“Tôi đánh giá rất cao việc thực hiện chính sách hỗ trợ này ở Thái B́nh. Nhân tổng kết công tác dân số năm 2012, mỗi gia đ́nh sinh 2 con gái được hỗ trợ 1 chiếc quạt cây trị giá chưa đến 1 triệu đồng…”.
Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế, TS. Dương Quốc Trọng kể về trường hợp ở Thái B́nh nhân đề xuất "Hỗ trợ kinh tế cho gia đ́nh sinh con một bề là con gái" trong Đề án Can thiệp, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh (GTKS).

Ông Dương Quốc Trọng - Tổng Cục trưởng Cục DS-KHHGĐ. "Đầu từ có lăi"
PV: Hàng năm Chính phủ vẫn dành một khoản ngân sách cho công tác truyền thông vận động DS-KHHGĐ, xin ông cho biết, số tiền này là bao nhiêu? Đă có chính sách tuyên truyền nay lại tiếp tục đưa ra đề xuất "Hỗ trợ kinh tế cho gia đ́nh sinh con một bề là gái", phải chăng việc chi ngân sách cho công tác truyền thông vận động từ trước tới nay đem lại hiệu quả không cao?
TS. Dương Quốc Trọng: Nói nhà nước bỏ tiền đầu tư cho công tác truyền thông vận động DS-KHHGĐ mà hiệu quả chưa cao, tôi thấy chưa ổn. Chúng ta cần biết rằng, trước khi Quốc hội thông qua chương tŕnh mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn 2011-2015 đă yêu cầu Chính phủ, Bộ Y tế đánh giá về kết quả của giai đoạn trước và tính hiệu quả của giai đoạn tới. Kết quả cho thấy chương tŕnh mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ, trong đó có công tác truyền thông giáo dục có hiệu quả rất cao.
Cách đây 20 năm, các nhà khoa học trong nước cũng như quốc tế đă dự báo dân số của nước ta đến năm 2010 sẽ là 105 triệu người. Trên thực tế, năm 2010 dân số nước ta mới chưa đến 87 triệu người. Nói cách khác là trong ṿng 20 năm qua, chúng ta đă tránh sinh được 18 triệu trường hợp.
So sánh với Philippines, cách đây 20 năm, dân số Philippines ít hơn Việt Nam 4 triệu người nhưng đến nay, dân số Philippines đông hơn Việt Nam 14 triệu. Như vậy, sau 20 năm, so với Philippines, chúng ta cũng tránh sinh được 18 triệu người.
Như vậy, việc dự báo của các nhà khoa học trong và ngoài nước là hoàn toàn chính xác. Ngân sách nhà nước đầu tư cho trương tŕnh mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ trong 20 năm qua vào khoảng dưới 4 ngàn tỉ đồng nhưng đổi lại chúng ta đă tránh sinh được 18 triệu trường hợp.
Điều đó có ư nghĩa rất lớn đối với sự phát triển KTXH của đất nước nói chung và nâng cao mức thu nhập b́nh quân đầu người nói riêng. V́ vậy, hiệu quả đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ trong thời gian qua là rất lớn.
V́ sao có đề xuất hỗ trợ kinh tế cho gia đ́nh sinh con một bề là con gái? Phải chăng là cơ quan tham mưu đă nh́n nhận ra một thực tế, sự bức thiết của sự mất cân bằng giới tính hiện nay? Ông đánh giá thế nào về hiệu quả của đề xuất này một khi được thông qua và đi vào thực hiện?
Đối với vấn đề mất cân bằng GTKS, chúng tôi đă nhiều lần phân tích về 3 nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhất thứ nhất là tư tưởng Nho giáo, ḷng mong muốn có con trai để nối dơi tông đường. Đây là nhóm nguyên nhân quan trọng nhất, nổi bật nhất.
Nhóm nguyên nhân thứ hai là cần phải có con trai để làm kinh tế như vùng biển để đánh bắt xa bờ
Nhóm nguyên nhân thứ 3, nhóm nguyên nhân trực tiếp là lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh.
Theo xác suất tự nhiên, nếu tất cả chỉ sinh 1 con sẽ có 49% gia đ́nh không có con trai. Nếu tất cả đều sinh hai con th́ sẽ có 24% gia đ́nh không có con trai và 26% không có con gái và xă hội sẽ hài ḥa. Mấu chốt nằm ở chỗ 24% này, đang lẽ họ chấp nhận không có con trai nhưng không, họ t́m mọi cách để có bằng được con trai!
Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi cũng có 3 nhóm giải pháp tương ứng.
Tôi không muốn bàn về vấn đề tâm linh của việc làm đó nhưng rơ ràng là đă để lại những hệ luỵ vô cùng nguy hại đối với ṇi giống dân tộc ta, đất nước ta. Các nhà khoa học đă dự báo Việt Nam sẽ “dư thừa” từ 2,3-4,3 triệu nam giới. Bài học nhăn tiền của các nước xung quanh, chúng ta đều đă thấy.
Liên hợp quốc đă tính toán, Trung Quốc “dư thừa” 67 triệu nam giới, Ấn Độ 42 triệu nam giới… Tổng 14 quốc gia, “dư thừa” khoảng 117 triệu nam giới và nó sẽ dẫn đến sự khủng hoảng cơ cấu dân số vô cùng ghê gớm.
Hỗ trợ gia đ́nh sinh con một bề là gái chỉ là giải pháp tạm thời.
Phải nh́n vào túi tiền
Theo ông, đề xuất đă được nghiên cứu, khảo sát rất kỹ, vậy theo tính toán con số thuộc diện được hưởng chế độ hỗ trợ là bao nhiêu? Và để thực hiện được đề án này bắt buộc phải có kinh phí, ông đă tính toán cụ thể khoản kinh phí phục vụ cho đề án?
Hiện nay chúng tôi chưa có con số cụ thể. Đây mới chỉ là đề xuất đưa ra ư tưởng, c̣n con số cụ thể th́ các Bộ, ngành liên quan phải ngồi lại với nhau để rà soát, xây dựng. Nếu được hưởng th́ chỉ được hưởng từ thời điểm văn bản có hiệu lực và không có tính hồi tố.
Ở nước ta mỗi một năm có khoảng 1,4 -1,5 triệu trẻ được sinh ra và chúng tôi có tỷ lệ sinh con thứ nhất, thứ hai và thứ ba trở lên là bao nhiêu. Và việc hỗ trợ này chỉ hỗ trợ cho gia đ́nh thực hiện đúng chính sách DS-KHHGĐ tức là 2 con và đều là con gái.
Việc áp dụng mức hỗ trợ này cụ thể sẽ như thế nào? Hỗ trợ trong 1 tháng, 1 năm hay tới khi trưởng thành. Theo ông, nếu được thông qua th́ khi nào đề án sẽ được thực hiện?
Để thực hiện được đề xuất này, nguồn kinh phí chủ yếu dựa vào ngân sách của nhà nước ở trung ương và địa phương, ngoài ra là huy động từ nguồn khác.
Trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn như hiện nay, chúng tôi chưa có bàn cụ thể. Nhưng có thể trước mắt chỉ hỗ trợ khi sinh 2 con gái. C̣n tùy vào ngân sách sẽ có những bàn bạc cụ thể. Thực sự mà nói, chúng ta phải xem trong túi chúng ta có bao nhiêu tiền, lúc đó mới tính được.
Tôi hi vọng và mong muốn sẽ được áp dụng từ năm 2013.
Đó là với những gia đ́nh sinh hai con và đều là con gái, c̣n đối tượng được hưởng chế độ an sinh xă hội th́ sao? Chính sách hỗ trợ, thời điểm được áp dụng như thế nào?
Chúng tôi biết hiện nay kinh tế nhà nước c̣n nhiều khó khăn, ngân sách c̣n phải chi trả cho nhiều việc khác nhau. Do vậy, trước mắt, ưu tiên số 1 là việc hỗ trợ trực tiếp cho những gia đ́nh sinh con một bề là con gái và những trường hợp đó sinh ra kể từ thời điểm văn bản có hiệu lực pháp luật.
C̣n với trường hợp như khi trẻ lớn lên đi học được hỗ trợ học phí, hay hỗ trợ cha mẹ khi về già mà không có lương hưu… Đó là kinh nghiệm các nước. Nếu chúng ta có kinh phí, có đủ khả năng tài chính th́ chúng ta học tập kinh nghiệm các nước là rất tốt.
Nhưng với điều kiện hiện nay, chúng ta ưu tiên áp dụng hỗ trợ trực tiếp cho những gia đ́nh sinh con một bề là nữ. Sau này nếu có kinh phí th́ ḿnh sẽ mở rộng ra.
