- 2 máy Fairbanks-Morse, công suất 6400 mă lực [1], 2 trục chân vịt.
– Khả năng :
- Tốc độ tối đa 18,2 knots tầm hoạt động 8000 hải lư. [1]
- Tốc độ tiết kiệm 10 knots tầm hoạt động 18050 hải lư. [1]
– Radar :
SPS-51, SPS-29/Sonar SQS-1 [1]
[1] dựa theo tài liệu chính thức của Lực lượng Tuần Duyên Hoa Kỳ trong năm 1966.
Phần trang bị vũ khí dựa theo HQ Trung Úy Trương Văn Liêm K.1 OCS, phục vụ trên HQ 5 khi xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa.
– Vũ khí :
• 1 khẩu đại bác 127 ly sân trước mũi
• 1 khẩu đại bác 40 ly đôi phía trước boong trên
• 2 khẩu đại bác 20 ly (tả, hữu) ngang pḥng lái
• 2 khẩu đại liên 50 (tả, hữu) boong trên
• 2 khẩu đại bác 40 ly đơn (tả, hữu) phía sân sau.
Khi bàn giao cho Hải quân VNCH, dàn phóng chống tàu ngầm Hedgehog (Mk10 Mod 1) và 2 dàn ống phóng thủy lôi (Mk38 Mod 5) đă bị tháo gỡ , c̣n lại 1 khẩu đại bác 127 ly và đại liên 50.
Sau khi tiếp nhận HQVN đă thiết trí thêm đại bác 40 ly và đại bác 20 ly.
– Thủy thủ đoàn :
- Khoảng 200 người.
3.-HỘ TỐNG HẠM NHỰT TẢO- HQ 10
– Trọng tải :
- 650 tấn (tiêu chuẩn) / 945 tấn (tối đa).
– Kích thước :
- Dài 56,2 m (184,5 ft) / ngang 10 m (33 ft) / tầm nước 3 m (9,75 ft).
• 1 khẩu đại bác 76,2 ly phía sân trước có tầm xa tối đa 14000 yds, tầm hữu hiệu 7500 tác xạ với tốc độ nhanh 50 phát/phút, với tốc độ thích ứng 20 phát/phút.
• 2 khẩu đại bác 40 ly (tả và hữu) phía sân sau có tầm xa tối đa 11000 yds, tầm hữu hiệu 4000 yds, tác xạ với tốc độ 140 phát/phút.
• 2 đại bác 20 ly đôi 2 phía sau pḥng lái, tầm xa tối đa 4,800 yds, tầm hữu hiệu 2,000 yds, tác xạ với tốc độ 450 phát/phút.
• 2 khẩu đại liên 30
• súng cối 81 ly (không rơ số lượng)
(dựa trên tài liệu Vietnamese Navy Fleet Command Ships của Cố vấn HQ/HK)
• Vũ khí chống tàu ngầm :
Với nhiệm vụ tuần tiễu và hộ tống các dụng cụ rà ḿn đă được tháo gỡ và thay vào đó là 2 dàn thủy l lựu đạn (depth charge rack) được thiết trí ở phía sau lái, ngoài ra c̣n có 1 dàn phóng thủy lựu đạn (hedgehog) ở phía sân trước.
– Vận tốc :
- Tối đa 14,5 knots.
Với vận tốc tiết kiệm là 8 knots tầm hoạt động 6,500 miles
"Khoảng đầu năm 1973 [/]bkhi tôi phục vụ ở Căn Cứ Hải Quân / Mỹ Tho ( CCHQ/MT) , một hôm có người Bạn học cũ là Sĩ Quan Liên Lạc T́nh Báo (SQ / LLTB) với HK ( NILO ) vào báo cho tôi tin là :
- " VC định đánh đắm 1 chiến hạm của ta ở cầu tàu CCHQ/MT " .
Tin đúng vào lúc chiếc Y Tế Hạm HQ 400 ( hay HQ 401) vừa xong công tác dân sự vụ ở thượng nguồn sông Tiền ( Tân Châu , Hồng Ngự ... ) .
Trên đường trở về Sài G̣n đă ghé Mỹ Tho , có lẽ để cho nhân viên xả hơi và đi chợ mua thực phẩm tươi .
