MỘT CÂU CHUYỆN Ý NGHĨA
Ông Winston Churchill –
Cựu Thủ tướng Anh từng nói rằng “chúng ta sinh sống bằng những gì chúng ta kiếm được, nhưng chúng ta tạo lập đời mình bằng chính những gì mà chúng ta cho đi”.
Thế giới này là một nơi tuyệt vời. Bạn cho đi thứ gì thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại!
Câu chuyện ý nghĩa dưới đây sẽ giúp mỗi chúng ta nhìn thấy được “nhân” và “quả” của cuộc đời mình, nó cũng sẽ là bài học để mỗi khi bạn đứng trước một hoàn cảnh cần phải gieo hạt tốt, bạn sẽ không ngần ngại hành động.
THOÁT CHẾT VÌ HÀNH ĐỘNG THEO NHÂN – QUẢ
Câu chuyện kể về vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Thế chiến thứ 2, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944 – 45 từ mặt trận phía Tây.
Vào thời đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng vội vã lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp.
Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy thì ông bất ngờ để ý nhìn thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy vì cái lạnh giá buốt.
Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này.
Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công vụ tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên vì sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới thì sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.
Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường.
Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ trình, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.
Không ngờ chính sự chuyển hướng bất ngờ ngoài kế hoạch này đã cứu mạng ông! Quân Quốc Xã có tin tình báo nên biết chính xác hành trình của ông và đã bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp rình tại các ngã tư. Nếu ông tới thì sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào lòng tốt gieo đúng lúc đã giúp ông đổi lộ trình và tránh thoát cuộc mưu sát.
THOÁT CHẾT
Câu chuyện thâm thúy trên đang nói với chúng ta một triết lý mà không phải ai cũng thấu hiểu, tin tưởng.
Sự cho đi hay “gieo hạt” là một quy luật vũ trụ, sự cho đi có ý nghĩa, giá trị chính là ở thời điểm và cách cho. Bạn gieo hạt đúng lúc, có thể thay đổi cả số mệnh và cuộc đời của bạn.
Vì vậy, nếu bạn đang khó khăn, bế tắc,… hãy nhìn lại hành trình mà bạn đã đi qua, sự cho đi đã đúng và đủ hay chưa. Đừng đòi hỏi quá nhiều cho bản thân khi chúng ta chưa biết cho đi nhiều hơn.
Có một du học sinh giọi điện thoại về VN kể cho bố nghe là - Bố ơi nước Mỹ và Đức đã đi một bước đi mới, họ đã làm một việc trong lịch sử chưa hề có. Lần đầu tiên nước Mỹ có một Tổng thống da màu, cha của ông ấy là một người Phi Châu, cha, mẹ của ông ấy đã ly dị từ lâu, ông ấy sống với bà ngoại từ nhỏ. Nước Đức còn đi một bước dài hơn nước Mỹ, họ vừa bầu lên một phó thủ tướng là một người VN được 2 vợ chồng Đức nhận làm con nuôi, một đứa trẻ bị bỏ rơi trở thành phó thủ tướng.
Người bố ở VN bực mình trả lời cậu con - Mày cứ binh người ngoài hạ thấp người VN chúng ta. Hai cái chuyện này là bọn Mỹ và Đức bắt chước VN cả, nước VN đã làm chuyện này lâu rồi.
Này nhé ông Nông Đức Mạnh là con của một bà dân tộc thiểu số là Nông Thị Xuân, cha của Nông Đức Mạnh là ai đéo biết. Obama đã tốt nghiệp Đại Học Harvard còn NĐM không có tốt nghiệp đại học nào hết vậy mà vẫn được làm Tổng Bí Thư. Đấy mày thấy chưa VN tiến bộ hơn Mỹ nhiều, đừng có khen Mỹ nữa nhé.
Còn nước Đức có thủ tướng là con nuôi thì đâu có gì lạ, Nguyễn Tấn Dũng của VN cũng đâu có cha. Mặc dù là con nuôi nhưng Phó thủ tướng Đức phải tốt nghiệp đại học rồi mới làm chính trị, còn NTD chỉ có bằng Y Tá thôi mà được làm thủ tướng, VN hay hơn Đức nhiều đừng có khen Đức nữa nhé!
Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, đứng núi này trông núi nọ, già kén kẹn hom, ghét của nào trời trao của ấy. Chị nọ phận hẩm duyên ôi, kết tóc xe tơ với một anh chàng mặt nạc đóm dày, xấu ma chê quỷ hờn lại đần độn, ngốc nghếch, vô tâm vô tính, ruột để ngoài da, thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, mười tám cũng ừ mười tư cũng gật, học chẳng hay, cày chẳng biết, lúng túng như thợ vụng mất kim, chỉ được cái sáng tai họ điếc tay cày là giỏi!
Trăm dâu đổ đầu tằm, giỗ tết cúng bái trong nhà, công to việc lớn ngoài xóm, hai sương một nắng, tất bật quanh năm, một tay chị lo toan định liệu. Anh chồng thì như gà què ăn quẩn cối xay, lừ đừ như ông từ vào đền, như cỗ máy không giật không động. Giàu vì bạn, sang vì vợ, hàng xóm láng giềng kháo nhau: ”chàng ngốc thật tốt số, mả táng hàm rồng, như mèo mù vớ được cá rán”.
Chị vợ mỏng mày hay hạt, tháo vát đảm đang, hay lam hay làm, vớ phải chàng ngốc đành nước mắt ngắn nước mắt dài, đèo sầu nuốt tủi, ngậm bồ hòn làm ngọt cho qua ngày đoạn tháng. Nhiều lúc tức bầm gan tím ruột, cực chẳng đã, chị định một liều ba bảy cũng liều, lành làm gáo vỡ làm muôi, rồi anh đi đường anh, tôi đi đường tôi cho thoát nợ. Nhưng gái có chồng như gông đeo cổ, chim vào lồng biết thuở nào ra, nên đành ngậm đắng nuốt cay, một điều nhịn chín điều lành, tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại, vợ chồng đóng cửa bảo nhau cho êm cửa êm nhà, sao nỡ vạch áo cho người xem lưng, xấu chàng hổ ai?
Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa. Biết chồng tại gia không trót, liền trổ tài điều binh khiển tướng dạy chồng một phen, những mong mở mày mở mặt với bàn dân thiên hạ, không thua anh kém chị trong họ ngoài làng.
Một hôm ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, giữa thanh thiên bạch nhật, chị vợ dỗ ngon dỗ ngọt bảo chồng đi chợ mua bò, không quên dặn đi dặn lại: đến chợ phải tuỳ cơ ứng biến, xem mặt đặt tên, liệu cơm gắp mắm, tiền trao cháo múc, đồng tiền phải liền khúc ruột kẻo lại mất cả chì lẫn chài.
Được lời như cởi tấm lòng, ngốc ta mở cờ trong bụng, gật đầu như búa máy, vội khăn gói quả mướp lên đường quyết phen này lập công chuộc tội. Bụng bảo dạ, phải đi đến nơi về đến chốn, một sự bất tín vạn sự bất tin, ngốc quàng chân lên cổ đi như chạy đến chợ. Chợ giữa phiên, người đông như kiến, áo quần như nêm, biết bao của ngon vật lạ, thèm rỏ dãi mà đành nhắm mắt bước qua. Hai tay giữ bọc tiền khư khư như từ giữ oản, ngốc nuốt nước bọt bước đến bãi bán bò.
Sau một hồi bới lông tìm vết, cò kè bớt một thêm hai, nài lên ép xuống, cuối cùng ngốc cũng mua được 6 con bò. Thấy mình cũng được việc, không đến nỗi ăn không ngồi rồi báo vợ hại con, ngốc mừng như được của. Hai năm rõ mười, ai dám bảo anh ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa. Nghĩ vậy, ngốc ung dung leo lên lưng con bò đi đầu, mồm hô miệng hét diễu võ dương oai, lùa đàn bò ra về mà lòng vui như hội.
