Nguyễn Văn Thiệu và những "hành động mafia" để chiếm ghế Tổng thống. Tranh thủ tối đa sự hậu thuẫn của Mỹ và lực lượng rối rắm của đảng Dân chủ do chính ḿnh lập ra, vào năm 1967 Nguyễn Văn Thiệu đă giành được chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống dù chỉ nhận được 38% số phiếu ủng hộ. Và ông ta đă to tiếng tuyên bố thành lập cái gọi là nền đệ nhị cộng ḥa ở Sài G̣n.
Xoay như chong chóng
Cuộc đảo chính sát hại anh em Ngô Đ́nh Diệm – Ngô Đ́nh Nhu ngày 1/11/1963 rốt cuộc lại đẩy chính trường Sài G̣n vào một ṿng xoáy “quần ngư tranh thực” mới giữa các viên tướng nhiều tham vọng. Chính v́ thế nên trong hơn ba năm đă liên tục xảy ra những cuộc thanh trừng, chỉnh lư lẫn nhau giữa những kẻ đă chung tay xóa bỏ chế độ gia đ́nh trị của họ Ngô.
Rốt cuộc là một chính phủ dân sự đă được lập ra để xóa đi cái tiếng xấu là đám tướng lĩnh của cái gọi là quân đội Sài G̣n lật đổ Ngô Đ́nh Diệm không phải v́ muốn xóa bỏ chế độ độc tài mà chỉ v́ tư lợi. Tuy nhiên, chính phủ của thủ tướng Trần Văn Hương cũng đă không làm được ǵ đáng kể để văn hồi trật tự ở Sài G̣n.
Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa Nguyễn Văn Thiệu.
Nguyễn Văn Thiệu là một trong những người đă gặt hái được nhiều lợi lộc nhờ tham gia cuộc đảo chính ngày 1/11/1963. Từ ghế đại tá, ngay trong ngày 2/11/1963, ông ta đă được nhảy lên cấp thiếu tướng và là người đầu tiên trong đội ngũ quân nhân đảo chính được hưởng sủng lộc này với sự hỗ trợ đặc biệt của tướng Trần Thiện Khiêm, một trong những nhân vật trụ cột trong nhóm lănh đạo đảo chính (theo nhiều nguồn tin, Trần Thiện Khiêm khi đó đă là một tay sai vô điều kiện của CIA).
Cũng với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Trần Thiện Khiêm mà tới tháng 2/1964, khi nhóm tướng lĩnh chóp bu của quân đội Sài G̣n tiến hành “chỉnh lư”, Nguyễn Văn Thiệu đă được đưa vào chức Tham mưu trưởng liên quân. Rồi ông ta được đưa đi làm Tư lệnh Quân đoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật từ tháng 9-1964 đến tháng 1/1965… Trên cương vị đó, Nguyễn Văn Thiệu đă lặng lẽ “ngọa sơn quan hổ đấu” để đợi thời cơ.
Có thể nói là chính ở thời điểm đó, Nguyễn Văn Thiệu đă bộc lộ được sự khôn ngoan không tầm thường của ḿnh để mặc dù tham gia cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 chỉ ở vai tṛ chiến thuật nhưng rốt cuộc, trong một thời gian ngắn, đă leo lên được vị trí hàng đầu trong bộ máy quyền lực ở Sài G̣n nhờ biết nhẫn nại náu ḿnh đợi thời cơ để đ̣i hỏi cái giá hời nhất cho mọi sự dính líu của ông ta.
Và thời cơ đó đă tới vào ngày 18/1/1965, như một dư chấn sau âm mưu khủng bố bất thành của một nhóm tướng lĩnh và chính phủ của Thủ tướng Trần Văn Hương do yếu thế đă buộc phải cải tổ lại để chia thêm bốn ghế cho những nhân vật quân sự là những người người đă bày tỏ sự ủng hộ tướng Nguyễn Khánh khá rơ rệt.
Đó là Nguyễn Văn Thiệu (giữ chức Đệ nhị Phó thủ tướng), Trần Văn Minh, tức Minh nhỏ (Tổng trưởng quân lực), Linh Quang Viên (Tổng trưởng Tâm lư chiến) và Nguyễn Cao Kỳ (Tổng trưởng Thanh niên thể thao). Đó cũng là lần đầu tiên Nguyễn Văn Thiệu xuất hiện ở Sài G̣n với tư cách một chính trị gia, chứ không chỉ như một viên tướng trận thuần túy.