Tôi yêu cầu người Bạn gửi cho 1 công điện chính thức , đồng thời lên tŕnh ngay cho Chỉ Huy Trưởng CHT sự việc , tôi xin tăng cường việc ném lựu đạn và gửi công điện báo cho chiếc Y Tế Hạm cùng 2 đơn vị Bạn đồn trú trong CCHQ/MT là :
- Giang Đoàn 56 Tuần Thám ( GĐ56TT) ( Bạn M làm CHP )
- Giang Đoàn 42 Ngăn Chận ( GĐ42NC ) ( Bạn N.T.V là CHP ) .
B́nh thường mỗi hôm chúng tôi chỉ xử dụng 10 ( 15 ) trái thuỷ lựu đạn MK3A2 ném không theo giờ giấc nhất định .
Hôm đó số lựu đạn được tăng gấp đôi .
Tin t́nh báo của người Bạn NILO thật chính xác .
Hai tên đặc công thuỷ của VC định đánh đắm chiếc Y Tế Hạm v́ bị lựu đạn ném nhiều hơn thường lệ nên chưa dám mạo hiểm mà chỉ thả giữa gịng chờ khi thuận tiện .
Xin được nói sơ về Đặc Công Thuỷ (ĐCT) của VC .
- Chúng không có nhiều phương tiện như Người Nhái của ta .
Để chống lạnh , chúng chỉ dùng mở ḅ trộn lọ nghẹ thoa khắp châu thân và uống thêm ít nước mắm .
- Để thở , chúng không có b́nh dưỡng khí , nên dùng 1 ống cao su để ló trên mặt nước khoảng 1 tấc nhờ xuyên qua 1 vật nổi như chiếc dép cao su .
- Chất nổ th́ chúng cột vào bộp dừa nước chế biến sao chỉ lơ lững dưới nước nhưng không ch́m lĩm .
Với những phương tiện đơn sơ như thế nhửng tên đặc công thuỷ VC có thể lặn hàng giờ dưới nước .
Không may cho 2 tên đặc công thuỷ này , đang ở giữa gịng th́ 1 tàu tuần của Giang Cảnh chạy ngang .
Thường th́ dù nước lớn hay ṛng , các vật nổi trên mặt nước ( như lục b́nh …) cũng phải trôi xuôi gịng , nhưng chiếc dép cao su có ống thở của 2 tên ĐCT th́ lại ngược gịng .
Thấy việc bất thường nhân viên chiếc Giang Cảnh liền ném xuống 1 , 2 trái lựu đạn chống người nhái làm 1 tên ĐCT chết ngay , 1 tên khác bị thương nặng cố bơi vào bờ .
Có lẻ v́ hoảng hốt thay v́ lặn trở về nơi xuất phát là Cù Lao Rồng , tên này lại bơi vô nghịch hướng và bị bắt ở bờ sông thuộc Công Viên Lạc Hồng .
Hắn được đưa vào Bệnh Viện 3 Dả Chiến để chửa trị , nhưng v́ lục phủ , ngũ tạng bị chấn động quá mạnh nên đă chết trước khi được Nhân Viên T́nh Báo Bạn khai thác .
Tiểu Khu Định Tường thông báo cho chúng tôi tin tức và chúng tôi cũng báo ngay cho các Đơn Vị Bạn .
Chiếc Y Tế Hạm HQ 400 được tin lập tức tách cầu tàu CCHQ/MT chạy một mạch về Sài G̣n .
Không biết họ đă báo cáo thế nào mà Giới chức Cao Cấp ở Bộ Tư Lệnh / Hải Quân ( BTL/HQ) và Bộ Tư Lệnh / Hạm Đội ( BTL/HĐ ) đă khen thưởng và tặng cho chiến hạm này một số tiền khá lớn , trong khi kẻ thực sự có công trong việc này là viên SQ/LLTB đă cung cấp tin chính xác và chiếc Giang Cảnh đă hạ 2 tên Đặc Công Thuỷ VC .
Phương cách làm việc của một số giới chức cao cấp của HQ thật kỳ lạ và điều này lại tái diển sau trận hải chiến Hoàng Sa 19.01.1974 mà tôi sẽ kể ở phần sau."
HÀNH QUÂN LAM SƠN 719 HẠ LÀO và ĐẠI ĐỘI 5/TĐ2/TQLC.