Sinh 2 con gái được hỗ trợ 1 chiếc quạt cây
Mục tiêu của đề xuất là dùng kinh tế để điều chỉnh sự mất cân bằng GTKS. Theo ông, dùng biện pháp kinh tế liệu có chiến thắng được định kiến xă hội? Ông có tính đến t́nh huống coi hỗ trợ như h́nh thức thương hại, xúc phạm dẫn đến những tự ái, mâu thuẫn phát sinh trong gia đ́nh?
Tôi cho rằng, không ai v́ đồng tiền mà từ bỏ ư định sinh con trai. Tôi nhận thấy, việc hỗ trợ về kinh tế là hết sức quan trọng. Điều này có tác dụng tuyên truyền, lan tỏa rất lớn và đồng thời thể hiện sự quan tâm của Đảng, nhà nước đối với các gia đ́nh sinh con một bề là nữ. Điều đó giá trị hơn tiền rất nhiều và có giá trị nhân văn sâu sắc. Xă hội cần ghi nhận điều đó.
Tôi đánh giá rất cao việc thực hiện chính sách hỗ trợ này ở Thái B́nh. Nhân tổng kết công tác dân số năm 2012, mỗi gia đ́nh sinh 2 con gái được hỗ trợ 1 chiếc quạt cây trị giá chưa đến 1 triệu đồng. Khi hai bố mẹ và hai con gái mang quạt về thôn, làng xóm ngỡ ngàng, họ bảo sinh hai con gái nên được thưởng.
Đó là ư nghĩa vinh danh, ư nghĩa tuyên truyền. Đối với người Việt Nam ta, điều đó có ư nghĩa vô cùng. Nhân gian vẫn thường nói “một miếng giữa đàng hơn một sàng xó bếp” hay “một trăm đồng tiền công không bằng một đồng tiền thưởng”.
Cá nhân tôi và tôi tin rằng, hầu hết trong xă hội đều không bao giờ nghĩ rằng ḿnh sinh 2 con gái để nhận ít tiền thưởng cũng như tôi và những người làm công tác DS-KHHGĐ, những người thực hiện KHHGĐ trong cả nước chưa bao giờ nghĩ rằng đi triệt sản để lấy mấy trăm ngàn.
Nếu suy nghĩ theo hướng đẻ con gái để nhận hỗ trợ là hạ thấp, coi rẻ người được nhận và không thấy được ư nghĩa nhân văn của chính sách. Đó là những suy nghĩ thiển cận, không mang tính xây dựng.
Tôi tin, có chính sách hỗ trợ này, đại đa số người dân sẽ suy nghĩ, sẽ thấy ḿnh được quan tâm, chia sẻ nhiều hơn chứ không phải là ḷng thương hại, hay là sự xúc phạm.
Tuy nhiên, tại nhiều vùng quê định kiến xă hội c̣n rất nặng nề, nhất là trong những gia đ́nh trưởng chi, trưởng họ. Những gia đ́nh có điều kiện họ sẵn sàng chịu phạt để sinh được con trai. Theo ông, giải pháp hỗ trợ kinh tế liệu có đủ sức thay đổi được thực tế, định kiến xă hội hay cũng chỉ mang tính h́nh thức tượng trưng?
Tôi xin nhấn mạnh rằng việc hỗ trợ tiền không phải là giải pháp duy nhất, đây chỉ là giải pháp hỗ trợ. Giải pháp quan trọng nhất vẫn là tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục.
Nói chuyện vui, ở quê tôi cũng không phải là ngoại lệ. Tôi là con trai, xa quê nhưng có giỗ, Tết tôi vẫn phải đóng góp. Những người chị của tôi ở quê vẫn thay tôi đóng góp nhưng các chị ấy lại không được “quyền đóng góp” vào những dịp giỗ này mà chỉ là đóng góp hộ cho tôi, cho con trai tôi. Đó là phong tục, tôi cũng biết để thay đổi một phong tục, một thói quen là rất khó.
Nhưng nếu chúng ta cứ để t́nh trạng mất cân bằng GTKS như hiện nay th́ tương lai đất nước sẽ ra sao? Chính v́ vậy phải can thiệp. Can thiệp quyết liệt, triệt để, ngay từ bây giờ. Tuy nhiên, giải pháp hỗ trợ kinh tế chỉ là giải pháp mang tính hỗ trợ, giải pháp t́nh thế. Khi nào t́nh thế đă ổn định, không c̣n t́nh trạng mất cân bằng GTKS th́ không cần dùng đến giải pháp này nữa. Lúc đó sẽ bỏ.
Xin cảm ơn ông!
Đất Việt