Cuộc chỉnh lư “nửa chừng xuân” này vẫn không làm yên cái chính trường vốn đang chất chứa quá nhiều mâu thuẫn và âm mưu. Dưới tác động của nhiều xung lực vật chất và ư đồ khác nhau, tại đây đă liên tục diễn ra biểu t́nh, thậm chí gần như bạo động chống lại chính phủ. Nhóm tướng lĩnh chóp bu của quân đội Sài G̣n tranh thủ thời cơ và ngày 27/1/1965, cái gọi là Hội đồng quân lực Sài G̣n đă ra tuyên cáo nêu rơ, mặc dù “quân đội đă trả quyền từ ngày 27 tháng 10 cho phía dân sự nhưng t́nh thế mỗi ngày mỗi rối ren”.
Và ngày 28/1, chính cái Hội đồng quân lực đó đă gây sức ép và quyết định đẩy ông Trần Văn Hương ra khỏi chức Thủ tướng và để ông Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh làm Quyền Thủ tướng. Rồi ngày 16/2/1965, tướng Nguyễn Khánh, lúc đó đang giữ ghế Tổng tư lệnh quân đội VNCH, đă kư quyết định tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và bổ nhiệm ông Phan Huy Quát làm Thủ tướng thành lập chính phủ mới. Nguyễn Văn Thiệu, đă được đeo lon trung tướng từ ngày 18-1-1965, với tư cách một chính khách của cộng đồng tín đồ Thiên chúa giáo tiếp tục được tham gia nội các…
Cách hành xử của tướng Nguyễn Khánh cũng vẫn không làm yên được không khí nóng bỏng của Sài G̣n. T́nh h́nh ngày một rối như canh hẹ, khiến tướng Khánh đă bị chính các đồng đội nhà binh của ḿnh nghi hoặc rằng, ông ta làm tung tóe mọi chuyện lên chỉ để t́m kiếm thêm cơ hội quay lại nắm quyền lực tối cao.
Thế là ngày 20/2/1965, Hội đồng quân lực lại họp và quyết định thay thế tướng Nguyễn Khánh bằng tướng Trần Văn Minh làm Tổng tư lệnh quân đội Sài G̣n. Lúc này, nhóm tướng lĩnh trẻ hơn như Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Cao Kỳ… cảm thấy ḿnh cũng đă bắt đầu đủ lông đủ cánh nên bày tỏ thái độ chống lại tướng Khánh mạnh mẽ và công khai hơn.
Rốt cuộc ngày 22/2/1965, tướng Khánh được bổ nhiệm chức đại sứ lưu động và sau đó, đă phải rời khỏi Sài G̣n tha hương. Trong bối cảnh này, Nguyễn Văn Thiệu đă trở thành con bài đắc dụng. Trong giai đoạn này, Nguyễn Văn Thiệu đă thể hiện rơ bản tính khôn ngoan và tráo trở của ḿnh.
Ông ta đă biết khéo léo dụ thủ tướng Quát giao quyền hành lại cho quân đội để ông, với tư cách là người có quân hàm cao nhất trong số những người tham chính, có thể trở nên lănh tụ tuyệt đối ở Sài G̣n. Khi tướng Mỹ Westmoreland tới gặp ông ta khi đang là Tổng trưởng Quốc pḥng, ông ta đă làm ra vẻ vô tư và nói: “Các vấn đề chính trị phải để cho các chính trị gia giải quyết. Tôi chỉ là quân nhân thuần túy”.
Ngày 3/3/1965, Hội đồng quân lực đă công bố thành lập Uỷ ban thường vụ mà trong đó, chức tổng thư kư đă được dành cho Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu… Các chức vụ khác là: uỷ viên ngoại giao, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ; uỷ viên chính trị, Thiếu tướng Linh Quang Viên; uỷ viên an ninh, Thiếu tướng Phạm Văn Đổng; phụ tá tổng thư kư, Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao…
Năm ngày sau đó (8/3/1965), 1.500 lính thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đă tới Đà Nẵng, nâng tổng số quân Mỹ tại miền Nam Việt Nam lên 23 ngh́n người (dưới chế độ Diệm, tổng số quân Mỹ tại đó là 17 ngh́n).
