức Phật dạy hai pháp trong hai bài kệ, pháp nào cũng tới giải thoát.
1123. [Đức Phật] Hỡi Pingiya. Nh́n thấy nhân loại, nạn nhân của tham, bị hành hạ, bị tuổi già đè bẹp, do vậy, Pingiya hăy tinh tấn, buông bỏ tham và không trở lại tái sanh nữa.
17) Phần Kết: Các bài kệ ca ngợi Pháp Qua Bờ Kia
-1131. [Pingiya] Tôi sẽ tụng đọc Pháp Qua Bờ Kia, như ngài đă nh́n thấy và đă giảng dạy – Ngài là bậc đại trí, bậc không nhiễm ô, bậc xa ĺa ái dục, bậc mạnh mẽ, đă giải thoát, hà cớ ǵ ngài nói sai được.
– 1133. Đức Phật là Người Nh́n Thấu Suốt, đă xua tan bóng tối, đă tới tận cùng thế giới, đă vượt qua tất cả các sanh hữu, đă ĺa xa sầu khổ, không c̣n cấu nhiễm, người có tên chân thực như thế – một Bậc Phạm Hạnh — tôi theo hầu vị đó.
– 1144. Thưa ngài Phạm Chí. Con đă già, sức yếu, run rẩy, thân con không tới nơi đó được, nhưng tâm con luôn luôn hướng tới, toàn tâm bên Đức Phật.
– 1148. Người biết những ǵ vượt xa chư thiên, người hiểu mọi pháp cao và thấp, vị Thầy đă kết thúc các câu hỏi từ những người tự thấy c̣n ngờ vực nêu lên.
– 1149. Bất động, Không ǵ lay chuyển, Không nơi đâu sánh được. Chắc chắn, con sẽ đi tới đó, con không ngờ vực ǵ hết. Đức Phật hăy nhớ về con rằng con đă toàn tâm hướng về Niết Bàn.
Thay Lời Kết:
Kinh Nhật Tụng Sơ Thời do Phật nói và được các đệ tử học thuộc ḷng rồi đọc tụng lúc Phật c̣n tại thế, đă được chư tổ hiểu, vâng giữ và thực hành và đă chứng đắc. Điều này cho thấy dù giáo lư của Đức Phật khó nhưng không phải không thể tu chứng. Công lao của cư sĩ Nguyên Giác thật lớn khi bỏ thời gian để đọc sáu (6) bản dịch tiếng Anh từ Pali rồi đối chiếu với bản dịch của Ḥa Thượng Thích Minh Châu để cống hiến cho người tu học một bản Việt dịch rơ ràng nhất, cùng lời b́nh chú.
Đây không phải Kinh của Phật tử b́nh thường mà là những lời dạy tha thiết và rốt ráo của Đức Phật cho hàng Đại Sĩ để vượt qua sinh tử luân hồi, an lạc và giải thoát, tiến tới Thánh quả. Chúng ta cũng thấy qua kinh này, các hàng thượng trí của Bà La Môn, dù đă tu và hành tŕ cả đời theo Kinh Vệ Đà (Kinh Tri Thức) chứa đựng rất nhiều trí tuệ mà không t́m thấy con đường giải thoát cho nên đă phải t́m tới Đức Phật và rất nhiều vị đă trở thành đệ tử của Ngài. Ngày nay, một số đông trí thức Ấn Độ đă chuyển qua Phật Giáo v́ họ nh́n thấy giá trị của Phật Giáo và từ Bà La Môn chuyển qua Phật Giáo không hề có chướng ngại về cả ba mặt chính trị, văn hóa và tâm linh.
Kinh nghiệm cho thấy một tôn giáo tuyệt đối tin tưởng vào thần linh, không sử dụng trí tuệ, tin vào những điều không thấy, không có… và nhất là Chấp Ngă, tức chấp vào Cái Tôi Có Thật th́ khó ḷng chuyển hóa qua Phật Giáo.
Xuyên qua Phẩm Tám (Atthaka Vagga) và Phẩm Qua Bờ Kia (Parayanavagga), lời chỉ dạy tối thượng của Phật chỉ là: Từ bỏ tham dục, không tranh căi, không để đầu óc vướng bận vào tất cả những ǵ đang xảy ra chung quanh ḿnh, không nương tựa, bám víu, ẩn nấp vào đâu để sanh Tâm, không chấp giữ một cái ǵ, không mê luyến, ray rứt, thắc mắc về hiện tại, quá khứ, vị lai. Hiểu như thế, tự ḿnh tu như thế, hành tŕ như thế…chắc chắn sẽ tới bờ giải thoát trọn vẹn mà Phật gọi đó là Niết Bàn.
Ngày nay chúng ta phải tiếp xúc với tín đồ của nhiều tôn giáo. Nhưng người con Phật chân chính không bao giờ phải vay mượn giá trị của các tôn giáo khác để minh chứng cho giá trị của Đạo Phật. Chúng ta cũng không bao giờ dùng h́nh ảnh của các giáo chủ của tôn giáo khác để so sánh và tôn vinh Phật. Đức Phật đă là Mặt Trời th́ Mặt Trời không cần một thứ đèn, một thứ ánh sáng nào khác để tăng thêm ánh sáng hay chiếu soi cho nó. Ngoài ra, khi hành đạo, chúng ta tuyệt đối ghi nhớ lời Phật dạy trong bài kệ 929.
“Người tu sĩ không mua bán ǵ, không làm ǵ để bị chỉ trích, không la cà thân cận trong xóm cư dân, không nói lời chiêu dụ để kiếm chác.”
Tuyệt đối không được nói để chiều ḷng người hầu kiếm chác t́nh cảm, tiền bạc, lợi dưỡng … Nói để chiều ḷng người là giả dối, là lừa mị.
Kinh Nhật Tụng Sơ Thời là kho báu của Phật Giáo và nên trở thành Kinh Nhật Tụng Đương Thời mà tất cả những ai mong muốn viên thành Phật quả cần phải đọc tụng mỗi ngày.
Sách do Ananda Việt Foundation xuất bản, Amazon phát hành. Quư vị có thể vào: amazon.com:books rồi đánh máy nguyen giac (chữ Việt không dấu) để mua sách.
Ai cũng biết Zen của Nhật Bản nguyên là Thiền Tông của Trung Hoa truyền sang, mà nói đến Zen hay Thiền là nói đến phần tinh túy nhất, siêu việt nhất của Đại thừa Phật giáo.
Đa số những học giả Âu Mỹ, cách nay độ trăm năm khi nói đến Phật giáo, chỉ biết có Nam Tông. Điều ấy dễ hiểu với sự lệ thuộc của các nước Nam Tông vào chính quyền nhiều đế quốc Tây phương, nhất là Anh.
Rồi đến khi họ biết c̣n có một tông phái Phật giáo nữa là Bắc Tông, th́ một phần bị ám ảnh bởi những lời phê b́nh quá nghiêm khắc nếu không nói là kỳ thị của Nam Tông, một phần khác v́ thiếu tài liệu tham khảo, họ cũng theo đường lối chê bai của tu sĩ, học giả hệ thống Ba Li mà khinh thường hoặc lên án Đại Thừa là hệ thống Bắc phạn (Sanscrit).
