Cuộc tranh luận về tương lai quan hệ Mỹ-Trung đang được thúc đẩy bởi một chính sách đối ngoại và an ninh quyết đoán hơn của Trung Quốc trong thập kỷ qua, phản ứng của khu vực đối với sự kiện này, và cách trả lời của Washington – “chuyển trục chiến lược” hoặc “tái quân bình lực lượng” hướng về châu Á. Việc chính quyền Obama tiếp tục tập trung vào ý nghĩa chiến lược của châu Á là hoàn toàn chính đáng. Nếu không có một động thái như vậy, sẽ có nguy cơ là Trung Quốc, với một quan điểm cứng rắn, thực tiễn về quan hệ quốc tế, sẽ kết luận rằng một Hoa Kỳ kiệt lực về kinh tế sẽ mất thế đứng tại Thái Bình Dương. Nhưng hiện nay rõ ràng là Hoa Kỳ muốn ở lại châu Á lâu dài, nên cũng đến lúc cả Washington và Bắc Kinh phải đánh giá tình hình, nhìn về phía trước, và đi tới một số kết luận dài hạn về loại hình thế giới nào mà hai nước muốn thấy ở bên kia rào cản.
Các nhiệm vụ trung tâm của châu Á trong những thập kỷ tới sẽ là tránh cho kỳ được một cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và duy trì thế ổn định chiến lược lâu nay từng củng cố sự thịnh vượng của khu vực. Những nhiệm vụ này là khó khăn nhưng có thể thực hiện được. Chúng đòi hỏi cả hai phía phải thông hiểu nhau triệt để, phải hành động bình tĩnh trước nhiều khiêu khích, và phải quản lý các thế lực trong nước và trong khu vực đang đe dọa chia rẽ hai cường quốc. Do đó, tình hình này sẽ đòi hỏi một quan hệ sâu sắc hơn và được cơ chế hoá hơn nữa – một quan hệ được củng cố bằng một khung chiến lược biết chấp nhận thực tế cạnh tranh giữa hai nước, tầm quan trọng của tinh thần hợp tác, và sự kiện là những đề xuất này không loại bỏ lẫn nhau. Ngoài ra, đường lối mới mẻ này phải được thể hiện trên thực tế xuyên qua một nghị trình có cơ cấu được thúc đẩy bằng các cuộc gặp gỡ thường xuyên giữa lãnh đạo hai nước.
TRUNG QUỐC KHÔNG CÒN LÀ CON RỒNG ẨN MÌNH
Tốc độ, phạm vi, và tầm ảnh hưởng trong sự trỗi dậy của Trung Quốc là chưa từng có trong lịch sử hiện đại. Chỉ nội trong vòng 30 năm, kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng từ một vị thế nhỏ hơn Hòa Lan đến một vị thế lớn hơn mọi nước khác ngoại trừ Hoa Kỳ. Nếu chẳng bao lâu nữa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, như một số người tiên đoán, thì đó sẽ là lần đầu tiên từ thời Vua George III [của Vương quốc Anh, 1738-1820] một nước không nói tiếng Anh, không thuộc về phương Tây, và phi dân chủ dẫn đầu nền kinh tế toàn cầu. [Tất cả chú thích trong ngoặc vuông là của dịch giả]. Lịch sử dạy chúng ta rằng, cứ lẽ thường, quyền lực kinh tế đi đâu thì quyền lực chính trị và chiến lược đi theo đó. Sự trỗi dậy của Trung Quốc tất yếu sẽ tạo ra những lợi ích, những giá trị, và thế giới quan chồng chéo và đôi khi xung đột nhau. Nỗ lực duy trì hoà bình sẽ rất quan trọng không những cho ba tỉ người châu Á mà còn cho tương lai của trật tự toàn cầu. Phần lớn lịch sử của thế kỷ 21, dù muốn dù không, sẽ được viết tại châu Á, và điều này sẽ được hình thành do sự kiện là, liệu sự trỗi dậy của Trung Quốc có được quản lý một cách hoà bình và không gây xáo trộn cho trật tự thế giới hay không?