Ngày 23/3/1965, Hội đồng quốc gia lập pháp ở Sài G̣n ra tuyên ngôn tán thành việc Mỹ gởi thủy quân lục chiến sang tham chiến tại Việt Nam. Tới ngày 5-5-1965, biết là không thể bám măi vị trí cầm chịch nên Hội đồng quân lực đă tuyên bố tự giải tán để các viên tướng trở về với các đơn vị của họ. Ngày 25/5, Thủ tướng Phan Huy Quát cải tổ chính phủ nhưng những đấu đá nội bộ vẫn không chấm dứt.
Đến mức, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu cũng phải thú nhận công khai rằng ông ta không thể kư bổ nhiệm các nhân vật mới như những ông Nguyễn Văn Thoàn và Nguyễn Trung Vinh v́ lẽ những người giữ các vị trí đó từ trước dứt khoát không chịu từ chức… Không những thế, ngày 26/5, giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát lại bộc lộ công khai những bất đồng quan điểm về quyền hạn thay thế bộ trưởng.
Việc cải tổ nội các Sài G̣n lâm vào khủng hoảng, mặc dù Washington có vẻ như vẫn tín nhiệm chính phủ Phan Huy Quát. Cực chẳng đă, Phan Huy Quát đă phải yêu cầu quân đội đứng ra lănh vai tṛ trung gian để giữ thế quân b́nh cho đến khi có một chính quyền dân cử… Các viên tướng trẻ đầy tham vọng như buồn ngủ gặp chiếu manh đă ngay lập tức tung hết các chiêu thức học được sau mấy chục năm phục vụ trong đội ngũ lính tẩy làm tay sai ngoại bang ra để thâu tóm quyền lực.
Và ở thời điểm này, sự tinh quái tháu cáy của Nguyễn Văn Thiệu đă trở nên đắc dụng. Ngày 11/6, trong cuộc họp của các viên tướng tại Sài G̣n để xét thư yêu cầu quân đội ra tay trợ giúp, Trung tướng Thiệu, người lúc đó đang giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng trong nội các của Thủ tướng Quát, đă t́m ra được một cách diễn giải khôn ngoan rằng, cuộc khủng hoảng đang diễn ra không do lỗi chính phủ mà do sự lỗi thời của các văn bản đă được thông qua sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ.
Và ngay lập tức, cũng trong ngày 11/6, quốc trưởng, thủ tướng và hội đồng quốc gia lập pháp Sài G̣n đă cùng ra các tuyên cáo xác định rằng những cơ cấu và thể chế quốc gia hiện tại không c̣n phù hợp với t́nh thế nữa nên giao trả cho quân đội trách nhiệm và quyền hành lănh đạo quốc gia. Hội đồng quân lực đă ngay lập tức chấp nhận đơn từ chức của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát.
Tới ngày 14-6-1965, Hội đồng quân lực đă đứng ra thành lập Ủy ban lănh đạo quốc gia với vị trí số một dành cho Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu như một lẽ dĩ nhiên, mặc dầu ở thời điểm đó, Nguyễn Văn Thiệu không hẳn đă là một con bài rơ nét trên bàn cờ Sài G̣n. Ngay cả chi nhánh CIA ở đây cũng chưa hiểu ǵ nhiều lắm về Nguyễn Văn Thiệu và chỉ mới h́nh dung ông ta như một viên tướng kín tiếng, đa nghi “trên cả mức hoang tưởng”…
Tiếp theo, ngày 19/6/1965, Nguyễn Văn Thiệu trở thành kẻ đứng đầu chế độ Sài G̣n qua chức Chủ tịch Ủy ban lănh đạo quốc gia. Hơn hai năm sau, qua nhiều cuộc đấu đá quyết liệt và hiểm độc, thậm chí phải qua cả tṛ tranh cử giả hiệu dưới sự lũng đoạn của những đồng USD do Mỹ đổ vào, ngày 31/10/1967, Nguyễn Văn Thiệu đă leo lên được cái ghế tổng thống của cái gọi là nền đệ nhị cộng ḥa.