MX Phạm Văn Tiền
Lời tác giả:
Từ lâu đă có quá nhiều bài viết về cuộc hành quân Lam-sơn 719 tại Hạ Lào. Có nhiều người quá lạc quan cho rằng QLVNCH đă chiến thắng lớn trong cuộc hành quân nầy v́ quân ta đă phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng ṃn Hồ chí minh tại cứ điểm Tchépone. Lại có vài bài viết khác lại nói rằng đây là cuộc hành quân thảm bại nhất, hao tốn nhiều xương máu của anh em binh sĩ mà chẳng có kết quả cụ thể nào. Bao nhiêu quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch. Điều tai hại nhất là làm suy sụp nghiêm trọng đến tinh thần chiến đấu của nguời lính QLVNCH, v́ chẳng có đơn vị nào c̣n nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn, hấp tấp vô cùng mất trật tự chưa từng xảy ra trong quân sử của bất cứ quân đội thiện chiến nào. H́nh ảnh oai hùng của người lính lâm trận cùng đủ loại yểm trợ và các vũ khí vô cùng tối tân đă bị phai nhạt khi người lính trở về trong thất vọng, mất mát, thiểu năo như vừa thoát về từ địa ngục trần gian. Với bản thân ḿnh là Đại úy Đại đội trưởng của một đơn vị tổng trừ bị tham dự trong cuộc hành quân nầy. Tôi xin ghi lại một cách trung thực những ǵ tôi biết, tôi nghe, tôi thấy trong khả năng hiểu biết của ḿnh .Tôi muốn nói lên sự thực, một sự thật vô cùng khổ đau mà người lính QLVNCH phải đương đầu với tất cả sức lực c̣n lại của ḿnh để tồn tại trong cái chết là điều chắc chắn.
Vừa măn khóa 4/70 Đại đội trưởng tại trường Bộ Binh Thủ Đức, hết phép cũng là lúc tiểu đoàn đang nghỉ dưỡng quân sau cuôc hành quân dài 3 tháng tại Đức Dục - Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm đơn vị được ăn Tết tại hậu cứ. Lệnh chuẩn bị hành quân được ban ra trong lúc đa số các anh em binh sĩ c̣n trể phép chưa về tŕnh diện đầy đủ. Tiểu đoàn cấm trại 100% và lệnh cho các ĐĐT bằng mọi cách, gom con cái của ḿnh lại càng nhanh càng tốt. Một số lớn binh sĩ ở trại gia binh được gọi vào để trang bị vũ khí đạn dượt sẵn sàng cho môt cuộc hành quân xa. Đại đội tôi cố gắng lắm cũng đử gần được 100 anh em, số c̣n lại sẽ được chuyển ra trong chuyến liên lạc gần nhất. Đoàn GMC của đại đội vận tải sư đoàn mang chúng tôi từ hậu cứ Tam Hà - Thủ Đức đến phi trường quân sự Biên Ḥa, để từ đây không vận bằng C130 ra Huế. Đến phi trường Phú Bài vào lúc nhá nhem tối, v́ là đơn vị di chuyển sau cùng của tiểu đoàn nên chúng tôi được lệnh đóng quân qua đêm tại công viên bên bờ sông Hương, trước mặt cửa Thượng Tứ; để rồi sáng sớm ngày hôm sau sẽ vào vùng hành quân. Xe qua An Lỗ, cầu Phổ Trạch quận Phong Điền nơi vết tích của cuộc phản kích tuyệt vời thuộc đơn vị tôi vào sáng ngày 29/6/1966. Vị tiểu đoàn trưỡng đă anh dũng hy sinh cùng hàng chục người khác. Rồi Mỹ Chánh, Quảng Trị, Ái Tử, Đông Hà...một thị trấn nhỏ bé nằm cực Bắc đất nước nơi tuyến đầu lửa đạn, vẫn c̣n đây với bao kỷ niệm ôm ấp từ những ngày mới ra trường, thành phố của đủ mọi sắc lính vẫn đi và về trong hối hả vội vàng. Qua Cam Lộ bắt đầu rẽ trái về quốc lộ 9 đường đi Savanakhet Hạ Lào để từ đây vào thẳng vùng đồi núi Khe Sanh, nơi đặt trung tâm hành quân của Quân Đoàn I cho cuộc hành quân sắp tới.
Khe Sanh là một cái tên khá quen thuộc, một vùng đất mầu mỡ nhiều đồn điền càfé thời Pháp thuộc nay đă biến thành một cứ điểm chiến lược vô cùng quan trọng trong cuộc chiến tranh nầy, nơi nổi danh với nhiều trận đánh lẫy lừng đẫm máu nhất giữa quân CSBV và lực lượng đồng minh Hoa Kỳ vào cuối năm 1967 và những tháng đầu năm 1968. Lực lượng địch đă vây hăm Khe Sanh trong ṿng 77 ngày với ư đồ biến nơi đây thành mồ chôn quân Mỹ của một Điện Biên Phủ thứ 2, nhưng rồi đă bị thảm bại tan tác dưới các cơn mưa bom đạn của một quân lực hùng mạnh nhất thế giới, trung b́nh mỗi ngày hơn 45 phi vụ B52 và 300 phi vụ oanh tạc khác yểm trợ chiến thuật. Số bom đạn được ném xuống ở đây c̣n nhiều hơn tổng số mà quân đồng minh đă xử dụng trong trận đại chiến thế giới lần 2 khi đánh bại Đức Quốc Xă.