Đă đành trước Suzuki có một ít học giả cố tŕnh bày cho Tây phương biết thế nào là những quan điểm của Đại Thừa, nhưng kết quả không có là bao. Thành thật mà nói, nếu không có Suzuki th́ cái tinh hoa và cái siêu đẳng của Đại Thừa đến ngày nay vẫn c̣n mai một. Ấy cũng v́ các tiền bối của Suzuki không có đầy đủ những yếu tố làm cho vị Đại sư này thành công. Ngoài cái học lực rộng như biển — Suzuki biết Hán văn, Phạn ngữ, Tây Tạng, Anh ngữ, Pháp ngữ 一 Đại sư c̣n một điểm đặc biệt là hành giả, một hành giả đă đi sâu vào nẻo Đạo, đă thu thập nhiều ấn chứng, khiến Đại sư “tâm thông cập thuyết thông”. Đă thuyết thông lại thêm tŕnh bày theo thể cách Âu Mỹ, bằng chính ngôn ngữ của họ với một nghệ thuật tinh vi, những sách của Đại sư đă làm phát khởi một phong trào nghiên cứu rất có lợi cho Đại Thừa và mỗi lúc mỗi lôi cuốn thêm thành phần trí thức. Công của Đại sư thật là vĩ đại.
Để kỷ niệm một bực chơn tài có thể nói đă hiến trọn đời ḿnh cho công cuộc xướng minh Đại Thừa Giáo, chúng tôi cho dịch đăng sau đây bài của Mary Farkas, trích ở nguyệt san “Zen Notes” vừa nhận được do Đệ Nhất Thiền Viện Hoa Kỳ (The First Zen Institute of America) xuất bản (Vol. XIII. No. 7, July 1966). T.Q.
Khuôn mặt nổi bật nhất của Thiền hiện đại đă lặng lẽ qua đời ngày 12 tháng 7 năm nay (1966) ở Nhật là nơi ông đă sống từ năm 1958. Nếu lấy năm l866 mà kể là năm Nhật bản bắt đầu nh́n về phương Tây và tư tưởng Nhật bắt đầu chuyển hướng về cùng một phía, th́ cuộc đời của Đại sư Suzuki có thể nói là đă đi suốt thế kỷ đầu của cuộc chuyển hướng ấy. Trong mọi thời đại, Đại sư là người có đại công làm cho Tây phương hiểu được tư tưởng xứ Phù tang.
Mặc dầu Đại sư được nổi tiếng với lối ba chục cuốn sách bằng Anh Ngữ và nhiều bài báo, các tác phẩm ấy ít nói ǵ về đời tư hay những tư tưởng riêng của Đại sư, đối lập với những tư tưởng triết học hay tôn giáo. Tạp chí The Middle Way37 tháng 11 năm 1964, có kể lại “Những kư ức đầu tiên” do chính Đại sư viết, nhưng ngoài tập hồi kư linh hoạt và cảm động này, tôi không thể nhớ lại một chi tiết nào mà Suzuki đă tiết lộ về những hành tŕ của ông.
Trong phần dẫn nhập của cuốn The Essentials of Zen Buddhism, một vài nét chính của đời ông được nêu lên. Đây là một tập hiệp tuyển những trước tác của Suzuki, do Bernard Philipps chọn lọc và ấn hành, và do chính Đại sư duyệt lại, xuất bản ở Nữu Ước năm 1962 (Nhà xuất bản E.P. Dutton). Tài liệu nầy đă làm căn cứ cho vài sự kiện nêu ra ở đây, với tính cách gần như một tiểu sử chính xác nhất, được viết bằng Anh ngữ về Đại sư từ trước đến nay. The Essentials là một cuốn sách dễ hiểu, chọn lọc, mà mục đích là giới thiệu những quan điểm của Suzuki về Thiền. Tiến sĩ Philipps từ lâu đă là một nhà giáo dục trong địa hạt tôn giáo và triết học, bởi thế cuốn sách này có lẽ là cuốn chỉ nam tốt nhất cho những ai muốn nghiên cứu tư tưởng của Suzuki trong một tương lai gần đây.
V́ Zen đtrợc chấp nhận ở Nhật, nghĩ không cần thiết nhiều sự “giới thiệu” Thiền với công chúng Nhật. (Tiến sĩ Suzuki được mời giảng cho Thiên Hoàng nghe về “Tinh túy của Phật giáo” vào những ngày 23 và 24 tháng 4 năm 1946. Năm ấy Hội Phật giáo Luân Đôn có ấn hành một tập ghi lại những buổi giảng của ông). Trước khi Suzuki bắt đầu tŕnh bày Thiền cho Tây phương, không một người Nhật nào trên thực tế đă thử làm việc đó. Kaiten Nukariya, trong một tác phẩm nhan đề The Religion of Samurai, xuất bản năm 1913, thật ra có thử làm, nhưng không thành công một cách sâu rộng. Như tiến sĩ C.G. Jung nói trong lời giới thiệu cuốn An Introduction to Zen Buddhism của Suzuki, cố gắng của Nukariya không làm cho chúng ta hiểu được cái phát huệ gọi là “Satori” (đề tài chính của Suzuki khi tŕnh bày). Satori (Ngộ) là lư do tồn tại của Thiền, không có Satori th́ không có Thíền. Nukariya luận giải với cái thuần lư (rationalism) của Tây phương mà ông thâm nhiễm quá sâu đậm, và chính v́ thế mà sách của ông thiếu sức truyền cảm và chỉ có một tính cách xây dựng vô vị mà thôi. Một vài nhà trước thuật sau nầy đă theo con đường của Jung đề nghị:
“Tốt hơn là để y nguyên cái lờ mờ bí hiểm của những giai thoại về Thiền, càng nói ít về cái lờ mờ ấy, ư nghĩa nó càng nhiều”.
“Thật đỡ biết bao nếu người ta để cho ḿnh tự thâm nhập trước cái bí hiểm tha phương ấy, và luôn luôn nhớ rằng Satori là một mầu nhiệm không thể tả, chính các vị Thiền sư mong muốn như thế. Theo sức hiểu biết của chúng ta, giữa những giai thoại của Thiền tông và cái chứng ngộ thoạt đến, có một vực thẳm; điều mà người ta họa may làm được là nêu lên sự có thể bắt một chiếc cầu trên vực thẳm ấy, đừng mong thực hiện được việc ấy trên thực tế”.
Khi nhận xét như thế, Jung đă thêm mấy lời để bào chữa cho các nhà trước thuật về Thiền:
“Nếu đă biết như vậy mà tôi cố ‘giảng giải’ những ǵ sau đây, tôi hoàn toàn ư thức rằng những ǵ tôi nói về ư nghĩa của Satori đều vô dụng. Dù sao, tôi không cưỡng được trước sức cám dỗ muốn lái cái tri kiến của Tây phương đến gần một cái tri kiến khác, công việc mà tôi biết khó khăn đến nỗi phải liều gánh trách nhiệm của một vài tội ác đối với tinh thần của Thiền.”