Bắt đầu một giai đoạn mới trong đời sống chính trị Sài G̣n. Chưa ngồi ấm chỗ, Nguyễn Văn Thiệu, như Đỗ Mậu nhận xét, với nhiều toan tính và thủ đoạn, đă t́m đủ mọi cách để loại bỏ các đối thủ tiềm năng, kể cả Nguyễn Cao Kỳ, người về h́nh thức đang là đồng minh thận cận hàng đầu của ḿnh. Và cũng như chính Đỗ Mậu nhận xét, Nguyễn Văn Thiệu đă tái lập ở Sài G̣n một chế độ Diệm không có Diệm…
Đấy cũng là một chế độ mà các tệ nạn, như nhận xét của những người đương thời, “hối mại quyền thế, tham nhũng, thối nát, trấn lột tiền bạc, bao che và thông đồng trong các dịch vụ buôn lậu ma tuư, vàng, đầu cơ phân bón, đầu cơ gạo… hoành hành tột độ…”. Cũng chính từ khi Nguyễn Văn Thiệu lên ngồi ở vị trí chèo lái con thuyền hậu đệ nhất cộng ḥa ở Sài G̣n, sự can thiệp của Mỹ vào công việc nội bộ của người Việt Nam càng trở nên rơ rệt và trắng trợn hơn.
Năm 1967, tranh thủ tối đa sự hậu thuẫn của Mỹ và lực lượng rối rắm của đảng Dân chủ do chính ông ta lập ta, Nguyễn Văn Thiệu đă giành được chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống dù chỉ nhận được 38% số phiếu ủng hộ. Và ông ta đă to tiếng tuyên bố thành lập cái gọi là nền đệ nhị cộng ḥa ở Sài G̣n. Nghe th́ rất kêu nhưng chế độ mà Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu càng ngày càng phụ thuộc vào Washington, thậm chí c̣n hơn cả thời Ngô Đ́nh Diệm.
Càng tham quyền lợi cá nhân, Nguyễn Văn Thiệu càng làm suy yếu đi những rường mối xă hội b́nh thường ở Sài G̣n. Trong bàn tay lèo lái của Nguyễn Văn Thiệu, mọi khái niệm dân chủ đều bị biến thành giả hiệu. Chính v́ thế nên chiến thắng của ông ta trong cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam cộng ḥa năm 1971 cũng đă chỉ là tṛ hề không hơn không kém dù tỉ lệ phiếu mà ông ta thu được là 94%…
Tiểu nhân đắc chí
Cũng phải nói rằng, trong đội ngũ những nhân vật một thời làm mưa làm gió trên chính trường Sài G̣n, Nguyễn Văn Thiệu vẫn là kẻ đa mưu và bản lĩnh vào loại hàng đầu. Theo lời kể của Băng Đ́nh, cựu Trưởng phái đoàn Báo chí Phủ Tổng thống, và Thiếu tá Châu Bích, từng phục vụ nhiều năm tại Dinh Độc Lập, những người đă có nhiều cơ hội gần gũi với Nguyễn Văn Thiệu, thực ra ông ta cũng chỉ là một lính tẩy với lối sinh hoạt ăn sóng nói gió rất huỵch toẹt, không cần màu mè…
Nhưng đó cũng là một chính trị gia xu thời bậc nhất mà đến như Nguyễn Văn Ngân, người từng là phụ tá thân cận của ông ta trong ngót chục năm, cũng đă phải công nhận bằng những lời lẽ có vẻ như nhẹ nhàng nhưng lại rất chuẩn xác “một nhà chính trị thực tiễn mà hoàn cảnh và môi trường trưởng thành không thể tạo ông thành một kẻ tử đạo”!
Cái hoàn cảnh và môi trường trưởng thành đó là ǵ? Cũng theo ông Nguyễn Văn Ngân, Nguyễn Văn Thiệu đă sinh ra trong một gia đ́nh trung nông, không đủ ruộng cày phải làm thêm ruộng rẽ của gia đ́nh bà con. Lúc 5 tuổi đă phải đi giao cho bán bánh tét ngoài chợ, va đập với mọi thứ người chợ búa và sau này lớn lên, ở trong môi trường lính tẩy thực dân từ rất sớm nên đă trở thành một kẻ rất biết tranh hơn thua với những người khác và “luôn luôn đề cao cảnh giác trong mọi t́nh huống”.