Giữa đường sực nhớ lời vợ dặn, suy đi tính lại, cẩn tắc vô áy náy, ngốc quyết định đếm lại đàn bò cho chắc ăn. Ngoảnh trước ngó sau, đếm đi đếm lại, đếm tái đếm hồi chỉ thấy có 5 con, còn một con không cánh mà bay đi mất. Toát mồ hôi, dựng tóc gáy, mặt cắt không còn giọt máu, ngốc vò đầu gãi tai, sợ về nhà vợ mắng cho mất mặn mất nhạt rồi lại bù lu bù loa kêu làng kêu nước mà than thân trách phận, ngốc về nhà với bộ mặt buồn thiu như đưa đám.
Thấy chồng về, chị vợ tươi như hoa ra đón, nhưng ngốc vẫn ngồi như bụt mọc trên lưng con bò đi đầu, chắp tay lạy vợ như tế sao:
- Mình ơi, tôi đánh mất bò, xin mình tha tội cho tôi…
Nhìn chồng mặt như chàm đổ mình dường giẽ run, chị vợ không khỏi lo vốn liếng đi đời nhà ma, liền rít lên như xé lụa:
- Đồ ăn hại. Đàn ông con trai mà trói gà không chặt. Làm sao lại để bò sổng?
Sợ thót tim vãi đái, nhưng ngốc vẫn lấy hết sức bình tĩnh để phân trần:
- Tôi mua tất cả 6 con, họ giao đủ 6, bây giờ đếm mãi vẫn chỉ 5 con.
Nhìn ngốc ta vẫn ngồi như đóng đinh trên lưng bò, chị vợ hiểu rõ đầu đuôi cơ sự, dở khóc dở cười bảo chồng:
- Thôi xuống đi! Thiếu đâu mà thiếu, có mà thừa một con thì có!
- 20 tuổi, như gà trống, sáng nào cũng gáy, chẳng cần ai nhắc.
- 30 tuổi, như xe hơi mùa lạnh nổ máy hơi khó nhưng chạy tốt.
- 40 tuổi, như bóng đèn, lúc tắt lúc sáng.
- 50 tuổi, như xe tăng, nổ máy rất chậm và di chuyển ì ạch.
- 60 tuổi, như cái đồng hồ cũ, không lắc thì không chạy mà chưa chạy là lại chết.
- 70 tuổi trở lên thì không thấy có ý kiến gì, chắc “thất thập cổ lai hy “?
Đàn Ông Nói Về Đàn Bà:
- Ở lứa tuổi từ 18-22 giống như Châu Phi, một nửa đã được khám phá, và một nửa còn hoang vu nên nhiều kẻ phiêu lưu luôn muốn tìm tòi.
- Sang lứa tuổi 23-30 giống như Bắc Mỹ, đã được khám phá hoàn toàn và hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật, luôn là mơ ước của bao gã đàn ông đang tìm việc.
- Ở lứa tuổi 31-40 giống như vùng nhiệt đới, nóng bỏng, xinh đẹp và đầy huyền bí, làm cho bao nhà thông thái ngã ngửa vì không thể giải thích nổi!
- Bước sang lứa tuổi 41-50 giống như Âu Châu, một nửa đã tàn phá sau chiến tranh, nhưng vẫn còn rất thu hút và không kém phần hấp dẫn, khiến bao người muốn đến một lần cho biết…
- Ở lứa tuổi 51-60 giống như Úc Châu, rất rộng nhưng đa phần là sa mạc, rất yên tĩnh, an phận sống dưới sự bảo hộ của Anh Quốc, “Miệt Dưới”…ít kẻ muốn quấy rầy.
- Ở lứa tuổi ngoài 60 giống như Nam Cực, ai cũng biết tới nơi này, nhưng chẳng ai buồn tới !
Cho mãi đến mấy hôm trước, tôi mới tìm ra được câu trả lời cho một câu hỏi tôi bị hỏi từ hơn ba mươi lăm năm trước.
Một bữa đang ngồi trong quán cà phê ở Sài Gòn, thì tôi bị một người đàn ông gây sự và cuối cùng ông ta quăng ra cho tôi câu hỏi : “Ông biết tôi là ai không ?”
Quả thật lúc ấy, tôi không biết ông ta là ai thật. Ông không phải là một tài tử, một nhà văn, hay một chính trị gia nổi tiếng để tôi phải biết. Tôi đành ngồi đó, chịu thua ông, không có câu trả lời.
Ít lâu sau, tôi được cho biết ông là đàn em của một quan chức lớn, và nhờ đó, ông thỉnh thoảng đem chút “hào quang” vay mượn được để hù dọa những người yếu bóng vía như tôi.
Sang đến Mỹ, thỉnh thoảng tôi cũng bị hỏi câu hỏi đó, mà đau cho những người đó, cả Mỹ lẫn Việt, tôi không bao giờ có câu trả lời cho câu hỏi đó của họ cả. Họ thì nghĩ tôi phải biết họ, mà thật tình, tôi thì không hề biết họ bao giờ. Và cứ mỗi lần bị những nhân vật như thế cật vấn, thì tôi chỉ biết ngẩn mặt ra, giả bộ lục lọi cái trí nhớ thảm hại của tôi để tìm câu trả lời cho người nổi tiếng nhưng vô danh và không ai thèm biết đó.
Angeles, California , tôi phải ghé lại Newark, New Jersey để đổi máy bay. Phi cơ của tôi bị trễ hơn một tiếng. Hành khách có một số rất bực bội vì công việc bị xáo trộn do sự chậm trễ của máy bay gây ra.
Tại quầy bên cạnh cổng 112, một tiếp viên dưới đất của công ty đang cố giải quyết những yêu cầu, khiếu nại của khách hàng thì bỗng nhiên một hành khách có vẻ tức tối lắm, lấn lên phía trên, len qua mặt mấy người khác và ném tấm vé lên quầy.
Ông ta nói lớn rằng ông ta muốn được cho bay chuyến sớm nhất và phải xếp cho ông ta ngồi hạng nhất. Người tiếp viên trả lời rằng cô xin lỗi về những phiền nhiễu mà chuyến bay gây ra cho ông, nhưng cô cũng phải giải quyết những hành khách tới trước và hứa là sẽ giúp ông khi đến lượt ông.
Nhưng ông khách không bằng lòng, ông hỏi như hét vào mặt cô, rõ ràng là để cho các hành khách khác cũng nghe được. Ông hỏi đúng câu mà tôi cũng bị hỏi mấy lần : “Cô biết tôi là ai không ?” (Do you know who I am ?).
Thì ra người Mỹ, trẻ và xinh như cô tiếp viên cũng bị hạch hỏi bằng câu đó chứ chẳng riêng gì tôi. Tôi liền cố lắng tai nghe xem cô tiếp viên ở quầy trả lời như thế nào để biết mà ứng phó sau này.
Người phụ nữ này, vẫn tươi cười, cầm chiếc micro của hệ thống khuếch âm lên và nói lớn bằng giọng rành rẽ rằng: “Ở quầy 112, có một vị hành khách không biết mình là ai, quí hành khách ai có thể giúp ông ta biết được căn cước hay thân thế của ông, xin tới quầy 112.”
Ông khách tự nhiên, vì chính câu hỏi của ông, biến thành một bệnh nhân tâm thần, một người mắc Alzheimer, một người lãng trí, tâm lý, thần kinh thác loạn, lẫn lộn bản thể, không còn nhớ mình là ai, tên gì, ở đâu nữa. Và lúc ấy thì đám hành khách đang sốt ruột đứng trước quầy đều phá ra cười.
Ông khách điên tiết, chỉ mặt người tiếp viên ở quầy và bật ra một câu chửi thề tục tĩu : “Đ.M. mày”( F,,k you) .
Người phụ nữ ở quầy, không một chút giận dữ, bằng giọng bình thản, trả lời ông nguyên văn như thế này : “I’m sorry, sir, but you’ll have to stand in line for that, too”.( Thưa ông, chuyện đó, chuyện ông đòi giao hợp, ông cũng phải xếp hàng chờ đến lượt mới được.).
Chao ôi, hay biết là chừng nào ! Thế mà tôi không nghĩ ra từ bao nhiêu năm nay để mà ấm ức không nguôi.
Bây giờ, nếu người đàn ông ngày xưa ở Saigon hay dăm ba người khác đặt lại câu hỏi đó với tôi, thì tôi đã có ngay được câu trả lời học được của người tiếp viên phi hành ở phi trường Newark, New Jersey hai hôm trước.