Quyển Japanese Buddhism (Phật giáo Nhật Bản) của Suzuki, do pḥng Du Lịch Đông Kinh ấn hành lần đầu tiên năm 1938, tŕnh bày cho người Tây phương thấy những ǵ mà người Nhật thời ấy cho là thú vị trong Phật giáo. Năm 1958, Suzuki thêm vào sách ấy những điểm đáng chú ư về Thiền.
Lần hồi với thời gian, Thiền được đặt ngang hàng với Phật giáo Nhật bởi v́, đối với người ngoại quốc ngày nay, Thiền được xem gần như là “tinh hoa của nền văn hóa tế nhị nhất của người Nhật”, như Sir George Sansom đă nóỉ. V́ lẽ này, khi tái bản có hiệu chính, tên của sách được đổi lại là Zen and Japanese Buddhism. Tôi xin ghi điều nầy: đứng ra tŕnh bày Thiền cho Tây phương, tiến sĩ Suzuki đă trở thành người diễn đạt tư tưởng Nhật lỗi lạc nhất. V́ trong các tác phẩm của ông, chẳng những Đại sư giảng giải về Thiền, mà c̣n cho độc giả một cái nh́n tổng quát về những điểm đặc sắc nhất của nền văn hóa, mỹ nghệ và thủ công, và về những cái đặc biệt, độc đáo của dân tộc Nhật, như kiếm thuật, thủy mặc, bút thảo, trà đạo và thuật cắm hoa. Trong lối tŕnh bày này, những cái xảo thuật cỏn con của Nhật đă trở thành như đồng nghĩa với Thiền, nhất là sau khi Suzuki cho xuất bản cuốn Zen Buddhism and Its influence on Japanese Culture— có lẽ đây là tác phẩm lôi cuốn nhất của Đại sư, đối với phần đông độc giả. Cuốn sách này được Hội Phật Học Đông Phương ở Kyoto ấn hành lần đầu tiên năm 1938. Về sau, sách ấy được điều chỉnh và tái bản trở thành cuốn Zen and Japanese Culture.
Năm 1936, Đại sư Suzuki diễn thuyết ở Đại Học đường Columbia, Một bà bạn trong đám chúng tôi, khi đi nghe ông giảng trở về đă tỏ ư thất vọng, nói rằng phần lớn bà chỉ nghe Đại sư nói về trà đạo mà thôi. Sokei-an (Tào Khê Am) đă nhận xét như sau:
“Người Mỹ hễ nói đến Nhật là nói đến thuật pha trà, cho nên Đại sư đă lấy đề tài trà đạo.“
Những ǵ Đại sư có lẽ đă chọn để tŕnh bày, nếu không bị ảnh hưởng bởi sự cân nhắc nói trên, ta có thể đoán được trong lời ngỏ của Đạt sư với hội viên của Thiền Viện (lúc ấy là Hội Phật giáo Mỹ quốc), nhân một cuộc diễn thuyết mà trước đó mấy ngày Đại sư đă nhận theo lời yêu cầu của Sokei-an. Hôm ấy, Suzuki nói về lịch sử Phật giáo và sự khác biệt giữa hai nền Phật giáo Ấn-Hoa, một đề tài được Đại sư đặc biệt chú ư, Lúc ấy, như Giáo sư Tsunoda đă nhận xét, Đại sư đă có 16 cuốn sách trong thư viện trường Columbia. Về Thiền, những sách đầu tiên lôi cuốn sự chú ư của người Mỹ là (theo thứ tự):
Essays in Zen Buddhism đợt một (1927), Essays đợt hai (1933) và đợt ba (1934), An Introduction to Zen Buddhism (1934), The Training of the Zen Buddhist Monk (1934), Manual of Zen Buddhism (1935) và Zen Buddhism and Its influence on Japanese Culture (1938).
Những tác phẩm ấy thật đă đặt nền tảng cho kiến thức Tây phương về Thiền. H́nh ảnh Thiền tŕnh bày trong đấy chính là những ǵ thu hút độc giả Tây phương đến với Thiền. Trái với sự nghiên cứu Thiền ở Nhật (Thiền chớ không phải công án) thường thiên về giáo lư Đại thừa, về kinh điển và về lập trường triết lư của các tông, các phái, cái tinh túy của Suzuki tŕnh bày là một thứ Thiền tích cực, diện đối diện, và của Satori (giác ngộ).
V́ là một văn sĩ chuyên nghiệp, Đại sư bắt buộc phải tŕnh bày một đề tài có thể lôi cuốn độc giả. Nếu tất cả những tác phẩm của Đại sư đều như những cuốn Lankavatara Sutra (Lăng Già Kinh), l932, Studies in the Lankavatara (Nghiên cứu Kinh Lăng Già), 1930, là những sách chỉ dành cho học giả, câu chuyện về Thiền ở Mỹ ắt đă là một câu chuyện khác hẳn. Những tác phẩm bằng Anh văn của Suzuki được viết vào thế kỷ trước. Một là bản dịch cuốn The Gospel of Buddha (Phúc Âm của Phật Đà) mà Paul Carus đă sưu tập. Quyển thứ hai, A New Interpretation of Religion (Tôn Giáo Tân Giải), chứa đựng một tuyên thuyết mà nghĩ hàng Phật tử nên tin tưởng, căn cứ trên một bài văn phúng thích (pamphlet) mà Soyen Shaku (Thiền sư Chiếu Nguyên Giác) đă mang từ Mỹ về, nhân chuyến đi dự Đại hội Tôn giáo Thế giới hồi năm 1893. Chính nhờ Soyen mà Suzuki, vào năm 37 tuổi, được sang Mỹ làm việc cho Paul Carus ở La Salle, tiểu bang Illinois, là nơi Đại sư lưu lại hơn 10 năm. Suốt thời gian này, ông đă viết cho tạp chí Monist, phiên dịch ra Anh văn nào Đạo Đức Kinh của Lăo Tử, nào những bài thuyết đạo của Soyen Shaku cho dân chúng Mỹ nghe, nào bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận của Ashvaghosha (Bồ Tát Mă Minh). Đại sư cũng có viết quyển A Short History of Early Chinese Philosophy (Trung Hoa Cận Đại Triết Học Lược Sử) và quyển Outlines of Mahayana Buddhism (Đại Thừa Phật Giáo Cương Yếu).
Quyết định trở thành một nhà văn của Suzuki dường như bắt nguồn từ ảnh hưởng của ông cụ thân sinh, vốn là một học giả và một văn sĩ bậc trung, tác giả của một quyển sử ngắn về Âu châu. Thật ra, thân phụ Đại sư là một y sĩ, như ông nội và ông cố của Đại sư. Tất cả đều chết sớm. Trường hợp hơi bất thường này chính là lư do thúc đẩy Suzuki quay về với Thiền. Trong quyển Kư Ức Ấu Thời, chính Suzuki đă viết:
“Dĩ nhiên, vào thời ấy, chuyện chết yểu không phải là chuyện hi hữu, tuy nhiên trường hợp mất sớm của một y sĩ dưới chế độ phong kiến cổ thời thật là một sự bất hạnh gấp đôi, bởi lẽ tiền phụ cấp lănh nơi nhà chúa bị ngưng phát. Gia đ́nh tôi, mặc dù thuộc hàng hiệp sĩ, lúc sinh thời của thân phụ tôi đă nghèo túng nay càng thiếu thốn hơn (lúc ấy tôi mới sáu tuổi), v́ những khó khăn về kinh tế mà giai cấp hiệp sĩ gặp phải sau ngày chế độ phong kiến bị băi bỏ.