Trật tự châu Á sau Thế chiến II đã dựa vào sự hiện diện và tính có thể dự đoán (predictability) của sức mạnh Hoa Kỳ, một sức mạnh được củng cố bằng một mạng lưới liên minh và đối tác quân sự. Sự kiện này từng được hầu hết các quốc gia trong khu vực hoan nghênh, trước là để ngăn chặn sự hồi sinh của chủ nghĩa quân phiệt Nhật, và sau nữa là để bảo đảm an ninh cho Tokyo và Seoul (loại bỏ nhu cầu các chương trình vũ khí hạt nhân địa phương) và để dập tắt một số căng thẳng nhỏ khác trong khu vực. Trong những năm gần đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc cùng với những khó khăn kinh tế và ngân sách của Hoa Kỳ đã bắt đầu tạo mối hoài nghi đối với tính bền vững của cơ cấu an ninh này. Một cảm thức bất an chiến lược và một mức độ đề phòng chiến lược bằng cách đi nước đôi đã bắt đầu xuất hiện tại nhiều thủ đô khác nhau trong khu vực. Chính sách “tái quân bình” (rebalance) của chính quyền Obama đã cung ứng một biện pháp điều chỉnh cần thiết, tái lập lại những yếu tố chiến lược cơ bản. Tự bản thân, chính sách này không đủ mạnh để duy trì hoà bình – một thách thức ngày càng trở nên phức tạp và khẩn cấp khi chính trị đại cường (great-power politics) tương tác với với một loạt xung đột chưa đủ tầm cỡ khu vực đang gia tăng và những đòi hỏi chủ quyền chồng lấn tại biển Hoa Đông và Hoa Nam [Biển Đông Việt Nam].
Trung Quốc nhìn những chuyển biến tình hình này qua lăng kính những ưu tiên đối nội và quốc tế của chính mình. Ủy ban Thường vụ Chính trị Bộ, gồm những lãnh đạo chóp bu của Đảng Cộng sản, coi những điều sau đây là trách nhiệm cốt lõi: phải bảo vệ quyền lãnh đạo của Đảng, phải duy trì sự vẹn toàn lãnh thổ của đất nước (gồm việc chống lại các phong trào li khai và bảo vệ các đòi hỏi chủ quyền biển đảo), phải duy trì mức tăng trưởng kinh tế vững mạnh bằng cách chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước, phải đảm bảo an ninh năng lượng, phải duy trì ổn định toàn cầu và khu vực để không gây phương hại cho nghị trình tăng trưởng kinh tế, phải hiện đại hóa quân đội Trung Quốc và phải mạnh dạn quyết đoán hơn nữa các lợi ích trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, và phải nâng cao địa vị của Trung Quốc như một đại cường.
Những ưu tiên toàn cầu và khu vực của Trung Quốc được hình thành chủ yếu do những đòi hỏi kinh tế và chính trị trong nước. Trong một thời đại mà chủ nghĩa Marx đã mất hết tầm quan trọng ý thức hệ, thì chính nghĩa còn lại của Đảng sẽ tùy thuộc vào một tổng hợp gồm có thành tích kinh tế, chính trị dân tộc chủ nghĩa, và nỗ lực chống tham nhũng. Trung Quốc quan niệm sự trỗi dậy của mình trong bối cảnh lịch sử của dân tộc, như là một hành động dứt khoát đối với một thế kỷ bị nước ngoài chà đạp (bắt đầu bằng Chiến tranh Nha phiến và kết thúc bằng sự chiếm đóng của Nhật) và như là một cách đưa đất nước trở lại địa vị xứng đáng của một nền văn minh lớn, có chỗ đứng được kính nể cùng với các quốc gia hàng đầu trên thế giới. Trung Quốc chứng minh rằng trong lịch sử chẳng mấy khi Trung Quốc đem quân đi xâm lược nước khác và không hề theo đuổi chủ nghĩa thực dân trên biển (khác hẳn các nước châu Âu) và chính bản thân Trung Quốc từng là mục tiêu của nhiều cuộc ngoại xâm. Do đó, theo quan điểm của Trung Quốc, phương Tây và các nước khác không có lý do gì để lo sợ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Thật ra, các nước khác có thể hưởng lợi từ sự vươn dậy này nhờ mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Bất cứ một quan điểm nào khác hơn đều bị Trung Quốc đả kích gay gắt, coi đó như một phần của học thuyết về “mối đe dọa của Trung Quốc”, một học thuyết mà Trung Quốc coi là tấm bình phong che chắn cho chính sách bao vây của Mỹ trên thực tế.