Ở đời ai chẳng muốn được trường sinh bất lão. Các bà và thậm chí một số ông thì thường nhờ đến giải phẩu thẩm mỹ để níu giữ tuổi thanh xuân. Có người thì dùng đủ mọi thứ kem dưỡng da để xóa những nếp nhăn trên mặt và giữ cho bề ngoài lúc nào cũng tươi mát, trẻ trung.
Thế nhưng, cơ thể của chúng ta khó mà cưỡng lại được tiến trình lão hóa, kèm theo đó là đủ thứ bệnh tật. Vậy thì phải làm sao để kéo dài tuổi thọ? Và đây, một phương thuốc mới vừa được các nhà khoa học Na Uy tìm ra, đó là óc khôi hài.
Nhà văn Mỹ Edward Albee đã từng nói rằng: “ Dấu hiệu hiển nhiên nhất của một căn bệnh ung thư xã hội, đó là sự mất đi óc khôi hài”. Trong suốt bảy năm trời, nhà nghiên cứu Sven Svebak và các đồng nghiệp của ông ở trường đại học khoa học và công nghệ Na Uy đã thực hiện cuộc nghiên cứu trên 53.500 người. Óc khôi hài của những người tham gia cuộc nghiên cứu này được đo lường bằng một cuộc trắc nghiệm gồm ba câu hỏi để thẩm định khả năng hiểu và suy nghĩ một cách hài hước. Công trình của họ vừa được đăng tải vào tuần trước.
Kết luận của các nhà khoa học Na Uy là óc khôi hài có thể làm tăng tuổi thọ lên ít nhất là 20%. Cụ thể hơn, những người có óc khôi hài “dồi dào” sẽ có thêm 20% khả năng sống thọ hơn 80 tuổi so với những người khác. Ông Sven Svebak cho biết: “ Kết quả mà chúng tôi đạt được củng cố điều cho rằng óc khôi hài có thể giúp kéo dài tuổi thọ. Nó có tác động tích cực lên sức khoẻ tinh thần và cuộc sống xã hội, ngay cả đối với những người đã về hưu.
Tuy nhiên, êkíp của ông Sven Svebak nhấn mạnh là họ chỉ nghiên cứu óc khôi hài “thân thiện”, chứ không phải khôi hài có tính chất phỉ báng, đụng chạm hoặc khôi hài đen. Họ cũng lưu ý rằng óc khôi hài không hẳn là được biểu hiện bằng tiếng cười, bởi vì theo lời ông Sven Svebak “ óc khôi hài không cần được biểu hiện ra bên ngoài, chỉ một ánh mắt long lanh là cũng đủ rồi”.
Nhưng đâu phải ai bẩm sinh đều có óc khôi hài? Theo nhà nghiên cứu Sven Svebak, hoàn toàn có thể “học” khôi hài và quan trọng nhất là học cười nhạo những khiếm khuyết của mình, nhất là những cố tật mà ta không bao giờ sửa đổi được. Trước đây, ông Sven Svebak đã từng chứng minh rằng, những người bị suy thận kinh niên nhưng có óc khôi hài dồi dào sẽ có cơ may sống sót nhiều hơn những người lúc nào cũng cau có, nhăn nhó.
Tuy vậy, ông Sven Svebak nói rõ là kết quả nghiên cứu của ông chỉ đúng vơi những người dưới 65 tuổi, chứ còn kể từ độ tuổi này, yếu tố di truyền và các yếu tố sinh học của sự lão hóa ngày càng trở nên quan trọng. Nói cách khác, chờ đến khi 65 tuổi mới học tính khôi hài thì đã quá trễ.
Xe tay ga. Phụ nữ. Có giỏ xách. Hắn chỉ giật bằng một động tác là có thể tóm lấy, nhanh nhẹn rồ ga phóng đi, để lại hình ảnh đáng thương phía đằng sau. Bọn đàn em thuật lại chiến tích của hắn với thái độ ngưỡng mộ.
Hắn nói rằng, có hai người đã từng vào viện mổ não chỉ vì cố dành giựt lại giỏ xách, bị kéo lê ngã vật xuống đường. Sau lần ra tay chớp nhoáng, hắn đắc thắng trở về, một phần ba chia cho đàn em, hai phần để dành cho mẹ.
Chiều tối. Hắn lại bắt xe đò về quê. Mẹ con hai tháng không gặp nhau, vừa về tới, bà đã nấu cho hắn rất nhiều món ăn ngon. Hắn đưa số tiền cho mẹ, nói là lương phụ hồ. Bà mẹ sống ở cuối ngõ, lương thiện,ai ai cũng mến. Hắn đòi bà lần tới về làm món gỏi cuốn cho mình ăn. Bà nhìn hắn, hiền từ gật đầu.
Hắn lên thành phố tiếp tục kiếm chác. Thương vụ ngày càng thuận lợi khiến tâm trạng hắn vui vẻ không ít. Một ngày, đàn em cùng hắn tổ chức ăn nhậu, đứa nhỏ nhất trong bọn lên giọng tiếc rẻ:
- Đại ca, chiều nay em xui quá, học theo đại ca, em thử ra tay với người đi bộ. Mụ đàn bà này không vừa, ghê gớm lắm, cứ giữ khư khư cái giỏ không chịu đưa. Tức quá, em xô ngã mụ xuống, giựt bọc đồ chạy thẳng. Giờ có lẽ mụ bất tỉnh nằm quèo dưới đất rồi.
- Thế chú mày lấy được bao nhiêu? – Hắn chỉ quan tâm đến vấn đề duy nhất.
- Chẳng có đồng nào cả, chỉ toàn là gỏi cuốn gói trong bọc.
Tim hắn tưởng như ngừng đập. Dường như nhớ ra điều gì đó, hắn ngay lập tức bắt thằng bé coi lại chiếc giỏ xách. Trời ơi! Là của mẹ hắn!
Hắn gào lên, ngay lập tức chạy đến con đường nơi bà mẹ ngã xuống. Vẫn còn vết máu đọng lại trên mặt đường. Tâm trạng hoảng loạn, hắn chạy như bay đến bệnh viện.
Thì ra, mẹ hắn muốn gây bất ngờ cho con. Tự mình bắt xe đò lên thành phố, mang theo một bọc gỏi cuốn mà hắn thích, không may lại gặp cướp.
(Vua Solomon)
Vua Solomon trong Kinh Thánh được vang danh vì sự khôn ngoan, giầu có và các trước tác của mình. Ông lên làm vua vào khoảng 967 trước Công Nguyên. Quốc gia Do thái của ông, lúc đó, trải dài từ ven sông Euhrates trên miền Bắc, vùng Lưỡng Hà, xuống đến tận vùng cực Bắc của Ai Cập, phía Nam).
Một ngày nọ, Vua Solomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình...
Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ Sukkot và ta cho ông sáu tháng để tìm thấy chiếc vòng đó. "
Benaiah trả lời: "Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy chắc phải có gì đặc biệt? "
Nhà Vua đáp: "Nó có những sức mạnh diệu kỳ. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó, sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn, nhìn vào nó sẽ thấy vui". Vua Solomon biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một chiếc vòng như thế.
Vào đêm trước ngày lễ Sukkot, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi "Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không? ". Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng rỡ một nụ cười.
Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội Sukkot.
"Nào, ông bạn của ta, " Vua Solomon nói, "Ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa? ". Tất cả những cận thần đều cười lớn và cả chính vua Solomon cũng cười.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: "Nó đây thưa đức vua". Khi vua Solomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó khắc dòng chữ: "Điều đó rồi cũng qua đi"
Vào chính giây phút ấy, vua Solomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó, ông cũng chỉ là cát bụi...........
Bạn đọc bình luận:
Mẫu truyện nhỏ nhưng rất đáng ngẫm nghĩ. Hiện giờ tôi rất buồn nhưng khi đọc xong tôi đã phần nào thư giãn.
cảm ơn một câu chuyện ý nghĩa đến với tôi đúng vào hôm nay - Mệt mỏi và buồn bã lắm. Thấy bế tắc trước mọi chuyện. Cầu mong điều này sẽ chóng qua đi.