“Vào thời ấy, mất cha có thể là một sự mất mát lớn lao hơn bây giờ, v́ tất cả đều tùy thuộc vào người cha như vị chủ tể trong gia đ́nh, tất cả những bước quan trọng, hoặc thuộc giáo dục, hoặc khi phải t́m một chỗ đứng trong cuộc đời, v.v. tất cả phải do cha định đoạt. Tôi đă mất tất cả những điểm tựa ấy, và khi tôi lên 17 hay l8 tuổi, những bất hạnh dập dồn làm cho tôi bắt đầu suy nghĩ về nghiệp báo của tôi, tại sao tôi đă phải gánh chịu những thiệt tḥi ấy ngay ở ngưỡng cửa cuộc đời?
“Tâm niệm của tôi khởi sự quay về với tôn giáo và triết học, và v́ gia đ́nh tôi thuộc về phái Thiền Lâm Tế (Rinzai), tự nhiên tôi đă hướng về Thiền để t́m câu giải đáp cho những thắc mắc riêng tư”.
Như Sokei-an là người đă bắt đầu thiên về tôn giáo và triết học trong những ngày theo học cấp đại học ở Tokyo, Suzuki đă phối hợp việc nghiên cứu Thiền tông với công phu đèn sách ở nhà trường. Đại sư khởi sự thọ giáo với Imagita Kosen (mà Đại sư có viết một tiểu sử bằng Nhật văn), lúc ấy đang trụ tŕ chùa Enkakuji ở Kamakura (Khiêm Thượng), cách Tokyo chừng 30 dặm Anh. Vào buổi tham kiến lần thứ hai, Kosen dạy Đại sư về tham cứu công án Sekishu (tiếng vỗ của một bàn tay). Lúc ấy Suzuki 21 tuổi c̣n Kosen 76 (ngài là một đại nhơn, về vóc vạc luôn cả về nhân cách.) Một năm sau, Kosen liễu đạo và vị đồ đệ thân tín nhất của ngài, Soyen Shaku (Chiếu Nguyên Giác Thiền Sư) lên kế vị, Ngài tân trụ tŕ này trở thành thầy của Suzuki và cái công án trước kia được ngài đổi ra thành Vô. Suzuki phải công phu khó nhọc suốt bốn năm tṛn mới đạt đến, chưa phải là sự chứng ngộ, mà cái tia sáng đầu tiên gọi là Kensho (Kiến chiếu).
Mùa xuân 1892, lúc tiếp dạy Suzuki, Soyen Shaku mới vừa từ Tích lan trở về, Sau khi theo học giáo lí Nguyên Thỉ và đỗ được bằng giảng sư. Lúc ấy Soyen 25 tuổi. Soyen cũng có theo học tại Đại học đường Keio nhiều môn học Tây phương. Đây là một việc làm hy hữu ở thời ấy, đối với một Thiền sư.
Theo Suzuki, nhiều người đă chỉ trích Soyen về cái học hướng ngoại ấy, kể cả Kosen. Kosen bảo Âu học sẽ không có ích lợi ǵ hết. Nhưng v́ Soyen là một người cả quyết, chẳng những ngài không chú ư đến sự chỉ trích đó mà c̣n quyết định đi Mỹ năm 1893 để rồi trở lại đấy ở lâu hơn. Chính trong chuyến đi sau này, Suzuki đă theo làm thông dịch viên.
Suzuki đă nói nhiều về ấn chứng Satori (Ngộ) trong sách của ông, không phải một cách tổng quát mà nhấn mạnh về cái ấn chứng của riêng ông. Sau một cuộc “tranh đấu trường kỳ”, vào tháng 12 năm 1896, Suzuki ở vào giai đoạn khủng hoảng cực độ trong công phu giải quyết công án đầu tiên. Đại sư viết:
“Khi rốt cuộc mọi sự đă sắp đặt xong để đi Mỹ giúp Tiến sĩ Carus phiên dịch Đạo Đức Kinh, tôi nhận ra rằng mùa đông năm ấy là dịp cuối cùng để cho tôi giải ra công án —cuối cùng v́ nếu không th́ chẳng biết bao giờ tôi giải được. Tôi cần phải đặt vào công phu tất cả nỗ lực tâm linh của tôi.
“Cho đến khi ấy, tôi đă luôn luôn ư thức rằng Vô vẫn ở trong tâm trí tôi, nhưng khi tôi c̣n ư thức về Vô th́ điều ấy có nghĩa là tôi tự tách ra khỏi Vô, và, như vậy th́ không phải ‘chánh định’. Nhưng vào ngày thứ năm, sau khi tập trung tư tưởng, tôi ngưng ư thức về Vô. Tôi với Vô là một, tôi đă đồng nhất với Vô cho đến nỗi không c̣n một hở hang nào giữa Vô và ư thức của tôi. Đây đích là trạng thái tam- ma – đề hay chánh định.
“Nhưng định không chưa đủ. Bạn phải ra khỏi trạng thái ấy, phải tỉnh dậy từ trạng thái ấy và sự thức tỉnh chính là Bát Nhă. Phút ra khỏi trạng thái định và nhận thấy cái ấy là cái ǵ, chính đó là Satori, là Ngộ. Khi tôi ra khỏi trạng thái định th́ trong khoảng thời gian ấy, tôi nói: ‘Tôi thấy, nó đây rồi!’”
Từ Hoa Kỳ, Suzuki trở về Nhật Bản năm 1909, Ông ra làm Giáo sư Anh ngữ tại Đại học đường Per ở Đông kinh, và cũng dạy luôn ở Đại học đường Tokyo Imperial. Năm 1911, ông kết hôn với một thiếu nữ Mỹ, Beatrice Lane, là người cũng thiết tha như ông về Phật giáo và là tác giả của nhiều bài báo cùng một ít sách về đạo Phật. Quyển Mahayana Buddhism (Đại Thừa Phật Giáo) của Bà xuất bản năm 1938 (bà mất năm 1939) đă được tái bản lần thứ ba năm 1959
Trong hơn mười năm nữa, Suzuki tiếp tục thọ giáo với Thiền sư Soyen Shaku (Chiếu Viên Giác) đến lúc Thiền sư viên tịch.