Khi đă làm Tổng thống, Nguyễn Văn Thiệu, cũng giống như người tiền nhiệm xấu số Ngô Đ́nh Diệm, vẫn không bao giờ tin hẳn ngay cả đối với các cộng sự cao cấp nhất trong bộ máy chính quyền của ḿnh. Ông Nguyễn Văn Ngân kể: “Dưới thời ông Diệm cũng như ông Thiệu, Hội đồng tổng, bộ trưởng chỉ họp bàn những công việc có tính cách “routine” (sự vụ) hàng ngày. Ngay cả Hội đồng an ninh quốc gia dưới thời đệ nhị cộng ḥa cũng chỉ là “b́nh phong“ để ông Thiệu hợp thức hóa các quyết định của ḿnh…”.
Làm việc dưới quyền điều hành của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ngay cả những nhân vật có vẻ như trọng yếu của chế độ Việt Nam cộng ḥa như Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Thiện Khiêm hay Phó thủ tướng, bác sĩ Nguyễn Lưu Viên… lắm lúc cũng có tâm trạng của những kẻ chỉ được chầu ŕa…
Ông Nguyễn Văn Ngân cũng nhận xét, ông Thiệu là “người luôn luôn che giấu tư tưởng của ḿnh và là chuyên viên khai thác tư tưởng của người khác… Cho đến lúc chết có những người vẫn không hiểu ư nghĩ thực sự của ông về họ như thế nào. Một bà nghị sĩ có cặp mắt và nụ cười rất lẳng vẫn ra vô thường xuyên dinh Độc Lập được xem là bạn thân của ông và ông Khiêm (tức Trần Thiện Khiêm, nguyên thủ tướng trong chính quyền Sài G̣n – TG), nhưng khi tôi làm việc riêng với ông, ít khi ông gọi tên bà ta mà gọi là “con điếm xịa”.
Một đại sứ Việt Nam cộng ḥa được đánh giá là chuyên gia về các vấn đề Hoa Kỳ mà thực sự là nhân viên của cơ quan t́nh báo Mỹ, khi nhắc đến tên ông ta, mặt ông Thiệu thường đanh lại lộ vẻ khinh bỉ… Ông cực kỳ khinh ghét những thành phần trí thức khoa bảng là những người được xă hội ưu đăi về phương diện văn hóa lại làm gián điệp cho ngoại bang. Số người này rất nhiều, trong tất cả mọi ngành nghề, mọi lănh vực: viện trưởng, khoa trưởng, giáo sư đại học, cha cố, sư săi, lănh tụ chính đảng…
Người Mỹ cũng có kế hoạch trồng người và nuôi dưỡng như cộng sản (?!), nhiều nhân vật đă được móc nối từ lúc c̣n là du học sinh là thành phần được xem là ưu tú của quốc gia hoặc thuộc hạng con ông cháu cha, nhiều bằng cấp kể cả học vị tiến sĩ quốc gia thuộc các lănh vực khoa học thực nghiệm đă được cấp phát một cách rộng răi để khi trở về có thể chèo cao trong guồng máy chính quyền, hay chí ít để gây ảnh hưởng văn hóa…”.
Chính v́ biết cách hành xử hư hư thực thực, khôn khéo ngụy trang và đánh lạc hướng đối với những người xung quanh, coi bất cứ ai dù thân cận đến mấy cũng có nhiều phần đối thủ hơn là phần bằng hữu, lại sẵn “bản lĩnh” gian trá được tôi luyện từ nhỏ nơi “kẻ chợ” nên Nguyễn Văn Thiệu đă lướt qua được nhiều cạm bẫy trên chính trường Sài G̣n đầy phản trắc. Nhưng rồi, khôn ngoan mấy cũng không thắng được mệnh giời!
Nguyễn Văn Thiệu rất đa nghi, ngay cả (hoặc đặc biệt là) đối với các quan thầy Mỹ. Có lẽ ông ta suốt đời bị ám ảnh bởi bi kịch chết thảm của anh em Ngô Đ́nh Diệm – Ngô Đ́nh Nhu, nên lúc nào ông ta cũng lo, lỡ đâu không đáp ứng được hết các yêu cầu của quan thầy và tất yếu bị quan thầy thay ngựa giữa ḍng và loại bỏ khỏi cuộc chơi khốc liệt này.
Cũng ông Nguyễn Văn Ngân đă phải công nhận: “Đồng minh Mỹ là một đồng minh bất trắc, khó tiên liệu, và ông Thiệu luôn ở trong t́nh trạng của người làm xiếc đi dây nguy hiểm. Có lần tôi lưu ư ông Thiệu về trường hợp Tổng Thống Magsaysay, Lư Thừa Văn, Ngô Đ́nh Diệm…, ông Thiệu nói với tôi là ông không có an ninh…”.