Phải, niềm vui, nỗi buồn, tất cả rồi sẽ qua đi. Ta biết thế, để sống trọn vẹn hơn, từng phút, từng giây, cố gắng để không hối tiếc...
Nhưng, cứ theo cách nghĩ đó thì trên đời này phải chăng không có cái gì gọi là trường tồn, vĩnh cửu ? Và sự hi sinh, và tình yêu, và lí tưởng... tất cả cũng chỉ là vô nghĩa, như một thoáng phù du ? Tôi không nghĩ thế. Tôi vẫn tin vào một điều gì đó để lại dấu ấn sâu nặng trong tâm hồn, một điều gì đó mãi mãi người ta nhớ đến. Tôi tin vào sự bất tử. Khoan nói đến những bậc anh hùng - ta chỉ nói về ngay chính ta thôi. Bạn có khẳng định chắc chắn với tôi rằng : một lời nói , một hành động làm bạn tổn thương sẽ không để lại chút dấu vết gì trong bạn? Bạn có tự cho mình cái "quyền" làm người khác đau lòng rồi sau đó tự biện minh rằng sẽ không sao đâu, mọi chuyện sẽ mau chóng trôi qua và người ta sẽ không còn nhớ đến? Tôi đồng ý, quyền uy, vương giả chỉ là phù du, một ngày nào đó ta chỉ còn là cát bụi. Nhưng cát bụi cũng chứng tỏ sự hiện hữu , cát bụi cũng không che lấp được tất cả. Và tất nhiên bạn cũng biết rằng, ngày mai của bạn là kết quả của hôm nay...
Biết thế, nhưng mỗi lúc buồn, tôi vẫn hay tự an ủi mình : điều ấy rồi sẽ qua đi. Và tôi xin giữ lại những niềm vui, tôi giữ lại niềm tin trong cõi đời này có cả sự bất tử và phù du...
Tôi cũng như anh, tôi thật sự rất bế tắc. tình yêu, sự nghiệp, công danh của tôi, mọi thứ dường như đã đạt được, đã nắm được trong tay nhưng bây giờ lại vụt mất tất cả. theo bạn tôi phải làm sao? có nên ngồi chờ " điều đó rồi cũng qua đi" hay phải đứng lên để làm lại từ đầu?
Khi đọc câu chuyện này. Tôi chợt nhớ đến 1 người bạn, 1 người bạn cho tôi những lời khuyên đúng lúc. Ng bạn ấy đã kể cho tôi nghe câu chuyện này. Câu chuyện khi ấy đã đem đến cho tôi 1 cảm xúc kỳ lạ. Và ngày hôm nay đây, tôi lại kể câu chuyện này cho 1 người bạn khác của tôi, một ng bạn mà tôi rất mực yêu quý. Chính ý nghĩa sâu sắc của câu chuyện này philong nguyen đã phần nào giúp bạn tôi nhận ra rằng mọi nỗi đau mà mình đang phải chịu đựng rồi cũng qua đi. Cám ơn câu chuyện đầy ý nghĩa đã giúp bạn tôi có thêm động lực lúc vượt qua căn bệnh hiểm nghèo. Cám ơn rất nhìều.
Đúng như thế, tất cả mọi danh vọng, chức tước, giàu sang, địa vị rồi sẽ qua đi. Nguyên nhân đau khổ mà chúng ta thường gặp là do chúng ta không thấy tính chất tạm bợ và mong manh của cuộc sống. Chính vì thế đức Phật đã từng dạy cho các môn đồ rằng hãy quán chiếu năm điều thường xuyên trong đời thường là:
1. Tất cả ai rồi cũng phải già
2. Tất cả ai rồi cũng phải bệnh
3. Tất cả ai rồi cũng phải chết
4. Những gì yêu thương, nắm giữ giữa cuộc đời ra đi phải để lại tất cả.
5. Lúc chết chỉ đem theo cái tội và cái phước.
Do đó, bạn cũng như tôi phải quán niệm năm điều này thì lúc gặp những thăng trầm, mất mát trong cuộc sống chúng ta sẽ rất tự tại và thản nhiên bởi vì bản chất của đời người là như thế bạn nhé.
Năm 1597, lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở Công Giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.
Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh: người gì mà để trái tim ra ngoài !
Quan đại thần Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác; nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ : "đối ngoại hữu kỳ tâm - đối nội vô tâm giả". Từ đó quan đại thần Tsukamoto đặt bức ảnh Trái Tim trên bàn làm việc một cách kính cẩn.
Một hôm, người bạn tên Osaki đến chơi, hỏi :
- Bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao ?
Quan đại thần Tsukamoto trả lời :
- Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi : đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu Tâm", còn với bản thân mình thì "Vô Tâm". Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời ; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là chính đạo.
Ông Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép Rửa Tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục... (Trích "Phúc")
Thánh Tâm (聖 心) còn gọi là “Rất Thánh Trái Tim” nghĩa là trái tim thuộc về Đức Chúa (hoặc Đấng thiêng liêng). Khi nói về Thánh Tâm Chúa Giêsu là chúng ta phải luôn luôn hiểu bao gồm cả con người Chúa Kitô. Việc tôn thờ Thánh Tâm là nòng cốt của Đạo Công Giáo, như các Đức Piô XI và Piô XII đã nói: “Tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu là điểm cốt yếu của đạo chúng ta (summa religionis nostrae)”. Trong việc tôn thờ này, đức tin Kitô giáo vẫn nguyên tuyền vì đưa con người tới Chúa Ba Ngôi nhờ sự hợp nhất với Chúa Kitô, Đấng Trung Gian.
Việc tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, mời gọi chúng ta theo gương Người. Hiến dâng cho Thánh Tâm Chúa, vì trong Thánh Tâm Chúa, chúng ta tìm được tình yêu thúc đẩy chúng ta yêu mến Chúa và tận hiến hoàn toàn cho tha nhân. Đúng như câu nói của vị quan người Nhật: “Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả”.
Buổi sáng nọ, nơi góc đổ rác chung của cả khu nhà tự dưng xuất hiện một đôi giày cũ còn khá tốt. Giày được đặt trong một cái hộp với tờ giấy ghi chú, nét chữ nắn nót “đồ còn tốt, ai cần xin cứ tự nhiên”.
Ở mấy nước tư bản giãy chết, việc đem bỏ đi đồ dùng còn xài tốt không lạ, nhưng cách nhường lại cho người khác sử dụng với tất cả sự ân cần là một cung cách đáng ngưỡng mộ. Đôi giày cũ khi đặt vào hộp, gửi tặng mơ hồ vào cõi nhân gian, được chủ nhân ân cần đi đánh xi lại, mới và đẹp, ai nhìn cũng thú vị. Vậy mà mấy ngày sau mới có anh Mễ làm nghề đổ rác đến lấy, rồi để lại chữ “cám ơn”. Đôi giày nằm liên tục mấy ngày, vì những người trong khu nhà không ai muốn giành lấy phần của người có thể khó khăn hơn mình.
Thỉnh thoảng thấy trong đời có sự ân cần làm lay động, lại chợt nhớ Sài Gòn với tất cả không gian từng rất ân cần của nó, một không gian mà giờ đây nhắc lại như một thứ của quý đang mất dần, phai dần, dư niệm của nhiều thế hệ.
Sài Gòn ân cần trong trí nhớ đơn giản lạ. Đôi khi chỉ là chuyện người qua đường trú mưa được chủ nhà mời vào ngồi vì sợ kẻ lạ bị ướt. Đôi khi vì một thùng trà đá để trước cửa để giúp bá tánh lỡ đường giải khát trưa hè. Có đi đến tận những thành phố, hỏi đường đi bị tính tiền, mới biết Sài Gòn đã từng ân cần thế nào. Sài Gòn ân cần và vô tư đến mức từng thấy người say nắng ngất xỉu bên đường, không ai biết ai cứ xúm vô cạo gió, lấy thuốc cho uống để giúp khách qua đường có sức đi tiếp.