Suzuki thường cư trú tại Engaku-ji, trừ khoảng thời gian từ 1930 trở đi là lúc ông phải về ở Kyoto để làm giáo sư môn triết lư tôn giáo tại Đại Học Đường Otani. Tại thành phố này, Đại sư Suzuki, vào năm 1921 lập tờ tạp chí The Eastern Buddhist (Đông phương Phật tử), trong đó ông đă đăng lần đầu tiên những bài về sau làm nền tảng cho các sách do ông xuất bản. Những tác phẩm quan trọng bằng Anh văn của Đại sư đă được xuất bản trong một thời gian 12 năm, bắt đầu với cuốn Essays in Zen Buddhism, đợt I (1927). Tiếp theo là các quyển Studies in the Lankavatara (1930), The Lankavatara Sutra (1932), Essays in Zen Buddhism, đợt II (1933) Essays in Zen Buddhism, đợt III (1934) (Bà Sasaki đă bản thân đọc sửa bản thảo), The Training of Zen Buddhist Monk (1934), An Introduction to Zen Buddhism (1934), Manual of Zen Buddhism (1935), Zen Buddhism and Its influence on Japanese Culture (1938).
Năm 1936, như đă nói ở phía trước, Suzuki sang Hoa Kỳ và Anh quốc, và đă diễn thuyết tại hai nước ấy.
Trong thời thế chiến, Suzuki sống yên tịnh ở Kamakura (Khiêm Thượng). Sau đại chiến, công ty Rider khởi sự xuất bản toàn bộ tác phẩm bằng Anh văn của Đại sư cho Hội Phật giáo Luân Đôn. Năm 1949, ông lại xuất dương qua các nước Tây phương. Sau hội nghị các triết gia Đông Tây tại Hạ uy di, ông giảng dạy tại Đại Học Đường Hạ uy di một năm. Đến 1950, ông sang dạy tại Claremont College ở tiểu bang California, rồi đi chu du các trường Đại học Hoa kỳ dưới sự bảo trợ của cơ quan Rockefeller.
Đại sư Suzuki bị những thiền gia “cố chấp” chỉ trích về lập trường dễ gây tranh luận mà Đại sư đă nêu lên trong quyển Zen and Japanese Buddhism (Thiền và Phật giáo Nhật bản), xuất bản năm 1958, ngay ở chương đầu, với câu hỏi: “Zen là ǵ? Không phải là Thiền định mà là Bát Nhă”. Chương ấy không binh vực sự chối bỏ công phu thiền định như một một việc làm không cần thiết, như có người chủ trương, mà thật ra nhấn mạnh về sự khai mở trí Bát Nhă là một h́nh thái trực giác cao tột sẵn có trong mỗi người chúng ta. Bát Nhă cao quí hơn trạng thái tập trung tư tưởng là Thiền định, mà đặc điểm là đưa đến sự đánh thức một sức mạnh tâm linh cao độ và tiếp xúc ngay với cái Chân Thể. Ở đây, Suzuki chỉ tŕnh bày lập trường của Lục Tổ, và về sau Đạt sư c̣n nói lại trong quyển The Zen Doctrine of No Mind (Thiền hay Pháp môn Vô Niệm), xuất bản năm 1949 (London, Rider), và về sau nữa c̣n đề cập đến trong những tập thuộc bộ Zen Buddhism do William Barrett xuất bản tại Nữu Ước năm 1956. Đại sư Suzuki đă kết luận:
“… Cứ theo các lời tuyên thuyết ấy (liên hệ đến việc Thiền tông nhấn mạnh về điểm cần phải đạt Huệ) th́ rơ ràng Thiền tông không tự tách ra khỏi công phu nhập định, và cái mà Thiền tông muốn đề cao là việc cần phải đạt đến giác ngộ, và như vậy th́ Thiền tông chẳng những theo sát gương sáng của đức Phật mà c̣n đi đúng với giáo pháp của Ngài. Không ai chối căi rằng Thiền định là một bước quan trọng về hướng chứng Huệ, nhưng Thiền tông không tin rằng Thiền định là phương tiện duy nhất để đi đến mức cứu kính chung cho toàn bộ pháp môn Phật giáo.”
Để tỏ rơ quan điểm của ḿnh, Suzuki đă nói trong mấy trang sau của Zen Buddhism:
“Trước Lục Tổ Huệ Năng, Thiền định có vẻ như cách biệt với Bát Nhă (hay Huệ). Tuy không phải không biết sự quan trọng của Bát Nhă, các Tổ thừa kế h́nh như vô t́nh đă tự khép ḿnh cho thích hợp với truyền thống Ấn độ. Sự thật, các Tổ không bao giờ xem thường Bát Nhă, song le các Tổ không thể nhấn mạnh một cách rơ rệt, có ư thức và quyết liệt như Lục Tổ, về sự tối quan trọng của Bát Nhă đối với Thiền định”.
Tuy một đôi khi Suzuki được xem như người đối lập với “khối” Thiền gia chủ trương lấy Thiền định làm phương tiện đạt Huệ quan trọng nhất, Đại sư vẫn là người có tọa thiền. Chính tôi đă nhờ Bác sĩ Stunkard mà biết được câu truyện sau đây. Stunkard là bác sĩ tư của Suzuki; nhân một buổi khám bệnh thường lệ, ông không khỏi nhận thấy các sớ thịt phía dưới bụng của Đại sư nổi lên cứng rắn, giống như ở các nhà sư tọa thiền. Bác sĩ hỏi tại sao vậy, Suzuki trả lời: “Đó là một thói quen”.
Trong quyển “Early Memories”, Suzuki đă nhắc đến câu truyện sơ ngộ với “thói quen” ấy. Một ông giáo của trường Suzuki học lúc nhỏ là một pháp tử của Kosen lmagita Roshi. Một hôm, nhà mô phạm ấy, lúc đó đă già, tặng cho chú nhỏ Suzuki một bản sao sách Hakuin’s Orategama (hiện nay đă được Tiến sĩ Shaw dịch ra Anh văn dưới nhan đề “The Embossed Tea-Kettle” (Cái Ấm Chè Điêu Khắc). V́ muốn hiểu rơ hơn ư nghĩa của sách, Suzuki quyết định đi t́m Thiền sư Setsumon ở cách đó khá xa. Nhắc lại việc này, Đại sư Suzuki viết:
“Tôi tới bái yết Thiền sư mà không được một lời giới thiệu của ai cả, nhưng các vị tăng ở chùa sẵn ḷng thâu nhận tôi ngay. Các vị nói với tôi rằng Thiền sư đi vắng, tuy nhiên tôi có thể tập tọa thiền trong một pḥng của chùa nếu tôi muốn. Các vị dạy tôi cách ngồi, cách thở, rồi bỏ tôi ngồi một ḿnh sau khi dạy tôi cứ thế mà tiếp tục. Sau một đôi ngày, Thiền sư trở về, họ đưa tôi đến yết kiến Ngài. Thuở ấy tôi thật t́nh không biết ǵ về Thiền và không có một ư niệm ǵ về nghi thức của nhà Thiền. Họ chỉ dặn tôi ra bái yết Thiền sư và tôi tuân lời, mang theo bản sao sách Orategama.