Cũng ông Nguyễn Văn Ngân nhận xét rằng, đối với Nguyễn Văn Thiệu, Mỹ là kẻ thù giấu mặt nguy hiểm hơn mọi kẻ thù khác. Ông ta không bao giờ tin tưởng vào những người liên hệ xa gần với Mỹ, dù đó là bà con của ông ta và được ông ta ủy thác đóng vai tṛ liên lạc viên với Mỹ…
Không tin bất cứ ai xung quanh ḿnh, trong việc điều hành quân đội Việt Nam cộng ḥa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng chọn cách “chia để trị”, nghĩa là ông ta để mặc cho các viên tư lệnh quân đoàn tự tung tự tác và chỉ chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ ḿnh ông ta, làm nḥa đi vai tṛ điều phối của cơ quan Bộ Quốc pḥng.
Sau này, khi đă lưu vong, chính Nguyễn Văn Thiệu trong một lần trả lời phỏng vấn cũng đă công nhận rằng, trên thực tế, mỗi viên tư lệnh quân đoàn là một “ḥn đảo độc lập” và không có một guồng máy trung ương nào về việc dự thảo các kế hoạch chiến tranh một cách hữu hiệu tại Bộ Quốc pḥng…”.
Trong cuốn The Final Collapse, Đại tướng quân đội Sài G̣n Cao Văn Viên cũng thừa nhận rằng, tất cả những quyết định về quân sự đều do Tổng thống Thiệu đưa ra và Bộ Tổng tham mưu là “hoàn toàn chỉ có tính cách cố vấn”…: Chính v́ chán cảnh hữu danh vô thực như thế nên tướng Cao Văn Viên đă xin từ chức Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam cộng ḥa đến mấy lần…
Nhà nghiên cứu Đặng Văn Nhâm đă nhận xét rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và vợ là Nguyễn Thị Kim Anh “đă lợi dụng chức vụ nguyên thủ quốc gia và đệ nhất phu nhân để thực hiện nhiều dịch vụ phi pháp như: trấn lột tiền bạc của Nguyễn Cao Thăng (Theo thông tin của Đỗ Mậu, viết trong sách của ḿnh, Nguyễn Cao Thăng nguyên là Giám đốc Hăng thuốc O.P.V., người Công giáo Phú Cam, từng làm dân biểu gia nô và Kinh tài cho anh em Ngô Đ́nh Diệm – Ngô Đ́nh Nhu).
“Nhiệm vụ chính trị của Thăng là xây dựng cho ông Thiệu một quốc hội bù nh́n mà đa số phải là người Công giáo. Chính ông Thăng thay ông Thiệu để giao thiệp, mua chuộc, hướng dẫn và kiểm soát quốc hội để điều hướng định chế gọi là “dân cử” này ủng hộ đường lối của ông Thiệu. Khi ông Thăng bất th́nh ĺnh chết v́ bệnh ung thư th́ phụ tá của ông Thăng trong dinh Độc Lập là ông Nguyễn Văn Ngân lên thay thế”.
“Ông Ngân là người Công giáo Nghệ Tĩnh, bà con của Linh mục Cao Văn Luận. Đúng như giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ đă nói trong tác phẩm “Những ngày cuối cùng của Việt Nam cộng ḥa”, hết Thăng rồi đến Ngân, họ chính là những người nắm giữ tay ḥm ch́a khóa của quỹ chi tiền cho các dân biểu, nghị sĩ và các lực lượng thân chính…”, tham nhũng, hối lộ, mua quan bán chức, chiếm đoạt công điền công thổ, mua chuộc dân biểu, nghị sĩ gia nô, dung túng bao che tội ác cho thân nhân, gia tộc, bọn tay chân bộ hạ để chia chác trong các dịch vụ: buôn bạch phiến, vàng và thuốc phiện, đầu cơ phân bón, đầu cơ gạo…”
“Chính những hành động mafia của Nguyễn Văn Thiệu đă tạo nên tệ trạng kiêu binh, kiêu tướng lộng hành, coi thường luật pháp quốc gia, áp bức hăm hại dân chúng của một số tướng tá trong quân đội Việt Nam cộng ḥa, mà ảnh hưởng c̣n kéo dài măi đến nay ở hải ngoại vẫn chưa dứt…”.
VietBF@ sưu tập