Mới hôm rồi, may mắn đọc được một câu chuyện của người Sài Gòn mà lòng mát dịu. Lại thấy thương người đất miền Nam không quen nói trôi chữ, chỉ có tấm lòng. Một anh trên facebook kể rằng anh đi làm thêm kiếm tiền đi học, chạy bàn rửa chén cho một đôi vợ chồng ở Sài Gòn. Một hôm lỡ tay làm bể hết nguyên chồng tô dĩa, anh lính quýnh không biết làm sao thì bất chợt bà chủ chạy vô nhìn thấy. Bà sững người, chưa kịp la đã dặn “nếu chồng cô có xuống thấy thì nói tại cô làm bể, chứ không ổng chửi chết”. Vừa quay lưng thì ông chủ chạy từ trên lầu xuống, nhìn đống tô dĩa nát bấy mà thất thần, rồi dặn “nếu vợ chú vô hỏi, thì nói chú làm bể nghe, chứ không bả chửi chết”. Người làm công đó mang kỷ niệm ngọt ngào và xúc động đó kể lại trên nhật ký của mình, làm không biết bao người đọc rưng rưng, trìu mến.
Sự ân cần là cách mà con người thấu hiểu đời sống, đối đãi bằng lòng chân thành của mình. Bước đi vài dặm trong một đất nước, có thể thấy sự ân cần cho con người đang ở mức nào. Việt Nam hôm nay có những thành phố lớn hơn, con người cao sang hơn, đại lộ đi bộ to rộng hơn… nhưng sự xua đuổi người nghèo khó cũng quyết liệt hơn. Sự ân cần như chỉ còn trú ngụ loanh quanh với giai cấp dưới, ở những thị dân ít học được thói cao sang. Nhiều cao ốc được dựng lên, nhưng không mấy cái có lối đi của người khuyết tật. Nhà vệ sinh công cộng phải xây đắt tiền như tượng đài, nhưng hầu như không có cái nào dành cho phụ nữ có thai hay cho người già yếu. Trong sự rực rỡ của đất nước này hôm nay, đã nhàn nhạt ân cần của người với người. Sự chói lọi chỉ số phát triển vẫn kèm theo khoảng tối đen mù lòa sau lưng nó.
Thường dân hay bọn con buôn lạnh nhạt ân cần trong đời thì đã đành, đến phận Tỳ kheo cũng la liếm vuốt ve thế tục, mất cả ân cần với thế nhân thì chúng sinh chỉ còn biết thở dài. Nghe lời ông Thích Thanh Quyết, đại biểu quốc hội, ngợi ca các mức oan khiên trong xã hội là “hợp lý” đã lắm chối tai, lại còn nghe ông nhấn mạnh sao không ca ngợi các cơ quan điều tra tố tụng đã kiểm soát giỏi mức oan sai “hợp lý” này.
Uống một ly nước, Đức Phật còn dạy rằng đừng quên có đến 84.000 sinh linh trong ly nước đó đã phải hy sinh cho người đời thụ hưởng. Và dù những sinh linh đó nhỏ bé vô hình đến mức nào, lời Phật dạy cũng chưa bao giờ cho rằng “hợp lý”. Lẽ nào mũ ni của ông Quyết đã kéo quá sâu vào thế tục, che kín tai để không còn nghe được tiếng khóc ngất của cha mẹ già và của tử tù Hồ Duy Hải (1985), hay lời trăn trối của cả gia đình tù nhân Nguyễn Văn Tràng (1988) xin được tự thiêu để tòa án phải công tâm xét lại, minh oan. Sự ân cần với từng chúng sinh là tâm đức không thể thiếu với đệ tử của Phật, bằng không chỉ đáng gọi là kẻ giả danh, mua bán niềm tin.
Sự ân cần hôm nay cũng có thể được nhìn thấy, nhưng là thứ chiêng trống mua vui lạ lẫm. Tỉnh Vĩnh Phúc hôm nay “ân cần” bỏ ra 300 tỉ đồng để xây một khu Văn miếu thờ và tôn vinh Khổng Tử bằng tiền thuế của nhân dân – như tiền nhà của lũ quan lại. Khổng tử chỉ có thể mang trái tim kẻ ác mới đành lòng bệ vệ xưng danh nơi mà cả vùng có đến gần 12.000 gia đình nghèo khốn khó. Thậm chí chỉ có 24% trong số 14.000 gia đình thuộc loại chính sách của chế độ là có được nước sạch để dùng. Cả tỉnh cũng có gần 20.000 gia đình không có nhà vệ sinh tiêu chuẩn và nước sạch để sinh hoạt. Vậy mà sự ân cần thì được dâng cho tượng gỗ và bộ mặt trơ cứng của chính quyền. Còn nhân dân thì chỉ được quyền xao xác lặng im nghe diễn văn.
Chợt nhớ Sài Gòn ghê. Nhớ Sài Gòn qua tiếng rao bán xôi giản dị của bà cụ đội khăn đi bộ từ quận 8 tới tận quận 5, với những gói xôi bán chỉ 5000 đồng, mắt lạc thần khi thấy bóng dân phòng. Nhớ ánh mắt bà hấp háy cười, hỏi có muốn cho thêm đường không, có vừa miệng không. Trái tim ân cần đó, đáng để xây cả miếu đền để thương nhớ và tôn vinh những con người cần lao đất Việt, mà chẳng cần phải tìm kiếm, cống nạp xa xôi.
Trong màn đêm tối đen như mực, có một vị tăng nhân tu khổ hạnh bôn ba nghìn dặm tìm Phật, đến một ngôi làng hoang vắng, trên đường xá tối đen như mực, người dân trong làng đang đi đi lại lại rất tấp nập.
Khổ hạnh tăng đi đến một con hẻm nhỏ, ông trông thấy một chiếc đèn lồng sáng choang, từ nơi sâu thẳm trong một con hẻm vắng lặng, từ từ chiếu rọi qua đây. Một người trong thôn la lên: “Thằng mù đến rồi kìa!”.
“Mù ư?“, khổ hạnh tăng sửng sốt, ông hỏi một thôn dân bên cạnh : “Người xách chiếc lồng đèn kia có thật là bị mù không?”.
Người đàn ông gật đầu khẳng định.
Vị tăng nhân khổ hạnh nghĩ mãi nhưng vẫn nghĩ không ra, một người đã bị mù cả hai mắt, anh ta vốn dĩ không có khái niệm ngày hay đêm, anh không nhìn thấy sông chảy từ núi cao, cũng không được xem phong cảnh hữu tình cùng vạn sự vạn vật trên thế gian, thậm chí anh còn không biết ánh đèn là như thế nào, vậy anh ta xách theo chiếc đèn lồng, không phải khiến người ta cười chê sao?
Chiếc đèn lồng đó càng lúc càng đến gần, ánh đèn sáng choang, từ từ trong con hẻm tiến đến, chiếu sáng lên đôi giày của vị tăng nhân. Vị tăng nhân nghĩ mãi nhưng vẫn nghĩ không ra, nên bèn hỏi: “Dám hỏi thí chủ, cậu có thật là một người mù không ?”.
Chàng trai mù xách theo ngọn đèn lồng trả lời: “Đúng vậy, từ khi đến thế gian này, hai mắt tôi đã không trông thấy gì nữa”.
Vị tăng nhân hỏi: “Nếu cậu đã không trông thấy gì cả, vậy tại sao lại xách theo chiếc đèn lồng?”.
Chàng trai mù đáp: “Bây giờ là buổi tối phải không? Tôi nghe nói, trong màn đêm mà không có ánh đèn chiếu sáng, vậy thì mọi người trên thế gian này cũng đều sẽ giống như tôi, không trông thấy gì cả, vậy nên tôi đã thắp một ngọn đèn”.
Vị tăng nhân dường như có phần hiểu ra, nói: “Thì ra cậu là vì muốn chiếu sáng cho những người khác?”.
Thế nhưng, chàng trai mù lại nói: “Không, tôi là vì chính mình”.
“Vì chính cậu ư?”, vị tăng nhân lại càng sửng sốt.
Chàng trai mù chậm rãi nói: “Ông có bao giờ đi trong đêm tối, mà bị những người đi đường khác đụng phải chưa?”.
Vị tăng nhân nói: “Đúng vậy, cũng như lúc nãy, tôi không có để ý nên đã bị hai người khác đụng phải“.
Chàng trai mù nghe xong, trầm lặng nói: “Nhưng tôi thì lại không bị, tuy tôi là kẻ mù, cái gì tôi cũng không trông thấy, nhưng tôi xách theo chiếc đèn lồng này, vừa để soi sáng đường cho những người khác, nhưng quan trọng hơn là để người khác trông thấy tôi. Như vậy, họ sẽ không vì không trông thấy mà đụng phải tôi.