“Tập sách này được bố cục bằng một văn phạm giản dị, nhưng có vài danh từ khó về Thiền tông mà tôi không hiểu được, nên tôi nhờ Thiền sư cắt nghĩa. Ngài tỏ ra giận dữ và nói với tôi: “Sao ngươi lại hỏi ta những điều ngu xuẩn như thế?” Tôi bị đuổi về pḥng không được một lời chỉ giáo nào khác hơn là lịnh tiếp tục ngồi kiết già…”
Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với Đại sư Suzuki là tháng 8 năm 1950. Khi được Nyngen Senzaki, một đệ tử của Soyen Shaku cho biết là tôi đang có mặt tại California, Đại sư bèn gọi tôi đến và tôi đă gặp Đại sư vào một buổi xế chiều. Một điều làm cho cả Đại sư và ngài Nyngen Senzaki lưu tâm đặc biệt là việc Sư Sokei-an (Tào Khê Am) liễu đạo bất ngờ vào năm 1945. Mặc dầu Sư lúc ấy đă 63 tuổi, Suzuki và Senzaki vẫn tỏ ư tiếc rằng sư đă qua đời quá sớm.
Đến mùa thu năm ấy, Suzuki đến Nữu Ước và tại đây, Ô. Lawrence B. Chrow đă sắp đặt cho Đại sư có dịp diễn thuyết 12 lần ở Church Peace Union, nhờ sự trung gian của Ô. Atkinson cầm đầu tổ chức ấy. Nhơn tiện cũng nên biết rằng đây là nhóm Cơ đốc ở Hoa kỳ lần đầu tiên đă đón tiếp một diễn thuyết gia của Phật giáo. Một nhóm khác, thuộc phái Quaker ở Pendle Hill, tiểu bang Pensylvania, cũng đă tỏ vẻ để ư đến Đại sư Suzuki và những người Phật tử khác từ Nhật Bản đến.
Nhờ có buổi diễn thuyết của Đại sư kéo dài đến ngày 13-1-1951 mà tập hợp được một số thính giả để về sau tổ chức một cuộc hội thảo tại Đại học đường Columbia. Đây là tiểu tổ đầu tiên cho công việc phổ biến Thiền tông từ hàng thượng lưu trí thức (bác sĩ thần kinh học, nghệ thuật gia, văn sĩ, tư tưởng gia) đến hàng “tân hiện sinh” (beatniks) và sinh viên. Tôi có dự thính vài buổi thuyết tŕnh tại Đại học đường Columbia, và đề tài chính vẫn là đề tài mà Đại sư Suzuki đă thuyết tŕnh, vào lần thứ hai, cho Thiên Hoàng nghe hồi năm 1946, tức là vấn đề: “Yếu lư Phật giáo”.
Đại sư nóỉ:
“Lâu đài nguy nga của Phật giáo được xây dựng trên hai trụ cột căn bản: Đại Trí, hay Bát Nhă ba la mật (Maha Prajna), và Đại Bi (Maha Karuna).”
Những lời sau đây mà Đại sư đă tâu lên Thiên Hoàng có thể làm cho các thính giả Tây phương hiểu được phần tinh yếu của cái mà Đại sư muốn nhắn gửi đến họ:
“Cứu cánh của triết lư Đạo Phật là phải đạt đến quan niệm “sự sự vô ngại” của Hoa Nghiêm tông. Theo tôi hỉểu, đó là mức độ cao nhất của tư tưởng Đông phương mà trí huệ của người Phật tử phải đạt đến, và đó cũng là phần đóng góp của nước Nhật cho nền triết học thế giới.” (Bà Sasaki có viết một toát yếu về lư thuyết nói trên trong một tập sách nhỏ nhan đề “Zen, a Religion” (Thiền, một Tôn giáo).
Trong sáu năm tiếp theo đó Suzuki đă trở thành một danh nhân thế giới, h́nh ảnh được đăng trên các báo và được báo Time tán dương. Con người vóc bé nhỏ, mang pháp hiệu “Daisetz” (Đại khiêm tốn), đă thu hút được óc tưởng tượng của người phương Tây, làm cho họ cảm thấy nơi Đại sư sự thể hiện h́nh ảnh một vị Thiền sư mà Suzuki đă gắng tạo ra trong tâm trí họ.
Tạp chí The Sciences, xuất bản tháng ba năm 1966 đă thuật cách Đại sư hành thiền và câu truyện được công chúng thừa nhận.
Sau đây một đoạn bài báo của The Sciences:
“Trạng thái tâm thức mà các nhà huyền bí gọi là Thiền định, tánh chất nó như thế nào? Trạng thái ấy khác với trạng thái tỉnh giấc hay ngủ mê ra sao?
“Sự thâm hiểu các dị biệt ấy có thể tŕnh bày nương vào một giai thoại sau đây về Đại sư Suzuki. Năm 86 tuổi, Đại sư có dự thính một buổi diễn thuyết về Thiền và Phân tâm học. Trong một đoạn quá đặc biệt kéo dài, Đại sư ngồi yên lặng, đôi mắt nhắm lại, xem vẻ như đă ngủ. Đột nhiên, một ngọn gió nhẹ thổi qua, làm các tờ giấy trên bàn bay lung tung xung quanh các người ngồi bên cạnh đang mở mắt tỉnh táo. Chớp nhoáng, tay Đại sư, đưa ra bắt các giấy ấy và đặt lại trên bàn cẩn thận, trong lúc các người ngồi cùng bàn không có một phản ứng nào kịp thời.”
Hiện nay, cái tài thiếp ngủ bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào của Đại sư Suzuki được nhiều người Nhật và một ít người nước khác chia sớt. Mặc dầu khả năng ấy được các nhà nghiên cứu mô tả như là “nhập định”, nó chắc có chỗ liên quan với một hiện tượng được Gay Gaer Luce và Julius Segai thuật lại trong một quyển sách gần đây tựa là “Sleep” (Giấc ngủ). Hai tác giả ấy đă tự hỏi phải chăng cái tài ngủ dễ dàng và tùy ư muốn ấy là một đặc ân trời ban cho ai nấy được. Họ c̣n nói rằng dân của bộ lạc man rợ Yahagans có thể thiếp ngủ dễ dàng, nhưng vẫn tỉnh táo để quan sát. Những dân của bộ lạc ấy muốn ngủ là ngủ, nhưng cũng tỉnh giấc mau chóng. dễ dàng và tỉnh táo ngay. Mặc dầu ngủ, họ như tuồng theo dơi các sự việc, để rồi khi thức tỉnh, họ tỏ ra hiểu biết tường tận tất cả những ǵ đă xảy ra trong lúc họ ngủ.
Một giai thoại trong buổi diễn thuyết do Ô. Erich Fromm tổ chức tại Mễ tây cơ và về sau được ông viết lại trong quyển Zen and Psychoanalysis (Thiền và Phân tâm học), mà tôi thích thú rất nhiều đă được Ô. Albert M. Stunkard, Khoa trưởng Thần Kinh Học tại Đại học đường Pensylvania và là người đă học Thiền khá lâu, kể lại như sau. Có người hỏi ư kiến của Đại sư về xu hướng của con người muốn đi ngược ḍng thời gian để trở thành đứa nhỏ ngồi trên đầu gối mẹ, rồi đứa bé ấy lại muốn nhỏ hơn nữa để nằm trong bụng mẹ như lúc c̣n trong thai. Theo lời thuật lại, Đại sư đă trả lời như sau:
“Tôi đang tưởng đến con người mong trở thành một đứa nhỏ ngồi trên gối mẹ, rồi mong trở thành một hài nhi, và tôi đang tưởng đến đứa hài nhi mong được nằm trong ḷng mẹ và tôi đang… Khoái thay cho hài nhi ấy!”