Tuy nhiên, điều mà Trung Quốc bỏ qua là sự khác biệt giữa “mối đe dọa” và sự “thiếu rõ ràng” (uncertainty) — thực chất của điều mà các nhà lý thuyết về bang giao quốc tế gọi là “nan đề an ninh” (the security dilemma) – nghĩa là, cái cách mà Bắc Kinh theo đuổi các lợi ích chính đáng của mình có thể gia tăng mối lo ngại cho các nước khác. Việc này nêu lên một câu hỏi bao quát hơn là, liệu Bắc Kinh đã phát triển một đại chiến lược cho dài hạn hay chưa. Những tuyên bố công khai của Bắc Kinh — nhấn mạnh rằng Trung Quốc muốn theo đuổi “một cuộc trỗi dậy hoà bình” hay “phát triển hoà bình” và tin tưởng vào nguyên tắc “hai bên đều có lợi” (win-win) hay “một thế giới hài hòa” – cũng như việc vận dụng châm ngôn của Đặng Tiểu Bình, “Che giấu sức mạnh, đợi lấy thời cơ”, cho đến nay vẫn chưa làm sáng tỏ vấn đề. Đối với người nước ngoài, câu hỏi then chốt là liệu Trung Quốc sẽ tiếp tục hoạt động bằng tinh thần hợp tác trong trật tự toàn cầu hiện nay, một trật tự đặt cơ sở trên luật pháp, sau khi Trung Quốc đạt được địa vị đại cường, hay thay vào đó Trung Quốc sẽ tìm cách khuôn nắn trật tự này theo hình ảnh của mình. Điều này vẫn là một câu hỏi chưa được trả lời.

Tương lai quan hệ Mỹ-Trung đang được thúc đẩy
TẬP CẬN BÌNH NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC TUÂN THEO
Trong phạm vi những ưu tiên tổng thể của Trung Quốc, Tập Cận Bình (Xi Jinping), Tổng bí thư vừa được chỉ định của Đảng Cộng sản và là Chủ tịch nước sắp nhậm chức, sẽ có một ảnh hưởng quan trọng và có lẽ quyết định trên chính sách quốc gia. Tập tỏ ra thoải mái với địa vị lãnh đạo này. Ông tự tin ở lý lịch quân sự cũng như lý lịch cải tổ của mình, và nhờ khỏi phải tốn công để chứng tỏ khả năng của mình trên hai bình diện này, ông có được một ít tự do để xoay xở tình hình. Ông đọc nhiều sách và có sự hiểu biết của một sử gia về trách nhiệm của mình đối với đất nước. Tự bản năng, Tập đã là một nhà lãnh đạo và sẽ không lấy làm thoả mãn với việc duy trì nguyên trạng trong chính sách hiện nay. Nếu đem so với tất cả các người tiền nhiệm, Tập là quan chức có khả năng cao nhất kể từ thời Đặng Tiểu Bình để trở thành một nhân vật cao hơn một kẻ dẫn đầu giữa những người đồng đẳng (primus inter pares), mặc dù vẫn nằm trong giới hạn của quyền lãnh đạo tập thể (collective leadership).