Khổ hạnh tăng nghe xong, lập tức ngộ ra. Ông ngửa mặt lên trời thở dài, nói: “Ta đã đi khắp chân trời góc biển, bôn ba nghìn dặm tìm Phật, thật không ngờ rằng Phật đang ở bên cạnh ta. Thì ra, Phật tính cũng giống như một ngọn đèn, chỉ cần ta thắp sáng nó, dù cho ta không nhìn thấy Phật, thì Phật cũng sẽ nhìn thấy ta thôi!”.
Thế nên, vì người khác, hãy thắp sáng ngọn đèn sinh mệnh của chính mình! Như vậy, trong bóng đêm của đời người, chúng ta mới có thể tìm thấy bình an và sự chói lọi của chính mình.
1.
Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng mới vào miền Nam, cũng như bây giờ. Chúng bày ra nhiều danh từ quái dị, ví dụ “bức xúc”, không biết từ tiếng nào ra (đúng nghĩa là “cần kíp”, nhưng người dân lại dùng như “khó chịu, bực bội”: nghe nó nói, tôi bức xúc quá) hoặc “ẩm thực”, từ Việt Hán, trong khi đã có sẵn chữ Việt thuần túy “ăn uống”, hoặc “lô-gích” bởi tiếng Pháp logique, nghĩa tiếng Việt là “hợp lý”. Thật là dốt mà hay nói chữ.
Vốn sắt máu, VC dùng những danh từ mang giọng tranh đấu, đàn áp, bắt bớ. Từ ngữ vô tội bỗng bị “nâng cao quan điểm”, trở thành phương tiện phô bày bản chất võ biền nằm trong tiềm thức của chúng. Vài ví dụ:
- giải phóng mặt bằng; giải phóng chất khí
- quản lý đời em, quản lý đời anh (lấy vợ, lấy chồng?)
- xử lý hạt giống; xử lý từ xa (remote control?) ; xử lý văn bản
- khống chế tốc độ; khống chế chi tiêu
- giáo án (thay vì bài dạy)
Vân vân...
Tương tự chữ chém trong từ ngữ dưới chế độ phong kiến ngày xưa, như theo một chuyện khôi hài ta thường được nghe kể: Thay vì nói “đang cắt khoai ăn”, một vị thuộc hoàng tộc đã trả lời: “Mệ đang chém củ khoai.”
Từ ngữ VC chuyển biến, đổi màu như cắc kè tùy theo lập trường, hoàn cảnh. Cũng là phi công nhưng của “ngụy” thì trở thành giặc lái, của bọn chúng là chiến sĩ lái. Đối với Trung Cộng, khi còn là tay sai, VC nâng bi hết cỡ: nào là “đồng chí anh em”, “tình hữu nghị Việt-Trung thắm thiết, môi hở răng lạnh, đời đời bền vững”, “trăng Trung quốc sáng hơn trăng Mỹ [đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ]”. Khi bị Tàu Cộng đánh cho tơi bời ở biên giới cuối thập niên 70 thì chúng chửi các “đồng chí anh em” là “bọn bành trướng Bắc Kinh”, “chủ nghĩa Xi-ô-nít (sionisme) xâm lược”. Khi đã bán đất, bán biển cho Trung Cộng, và ở cái thế đầy tớ, VC sợ bọn này đến mức không dám viết “tàu Trung quốc bắn chìm thuyền đánh cá Việt Nam”, mà gọi là “tàu lạ”.
2.
Tuy nhiên, khi cần lừa bịp, bọn lãnh đạo VC không ngần ngại dùng cả kho từ ngữ nghe rất xây dựng, ngọt như mía lùi: đi tù thì chúng gọi là đi học tập (cải tạo). Một nhà văn bạn đồng tù của tôi, nguyên là nhân viên Việt Tấn Xã, thỉnh thoảng ghé tai, nói nhỏ:
- Tao phải đề nghị cái thằng viết bức thông cáo kêu gọi quân nhân “ngụy” đi trình diện học tập cải tạo sau ngày 30/4/75 được lãnh giải Nobel về văn chương láu cá...
- ?
- Chúng bắt binh sĩ, hạ sĩ quan tập trung “học” tại chỗ ba ngày, rồi cho về thật. Sĩ quan cấp úy cũng "được" đi học, và đem theo lương thực đủ 10 ngày. Cấp tá mang theo lương thực đủ một tháng. Thì thử hỏi bố ai mà không tin?
Nuốt một hớp nước cho đỡ tức, anh ta tiếp:
- Mới đây, thằng cha X đứng lên hỏi: “Thưa cán bộ, tại sao trong thông cáo trình diện, Cách mạng nói học tập mườì ngày, mà bây giờ học đã hơn một năm rồi, chúng tôi chưa được về?” Thằng quản giáo cười khinh khỉnh, trả lời tỉnh bơ: “Đâu, anh chỉ tôi xem chỗ nào trong thông cáo Cách mạng nói các anh “học tập mười ngày”? Thông cáo chỉ bảo “mang theo lương thực đủ mười ngày”. Anh thấy không, mười ngày ăn hết thì Cách mạng cung cấp tiếp kia mà!”
Cứng họng. Anh bạn VTX lắc đầu chép miệng:
- Tiên sư chúng nó, đau như hoạn, tức như bò đá. Tao cũng không rõ, tại chúng mình ngu, hoặc tại chúng nó quá lưu manh?
Ngừng một giây, anh ta phun tiếp:
- Hoặc là tại người quốc gia mình quá ngay thẳng, nếu không nói là ngây thơ, nên suốt đời bị chúng nó lừa, từ 1945 tới hôm nay.
Có thể anh ta nói đúng: cho đến bây giờ, một số người tỵ nạn chúng ta vẫn còn ngây thơ trước từ ngữ của VC, bị bịp hoài mà vẫn chưa tởn. Ngày nay, sau khi chạy trối chết ra tới hải ngoại, an toàn rồi, mà bọn VC vẫn đuổi theo phá đám, dụ dỗ, lần này bằng những lời đường mật, dĩ nhiên, đầy dẫy trong Nghị quyết 36, nào là Việt Kiều, “khúc ruột ngoài ngàn dặm”, “bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam” (thay cho “bọn vượt biên là ma cô, đĩ điếm” trước kia), nào là “quê hương là chùm khế ngọt”,“hãy hoà giải hòa hợp, xóa bỏ hận thù”, nào là “hãy đem tiền bạc và chất xám về xây dựng đất nước, đầu tư đi, làm từ thiện đi, về mua nhà mua đất, hưởng già đi, gái Việt Nam bây giờ đẹp lắm, đẹp lắm...”
Tại trại cải tạo Vĩnh Phú, có anh bạn đồng nghiệp tại trường Đại Học CTCT Đà Lạt, tên Nhung, kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng cụ lao động, cũng nhàn và ấm thân. Một hôm, anh ta kể, một tên công an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục ai mượn cũng phải ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch sự hỏi:
- Xin cán bộ cho biết quý danh.
Tên nọ không hiểu "quý danh", há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi đột nhiên sừng sộ:
- Anh vi phạm nội qui. Ai cho anh nói tiếng nước ngoài hử?
Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ các bạn đồng tù xúm vào thông dịch giùm, anh ta mới thoát nạn, sau khi bị xỉ vả tận tình:
- Bây giờ mà anh vẫn còn ôm chân đế quốc, dùng toàn là chữ tư bản, phản động.
4.
Ngày Chúa Nhật tù nhân thường được nghỉ lao động. Nhưng thỉnh thoảng bọn cán bộ bắt làm cái mà chúng gọi là “lao động xã hội chủ nghĩa”, kiểu volunteering ở Mỹ, ví dụ đào “ao cá Bác Hồ”, "trồng cây Bác Hồ", "trồng rau cải thiện". Coi như mất toi một buổi sáng. Tôi đang nằm ngủ nướng, anh tù đội trưởng, tên Dũng, đến vén mùng lôi dậy:
- Đề nghị anh thức dậy đi lao động xã hội chủ nghĩa.