Từ tuổi tứ tuần, Suzuki đă nổi danh, nhưng ông chưa được lúc nào gọi là giàu có. Sống trong cảnh hàn v́ từ lúc nhỏ, Suzuki đă phải nghỉ học một dạo v́ không có tiền trả học phí. Sau đó, nhờ một người anh giúp đỡ, ông đă đi học lại. Lúc ấy, trong một cuộc mạn đàm với hai người bạn thân, Kitaro Nishida và Yakichi Ataka, cả ba đều bàn tính đến tương lai. Nishida có tham vọng trở nên một nhà triết học (mộng này đă thực hiện và ông đă thành một nhà triết học danh tiếng), Suzuki th́ muốn thành một văn sĩ, c̣n người bạn thứ ba th́ muốn thành một nhà kinh doanh giàu có để giúp hai bạn kia. Trên thực tế, Yakichi Ataka đă giữ lời hứa. Trong bài tựa sách Essays đợt I, Suzuki đă tâm sự rằng việc xuất bản thành sách những tác phẩm đầu tiên này là nhờ sự tận t́nh ủng hộ về vật chất lẫn tinh thần của Yakichi Ataka ở Osaka, người bạn cố tri đă không quên lời hứa nửa thật nửa đùa của lúc thiếu thời, là ra đời, anh em giúp đỡ nhau.
Trong bài tựa ấy, Đại sư Suzuki đă cho mục đích của ông khi viết về Thiền như là một “cố gắng thô sơ để tŕnh bày Thiền theo quan điểm thông thường của thế nhân và như một đạo thống trực tiếp của ḷng tin Phật tử hợp với lời tuyên bố của đức Phật, hay đúng hơn, hợp với sự tu chứng của đức Phật. Tôi hy vọng đă thắng phục được một vài khó khăn thường làm cho chúng ta không thấu đáo được tư tưởng của Thiền tông. Tôi đă thành công đến mức độ nào hay đă thất bại hoàn toàn? Lẽ đương nhiên, xin để bạn đọc phê phán.”
Riêng tôi là người đă lănh hội được phần nào tám mươi năm Thiền nghiệp của Suzuki, tôi nghĩ chỉ có thể đem lời của Zuigan Goto Roshi nói với Vanessa Coward để kết luận:
Chuyện Quả Báo Nhăn Tiền - Tác giả: G̣ Vấp. Nên đọc, xin đừng bỏ qua
Làm người phải có nền tảng luân thường đạo lư. Nhất là người Á Đông chúng ta. Luân thường đạo lư là Thờ Cha, Kính Mẹ, thương yêu mọi người, nhất là người ơn của ḿnh. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là 5 điều mà con người tốt phải noi gương theo.
Nhất là người Việt chúng ta, sự quan trọng nhất là Quả báo do gieo Nhân. Đây không hẳn là từ đạo Phật mà dạy truyền cho chúng ta, nhưng đó là điều có thật.
Sau đây là những câu chuyện với h́nh ảnh là những việt kiều tai Hoa Kỳ, do tác giả chứng nhân kể lại trong sách hồi kư của họ.
Câu chuyện thứ nhất :
Ngày xưa lúc chúng tôi c̣n học lớp Sixieme tại trường Taberd Saigon, thầy giáo mà chúng tôi gọi là frere (sư huynh), thầy dạy giáo lư. Một vị tu sỉ đạo Công giáo , làm nghề dạy học, tánh t́nh tốt không thua ǵ những thầy giáo đạo Khổng là xem học tṛ như con ruột.
Frere Vial thấy dư giờ, sợ học tṛ giởn hớt th́ phiền lớp kế bên. Nên frere mói kể chuyện ma cho học tṛ teo gân mà quên phá lớp. Frere kề có một cặp vợ chồng, khi nào mưa to gió lớn th́ người ta thấy đôi vợ chồng nầy hiện ra, đi ṿng quanh trong nhà thờ. Chân mang ḷi tói đi rổn rảng. Học tṛ nghe chuyện nầy teo “bu ǵ“ hết ráo. Học tṛ có hỏi frere nhà thờ đó là nhà thờ ǵ vậy? Frere không trả lời chỉ ừ hử mà thôi.
Hơn 40 năm trôi qua, khi đọc quyển Hồi Kư 2 của tác già Huỳnh Văn Lang, ông tiết lộ câu chuyện đó ông cũng nghe lúc c̣n nhỏ, và nhà thờ đó là nhà thờ Huyện Sĩ Saigon.
Ngày xưa đó, Huyện Sĩ là người giàu nhất Đông nam Á thời dó, ruộng vườn miệt Long An là của ông ta. Ông để đức lại cho hậu thế bằng cách xây nhà thờ mang tên ông là Huyện Sỉ. Xác 2 vợ chồng Huyện Sỉ được đặt trong 2 mă đúc mă bằng đá cẩm thạch, nằm trong bên trái nhà thờ. Hy vọng ngày kia hồn và xác sống dậy mà lên Thiên đàng. Hai vong hồn mang ḷi tói đi đau khổ quanh nhà thờ khi mưa to gió lớn chính là vợ chồng Huyện Sĩ nầy.
Nhà thờ Huyện Sỹ – Wikipedia
Câu chuyện thứ nh́ :
Vào thuở năm 1900 – 1920…Lúc Saigon dân chúng c̣n thô sơ , khuya về thường thắp đèn dầu loe loét, sau nầy mới xài đén “măng xông“, rồi đèn điện, đèn neon, đèn LED…
Một buôi sáng sớm, vợ chồng người Tây, đi tản bộ buổi sáng sớm. Vợ chồng thường thấy một sạp bán chuối , chợ Thị Nghè. Chồng th́ lo treo chuối trên quầy, vợ th́ lo quét sạp chờ b́nh minh lên th́ có khách đến mua. Bên cạnh là đứa bé dể thương đang ngũ gà ngũ gật. Vợ chồng người Pháp sắp về Pháp v́ đến tuổi hưu. Không con nên vợ chồng nầy bèn xin vợ chồng người Việt có sạp bán chuối ngoài ṿng chợ Thị Nghè.
Ngần ngừ cả tuần, sau đó vợ chồng bán chuối nầy đồng ư cho đứa con trai của ḿnh, cho cặp vợ chồng Tây đem con ḿnh sang Pháp mà nuôi ăn học. Thời gian sau đứa bẻ học thành tài ra bác sĩ. Thay v́ ở lại làm việc tại Paris, th́ bác si trẻ nầy về lại Việt Nam. Ông mở pḥng mạch rất đắt khách v́ tốt nghiệp bên Pháp là hiếm tại Việt nam thời ấy.