Tập đã đi một bước dẫn đầu chưa từng thấy. Ông tuyên bố thẳng thừng rằng nếu nạn tham nhũng không được giải quyết, Trung Quốc sẽ rơi vào một tình trạng hỗn loạn như Mùa Xuân Á Rập, và ông đã đưa ra những nội qui mới mẻ, minh bạch cho giới lãnh đạo về vấn đề xung đột lợi ích [giữa công và tư]. Ông vạch ra những cẩm nang cho Chính trị Bộ nhằm cắt giảm những cuộc hội họp thiếu nội dung và những diễn văn chính trị dài dòng, ông hậu thuẫn việc đàn áp một số báo chí và websites trong nước có thái độ thẳng thắn về mặt chính trị, và ông lên tiếng ca ngợi những nhà hiện đại hoá quân đội Trung Quốc. Đặc biệt là, Tập đã công khai vay mượn tư duy từ cẩm nang chính trị của Đặng Tiểu Bình, khi tuyên bố rằng hiện nay Trung Quốc vẫn cần thêm nhiều cải tổ kinh tế hơn nữa. Tuy nhiên, về chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng, Tập vẫn còn giữ thái độ tương đối im lặng. Nhưng trong vai vế là một thành viên cao cấp của Quân ủy Trung ương, cơ quan kiểm soát quân lực Trung Quốc (Tập giữ chức Phó Chủ tịch từ 2010 đến 2012 và vừa được chỉ định vào chức Chủ tịch gần đây), Tập đã đóng một vai trò quan trọng trong “những nhóm lãnh đạo” của Quân ủy về chính sách đối với biển Hoa Đông và biển Hoa Nam [biển Đông Việt Nam], và những hành động gần đây của Bắc Kinh trên những vùng biển này đã khiến một số nhà phân tích thời sự kết luận rằng ông ta là một người cứng rắn, không nương nể, trên vấn đề chính sách an ninh quốc gia. Một số nhà bình luận khác lại chú ý đến những ý kiến về chính sách đối ngoại mà ông đã phát biểu trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tháng Hai năm 2012, khi ông nói đến nhu cầu phải có “một loại quan hệ đại cường mới” với Washington và rõ ràng là chính ông đã lấy làm ngạc nhiên khi gần như không nhận được một phản hồi đáng kể nào từ phía Mỹ.
Vào thời điểm này mà coi Tập Cận Bình có tiềm năng trở thành một Gorbachev và coi những cải tổ của ông như là bước đầu của một glasnost Trung Quốc là không đúng. Trung Quốc không phải là Liên Xô và cũng không sắp sửa trở thành một Liên bang Nga. Tuy nhiên, trong thập kỷ tới, Tập có thể đưa Trung Quốc đi theo một hướng mới. Các lãnh đạo mới của Trung Quốc vốn là những nhà cải tổ kinh tế từ trong bản năng hay do được đào tạo về mặt tri thức. Việc thực hiện một cuộc chuyển đổi rộng lớn như họ dự trù sẽ cần đến hầu hết vốn liếng chính trị của họ và sẽ đòi hỏi quyền kiểm soát chính trị liên tục và vững chắc, thậm chí cả khi những cải tổ này tạo ra các lực tác động mạnh mẽ để thay đổi xã hội và chính trị. Hiện vẫn chưa có một kịch bản được đồng thuận cho việc cải tổ chính trị lâu dài; chỉ có một nhiệm vụ trước mắt là nới rộng quyền dân chủ trong nội bộ Đảng của 82 triệu đảng viên. Khi nói đến chính sách đối ngoại, tính trung tâm của nhiệm vụ kinh tế trong nước hàm chứa ý nghĩa là lãnh đạo Trung Quốc muốn duy trì ổn định chiến lược hơn nữa chí ít trong thập niên tới. Điều này thỉnh thoảng có thể mâu thuẫn với những đòi hỏi chủ quyền trên biển của Trung Quốc, nhưng khi có sự mâu thuẫn, Trung Quốc sẽ muốn giải quyết các xung đột hơn là để chúng phá hoại sự ổn định này. Nói chung, Tập là một nhà lãnh đạo mà Hoa Kỳ nên tìm cách làm việc với, không những trong nỗ lực quản lý các vấn đề chiến thuật thường ngày mà còn trên những vấn đề chiến lược rộng lớn hơn, lâu dài hơn.