Tôi cự nự:
- Anh đề nghị, nhưng tôi từ chối, được không?
Dũng là một đội trưởng tốt, đấu dịu:
- Trong từ ngữ tụi nó, đề nghị có nghĩa là bắt buộc đó cha nội. Không biết mà cứ lý sự hoài, khổ quá!
5.
Thời gian đầu mới ra Bắc, sĩ quan tù nhân bị giam ở những trại do “bộ đội” quản lý được dựng lên cấp thời bằng gỗ, tranh, nứa. Dãy hố vệ sinh được đào phía sau nhà (khác với những trại Công an sau này, như Vĩnh Phú, phòng tiêu tiểu cất ngay trong mỗi buồng). Ban đêm, tiểu tiện, đại tiện tù nhân phải xách đèn ra trước vọng canh, hô to, xin phép vệ binh. Những thằng vệ binh, đa số gốc nhà quê, nói ngọng, dùng nhiều thứ thổ ngữ địa phương khác nhau.
Tại trại Hoàng Liên Sơn, thường xuyên có tiếng vang lên trong đêm trường lạnh lẽo:
- Báo cáo cán bộ, tôi xin đi tiểu.
Vệ binh gác hỏi:
- Đi tiểu là đi đâu?
- Là đi tè, tức đi đái đó...
- Đi đái thì nói đi đái, còn văn vẻ đi tiểu với đi đại... Được.
Đêm sau, rút kinh nghiệm, một tù nhân khác xin phép một thằng vệ binh khác:
- Báo cáo cán bộ, tôi xin đi đái.
Tiếng từ vọng gác:
- Đi đái... anh ăn nói kém văn hóa quá.
- Vậy cán bộ bảo tôi nói thế nào?
Thằng vệ binh:
- Đi giải.
Một đêm khác, một cải tạo viên khác:
- Báo cáo cán bộ, tôi xin đi giải...
Tiếng vệ binh:
- Không được. Đi đái thì nói đi đái. Giải gì? Giải rút hả? Dân Nam bộ mà cũng tập nói tiếng Bắc. Nói lại.
Được lời như cởi tấm lòng, anh cải tạo viên la lớn:
- Báo cáo cán bộ, tôi xin đi đái.
Âm “ái... ái... ái” vọng lên trên dãy núi Hoàng Liên Sơn trong đêm vắng lặng, nghe “khẩn trương”, đau khổ.
- Được.
Cũng may, vào thời kỳ đó, đa số sĩ quan còn trẻ, còn khỏe, thận tốt, nên ráng nhịn được. Nhưng những ông già trên sáu bó, đứng tranh luận về chữ nghĩa kiểu này, giữa trời sương lạnh, chưa kịp đến hố đã “giải phóng” ra quần mất rồi.
Chuyện bị Tào Tháo rượt sau đây thì bất kể tuổi tác, già trẻ, nhiếp hộ tuyến sưng hay không sưng. Cũng tại trại Hoàng Liên Sơn, cũng lại chuyện chữ nghĩa. Một cải tạo viên, vì buổi chiều lén ăn sắn sống, nên đang đêm bị đau bụng, xách đèn chạy vội ra vọng gác, khá xa.
- Báo cáo cán bộ, tôi xin đi cầu.
Thằng vệ binh, giọng còn trẻ:
- Không được. Giờ này anh đi ra cầu nàm cái gì, có ý đồ gì?
Anh bạn ta, Nam kỳ rặt:
- Hổng phải đâu, đi cầu là đi ỉa đó. Lẹ lẹ giùm lên cán bộ, tui chịu hết nổi rồi...
- Không được, anh phải học cách ăn cách lói cho đúng văn hóa, nghe chửa: tôi xin phép đi đại tiện. Các anh toàn nà người có tú tài hai, tú tài ba mà không biết dùng chữ cho đúng và nịch sự. Anh lói nại đi...
Bạn ta trả lời, cộc lốc:
- Thôi khỏi cần nữa. Xong rồi.
- Anh lói xong rồi nà xong cái gì?
Bạn ta đùng đùng nổi giận, la lớn, dường như không sợ gì nữa:
- Là ỉa ướt quần rồi đó cha !. Không tin cha cứ trèo xuống mà hưởi. Đau bụng thấy mụ nội mà cứ lèng èng quoài.
“Sự cố đột xuất” không mấy thơm tho này, và sự hy sinh vĩ đại của bạn ta, hôm sau, đến tai quản giáo đội, không ngờ lại có kết quả tốt, ngoài dự liệu. Theo lệnh trên, kể từ đêm đó, khi cải tạo viên cầm đèn xin phép ra hố tiêu, nói kiểu nào, lính gác phải cho đi, không hạch hỏi gì nữa.
7.
Một bữa, vác một bó nứa to tổ chảng ở rừng về, tôi bị té xỉu, và được chuyển vào đội Rau Xanh của mấy ông già lụ khụ, ốm yếu ho hen, loại sứt cán gãy gọng, và vì trẻ nhất tôi được chỉ định làm trưởng tổ hốt phân, mỗi bữa ít nhất năm chuyến, đem giao cho một tổ khác chế biến thành nước tưới rau, hoặc ủ thẳng trên các luống khoai. Trước khi xuất quân, tên quản giáo lên lớp:
- Có bốn thứ phân: phân bắc, phân chuồng, phân xanh. Các anh phải lấy ba thứ này cho đầy đủ chất lượng. Còn phân đạm, hay u-rê là phân cao cấp, ta chưa dùng đến.
Phân chuồng (trâu bò) và phân xanh (lá cây ngâm mục) thì ai cũng hiểu. Riêng phân bắc tên quản giáo không cắt nghĩa. Một anh tổ viên, gốc Quảng, giơ tay hỏi:
- Thưa coáng bộ, còn pheng béc là pheng chi?
Tên quản giáo nhìn anh chằm chằm, rồi dằn từng tiếng:
- Có thế mà không hiểu. Phân bắc là phân tươi...
- Pheng tươi là pheng chi, coáng bộ ?
- Là cứt chứ còn gì nữa. Hỏi mãi.
Sau khi tên quản giáo đi, một anh già trong đội lên tiếng cắt nghĩa :
- Mấy cha biết tại sao tụi nó gọi cứt là phân bắc mà không là phân nam, phân trung không?
- Làm sao biết được!
- Tại vì ở ngoài Bắc, cứt quý như vàng, cho nên tụi nó giành lấy hết, cả trong chữ nghĩa tụi nó cũng không chừa cho ai.
Tại trại Vĩnh Phú, tôi được Linh mục Trần Thanh Cao, cựu tuyên úy, giỏi nhạc, vui tính, có quen biết ngoài đời, “chiếu cố” bốc về đội văn nghệ mới thành lập do ông làm đội trưởng, để tỵ nạn lao động vài tháng, mặc dù tôi dốt đặc về ca nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ tôi, được biệt phái từ các đội. Ðội được lệnh trình diễn giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương sắp đến thăm trại.
Cha Cao cho tôi vào ban hợp ca, bè alto là bè hỗn tạp, ngang phè phè. Ông khuyến khich các ca viên:
- Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là được rồi!
Một hôm trại phó đến thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc Hồ Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá gì đó, do cha Cao đặt hòa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe ca sĩ bè alto của tôi dượt, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại, giận dữ quát :
- Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng? Tên Bác kính yêu như thế mà... mà anh dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế thì... thì nà anh nếu náo thật!
Cha phân trần, nhưng hắn gạt đi:
- Bỏ, bỏ tất ! Bè với không bè !
9.
Một sĩ quan đồng tù kể: được thả về, anh hành nghề xe ôm. Nhờ bộ mã phi công đẹp trai còn sót lại sau tám năm cải tạo, anh lọt vào mắt xanh của một em “cán bộ gái” tại một cơ quan nọ, Bắc kỳ hai nút chánh hiệu.
Anh nóí:
- Tao tranh thủ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến lên chiếm mục tiêu ngay. Vì lần đầu lụp chụp, tao khóc ngoài quan ải, nên thấy quê, mới rụt rè hỏi nhỏ em, “em thấy thế nào?” - Rồi em trả lời sao? tôi nôn nóng hỏi.