Cuối tuần hay lễ nghĩ th́ ông đến chợ Thị Nghè khám bệnh cho thuốc không tính tiền. Bác sỉ ấy làm phước lại cho dân Việt nghèo. Bác sỉ ấy là cha ruột của Trung tướng Trần Văn Đôn sau nầy
Tại Hưng Yên hay tại ngoài Bắc Việt. Có một thầy giáo tuồi về hưu, thường đạp xe đạp về thôn quê. Ông dạy học không tính tiền cho trẻ nghèo. Đôi khi ông bỏ tiền túi mua sách cho học sinh nghèo không đủ tiền mua sách vở. Ông tích đức cho con cháu sau nầy.
Ông cụ già ấy chính là cha ruột của Thạc sĩ Vũ Quốc Thúc (Ông làm Khoa trưởng trường Luật Saigon).
Câu chuyện thứ tư :
Tại vùng cực Nam miền Nam Châu Đốc – Chắc Cà Đao - chẳng hạn. Có một điền chủ rất giàu, ông xây dựng trường học cho trẻ em nghèo trong vùng ông ta, ông xây cầu cho khách sang sông kḥi cần chờ đ̣ ngang. Tá điền nghèo khi thất thu lúa, ông thường xuất gạo cho và cho tiền khi bệnh hoạn, ốm đau.
Ông điền chủ giàu tích đức cho con cái đó là cha ruột của t́ phú Nguyễn Tấn Đời sau nầy.
Câu chuyện thứ năm :
Tại Phnom Penh, có một ông chủ hảng nước mắm. Nhân công người Miên rất nhiều. Ông trả lương rất hậu, khi gia đ́nh nhân công người Miên nào bị bệnh th́ ông cho tiền đi thầy thuốc. Tết ông cho tiền rất nhiều.
Khi về hưu, bán hảng nước mắm lại cho một người Hoa, khi từ giả th́ gần như cả làng người Miên làm nhân công cho ông, đứng xếp hàng ứa nước mắt. Ông chủ hàng nước mắm tích đức cho con cháu ấy chính là ông nội của chúng tôi vậy.
Câu chuyện thứ sáu:
Vào buồi chiều sắp tắt nắng, vào ngày 30/4/1975. Một chiếc tàu nḥ chở xăng trên sông Saigon. Tàu ấy mang phù hiệu Shell. Trên Tàu có một anh chàng Trung úy trẻ, rả ngủ vào giờ thứ 25. Cứu được gần 12 người Lính thủy quân lục chiến đứng thất hồn tại bờ sông kho Năm Saigon.
Tàu đó đông người, khi đến cửa sông Nhà Bè , th́ thấy một chiếc chiến hạm nhỏ của hải quân VNCH . Chiếc tàu nầy hư máy một cách bí mật. Trên bong tàu có một số người đứng lố nhố, vẩy tay xin quá giang khi thấy tàu chạy ngang. Không tàu nào thèm ngừng chở những người giàu đứng trên bong đó.
Viên Trung Úy trẻ nầy bèn ra lệnh cho tàu ngừng lại, cho những người ấy quá giang tàu ḿnh. Có khoảng 6 người được tàu Shell cứu đem lên. Họ nói là nếu về khuya th́ họ rất sợ v́ nghe thủy thù nói rầm ŕ là họ có đem va ly vàng nặng mang theo. Cứu họ là họ mừng hết sức. Anh trẻ ấy đang vận áo quần màu xám xanh dương nhạt, kiểu áo lănh tụ thời đó, áo bốn túi …
Anh trẻ ấy là Dược sỉ Mă Gia Minh, chồng của ca sĩ Hoàng Oanh hát tiếng Huế rất dể thương. Người sỉ quan trẻ cho tàu ngừng ấy chính là thằng G̣ Vấp nầy vậy. Chiếc tàu mang tên Shell là do nhóm đại tá VNCH mua từ lâu. Đại tá ấy là Đại tá Lư, vợ ông ta là người thân với vợ của kẻ nầy . Nên tàu đi ra khơi không sợ cướp bóc xảy ra.
Cho nên nếu có dịp làm đức th́ cứ làm, đừng ngại ngần ǵ cả. Nếu ḿnh không có tiền nhiều th́ nên hiến máu cho người bệnh. Nếu có máu O + thỉ tốt nhất .
Dĩ nhiên trên cỏi đời nầy có nhiều người làm phước mà G̣ Vấp không làm được, như cách đây không lâu, tại Santa Ana. Có một phụ nữ người Mỹ c̣n trẻ, t́nh nguyện hiến tặng 1 quả thận cho một anh sinh viên Việt Nam đang cần thận để sống. Thận được cho, cứu mạng anh sinh viên trẻ ấy. Mặc dầu 2 người chưa hề quen biết.
Khi G̣ Vấp được 3 gia đ́nh họ đạo Presbyterian Church bảo lảnh ra khỏi trại Indiantown Gap ở Pennsylvania Hoa Kỳ.
Ngày kia anh rời khỏi họ đạo , khi có đứa con trai đầu ḷng … G̣ Vấp bèn đặt First name của một gia đ́nh sponsor chính trong họ đạo Presbyterian Church cho con trai anh ta, c̣n họ th́ vẫn giữ như cũ. Rồi sau đó cho cả gia đ́nh từ Santa Ana bay sang New Jersey mà thăm họ đạo ấy. Ông bà sponsor cảm động và cha xứ nhà thờ Presbyterian Church nói một câu cảm động: “ Nhà thờ nầy bảo trợ nhiều cho gia đ́nh Việt Nam, mà chỉ có gia đ́nh G̣ Vấp c̣n nhớ ơn, c̣n đặt tên gọi First name của ông bà sponsor cho con trai ḿnh. Đó là một sự cám ơn tốt của người Việt.
Cho nên chuyện nhân quả có thật. Không phải giàu nứt vách mà xây Chùa hay nhà Thờ là được phước, mà chính tay ḿnh cho người nghèo mới là tạo phước.
Kỳ sau sẽ nói đến tay giàu kinh khủng thời VNCH I, đó là Ông Huỳnh Văn Lang vậy. Ông viết sách rất nhiều. Từ một anh thợ hớt tóc tại Đà Lạt, theo pḥ Ngô Đ́nh Nhu rồi giàu sang bốn biển. Nhà cửa 4- 5 biệt thự có cả biệt thự tại Pháp. Huỳnh Văn Lang là cánh tay mặt của ông Nhu Đàng Cần Lao… Nay về già, viết sách le lói, nhưng câu nhập đề quyển 1 của nhà văn Đỗ Tiến Đức (chủ báo Thời Luận Los Angeles) viết như sau (trang 14 – Quyển 1 Kư Ức Huỳnh Văn Lang) : “Đến thăm cụ trong căn pḥng “share“ (chung phần với nhau) trong khu mobile home, cụ vui vẻ “thuyết tŕnh“ cách sắp đặt dù giang sơn chỉ có vài ba chục mét vuông. Cụ đi chợ và nấu ăn lấy…
Một lần tôi xúc động lặng người khi mời cụ ra tiệm ăn cơm tối, lúc ăn xong, cụ nói rất tự nhiên rằng: “Tôi có thề lấy những món ăn thừa nầy để ngày mai ăn được không?“
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.