Anh bạn thở dài:
- Mẹ kiếp, còn đang ôm nhau, em bật ngồi dậy, nghiêm nét mặt, và lên lớp y chang mấy thằng quản giáo của mình trước kia. Em bảo: "Cơ bản thì anh làm tốt đấy, có chất lượng. Nhưng về mặt tiêu cực, em chưa thấy có ấn tượng sâu sắc, anh chưa biểu hiện phấn đấu năng nổ để khống chế tốc độ. Rút kinh nghiệm, lần sau, anh cần khắc phục sự cố tốt hơn" !!!...
HIểu Biết Nghiệp Lực: Đôi Khi Những Khổ Đau Lớn Nhất Lại Tạo Ra Một Tinh Thần Lành Mạnh
Một nhà sư thông thái chỉnh đốn một lái buôn: "Đừng có tự suy diễn mộng tưởng. Ông trời thực ra công bằng với chúng ta" (Zhang Cuiying)
Đôi khi những khổ đau lớn nhất lại tạo ra một tinh thần lành mạnh
Vào đời nhà Thanh, Triệu Đức Phương, cha của ba người con trai, có một cuộc sống rất sung túc. Ông cảm thấy rất may mắn khi ba đứa con của mình đều đã thành gia thất.
Tuy nhiên, vào lễ mừng thọ 60 của ông Triệu, ông đã thú nhận với ba người con của mình rằng khi mới bắt đầu khởi nghiệp, ông đã cố ý cân gian để lừa người cấp hàng và khách hàng của mình. Mỗi khi ông mua thứ gì, cái cân sẽ cho kết quả ít hơn, và khi ông bán món gì, cái cân sẽ đưa ra số lớn hơn.
“Đó là lý do tại sao ông bán vải bông bị phá sản sau khi ta mua hàng ngàn kg vải bông của ông ấy. Ông ta đã cố gắng một cách tuyệt vọng để cứu vãn nhưng đã chết vì bệnh thương hàn 20 năm trước. Ta vẫn còn cảm thấy có lỗi với ông ấy cho đến tận bây giờ”, ông Triệu nói.
“Cũng còn có một ông bán thảo dược đã mất sau khi ta lừa ông ấy bằng cái cân của ta. Còn có những người khác nữa, nhưng hai người đó là bị lừa nhiều nhất. Kể cả khi ta bây giờ có cuộc sống giàu có và hạnh phúc, mỗi khi ta nghĩ đến những người đã chết bởi việc làm của ta, ta thấy đầy tội lỗi đến mức không thể ngủ được”.
“Để được thanh thản, bây giờ ta đã quyết huỷ cái cân này trước mặt tất cả các con, và ta thề là từ nay ta sẽ hành xử trung thực”
Những người con hoan nghênh quyết định của ông “Cha à, đây mới là cách làm đúng. Chúng con hoàn toàn ủng hộ quyết định của cha”, một người con hân hoan nói. Thế là ông Triệu ngay lập tức đập vỡ cái cân tội lỗi, giữ lời hứa cư xử trung thực và làm những việc tốt kể từ đó.
Tuy nhiên, không lâu sau gia đình ông Triệu đã gặp bất hạnh. Đầu tiên, con trai cả của ông mất đột ngột do bệnh tật. Sau đó anh thứ hai cũng qua đời do một chứng bệnh kỳ lạ, và người vợ goá đã đi theo người đàn ông khác. Rồi người con thứ ba bất ngờ mang bệnh và mất không lâu sau. Khi đó vợ của người con thứ ba đang mang thai.
Trải qua những bất hạnh đột ngột này, ông Triệu cảm thấy rất buồn và mơ hồ.
“Khi ta đi lừa lọc người khác, ta sống hạnh phúc với con cái kề bên”, ông phàn nàn. “ Bây giờ ta đang cố gắng hết sức làm người tốt, thì những điều không may lại lần lượt kéo đến. Có vẻ như câu thành ngữ Trung Hoa ‘Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo’ là hoàn toàn sai lầm”.
Hàng xóm của ông Triệu rất cảm thông cho ông và gia đình.
Một ngày kia, người con dâu của ông Triệu trở dạ. Tuy nhiên, sau ba ngày lâm bồn, đứa bé vẫn chưa chịu ra. Các bà đỡ lần lượt được mời đến, nhưng đều vô vọng và không biết làm cách nào.
Ông Triệu ngày càng lo lắng. Đúng lúc đó, một vị sư gõ cửa xin khất thực. Gia nhân của ông Triệu đã cố đuổi nhà sư đi, nhưng nhà sư đã nói rằng ông có phương thuốc đặc hiệu cho gia chủ. Nhà sư ngay lập tức được trọng vọng như thượng khách.
“Ta là một nhà sư lang thang. Ta đi theo định mệnh an bài”, nhà sư nói với ông Triệu. Sau đó ông đưa cho ông Triệu phương thuốc, và ông Triệu đã sai đầy tớ cấp tốc đưa thuốc cho con dâu. Vài phút sau, người hầu báo lại là người con đau đã sinh con trai sau khi dùng thuốc.
Ông Triệu vui mừng. Ông biểu đạt lòng biết ơn đến nhà sư và thết đãi một bữa thịnh soạn tối hôm đó
Trong khi dùng bữa tối, ông Triệu hỏi nhà sư, “thưa sư phụ, con có thể hỏi ngài một câu mà con thắc mắc từ lâu được không ạ?” Nhà sư gật đầu.
Vừa thở dài, ông Triệu kể với nhà sư “Con thật xấu hổ khi phải nói rằng con lập nghiệp bằng cách dùng một cái cân gian để lừa gạt người khác. Con quyết tâm trở thành người tốt vào năm ngoái và phá huỷ cái cân. Tuy nhiên, ngay sau khi con phá cái cân, con bắt đầu gặp hết bất hạnh này đến bất hạnh khác."
"Con đã mất ba người con trai trong thời gian ngắn chỉ sáu tháng, và hai con dâu đã rời bỏ chúng con. Thật may là người con dâu thứ ba đã cho chúng con đứa cháu nội này. Tại sao lại có một gia đình hạnh phúc khi con lừa dối người khác, nhưng ngay khi con quyết định làm việc tốt, thì tất cả những bất hạnh này lại gõ cửa nhà con?"
Nhà sư cười to sau khi nghe câu chuyện của ông Triệu, và trả lời lại : "Đừng có tự suy diễn mộng tưởng. Ông trời đối xử thực sự là rất công bằng đối với chúng ta. Người con cả của ông là đầu thai của người bán vải bông mà đã bị chết sau khi bị ông lừa gạt, và người con trai thứ chính là hiện thân của người bán thảo dược."
"Người con trai thứ ba cũng ra đời do tất cả những việc làm xấu mà ông đã tích lũy thành, và cả ba người con ông đến thế giới này để làm đổ nát ông và gia đình ông, thế nên ông sẽ đói mà chết trong tuổi già. Tuy vậy, từ khi ông quyết tâm làm điều tốt, thần thánh đã thể hiện sự thương cảm đối với ông và đã thu hồi lại ba người con ông. Ông đã có thể thoát khỏi định mệnh đó."
Sau khi nghe xong, Triệu cảm thấy như vừa tỉnh khỏi cơn mê. Ông cảm tạ nhà sư về việc đã giảng giải hoàn cảnh cho ông, nhưng ông cũng thắc mắc hỏi nhà sư về đứa cháu nội, phải chăng nó cũng đến để đòi các nợ khác từ ông.
"Tất cả các món nợ đã được trả sau chuỗi bất hạnh vừa rồi," nhà sử trả lời với một nụ cười. "Đứa cháu của ông đến để đem lại may mắn và hạnh phúc cho gia đình. Nó sẽ được hưởng tiếng thơm bời vì quyết định làm điều tốt cho người khác của ông. Đây là phần thưởng giành cho việc ông chọn làm điều tốt."
Ông Triệu đã rất hài lòng và trở nên vững tâm thực thi các điều tốt trong hết phần đời còn lại.
Câu chuyện này thể hiện câu nói cổ của Trung Hoa: "Nếu một gia đình tốt gặp nhiều tai ương, đó có thể là họ đang trả nghiệp hoặc món nợ từ người đời trước. Một khi món nợ đã được trả, họ sẽ hương một cuộc sống hạnh phúc."
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.