Lần nầy để yểm trợ cho cuộc hành quân sang lănh thổ bạn, quân lực Hoa Kỳ chịu trách nhiệm khai quang các trục lộ và bảo đảm an ninh từ 2 tháng trước từ Đông Hà đến tận miền biên giới Việt Lào, đường xá và một số cầu cống được tu sửa lại thật hoàn chỉnh, phi trường quân sự Khe Sanh bị hoang phế nhiều năm nay cũng được tu bổ lại sẵn sàng cho các vận tải cơ đáp xuống tiếp tế tản thương theo nhu cầu chiến trường; một số bệnh xá dă chiến cũng được thiết lập để có thể chữa trị thương binh tại chổ. Đây là cuộc hành quân được chuẩn bị một cách khẩn trương, nhộn nhịp đại quy mô gồm nhiều đơn vị tham dự mà chẳng có yếu tố bảo mật chút nào. Xe cộ lui tới thường xuyên, tiếng rú của động cơ máy bay cùng các xe ủi đất vang rền lên xuống ngày đêm, có lẽ từ ngày khởi sự chiến tranh ở miền Nam cho đến lúc nầy chưa có cuộc hành quân nào được chuẩn bị ồn ào như vậy. Các lực lượng tham chiến gồm các trung đoàn của sư đoàn 1BB, các lữ đoàn của sư đoàn Nhảy Dù và TQLC, liên đoàn I/BĐQ và lữ đoàn I/Thiết Giáp. Ngoài các thành phần tham dự kể trên c̣n có các cố vấn Hoa Kỳ bên cạnh các đơn vị, các sĩ quan đại diện Không lực Mỹ về không trợ và không vận.
Kể từ năm 1970, sau kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh, quân đội Hoa Kỳ bắt đầu giảm bớt quân số tại chiến trường Việt Nam, không c̣n những cuộc hành quân của lực lượng tác chiến mà chỉ xử dụng không quân yểm trợ phối hợp cùng không quân của QLVNCH. Hệ thống cố vấn Mỹ tại các đơn vị tác chiến cũng từ đó giảm bớt và đặc biệt họ không c̣n phải tháp tùng trên bộ cùng chúng ta trong các cuộc hành quân ngoại biên. Sư Đoàn TQLC-VN tham dự cuộc hành quân Lam sơn 719 nầy gồm toàn bộ 3 lữ đoàn. Với nhiệm vụ trừ bị cho quân đoàn I, chỉ nhảy vào vùng chiến ở những giai đoạn quyết định mà thôi. Giai đoạn đầu của cuộc hành quân là dùng trực thăng đổ quân xuống các cao điểm Bắc và Nam quốc lộ 9, giới hạn bởi Bản Đông nằm giữa trục tấn công từ biên giới đến Tchépone, thiết lập các căn cứ hoả lực, yểm trợ cho các cuộc hành quân phân tán lục soát trong tương lai. Xử dụng tối đa không trợ, đặc biệt các pháo đài B52 cầy nát mục tiêu trước khi dùng bộ binh đổ xuống Tchépone.
Cuộc hành quân chính thức bắt đầu lúc 8 giờ sáng ngày 8, tháng 2 năm 1971 qua lời tuyên bố của TT Nguyễn văn Thiệu trên đài phát thanh Sàig̣n: " Cuộc hành quân có giới hạn trong thời gian và không gian với mục tiêu duy nhất là phá vỡ hệ thống tiếp liệu và xâm nhập của CSBV trên phần đất Ai-Lao mà chúng chiếm đóng và xử dụng trong nhiều năm nay để tấn công vào QLVNCH. Ngoài ra QLVNCH không có tham vọng đất đai nào tại Ai-Lao v́ VNCH luôn luôn tôn trọng nền độc lập và sự an toàn lănh thổ của Vương Quốc Ai-Lao ". Lữ Đoàn I/ND gồm các tiểu đoàn 1 và 8 cùng Lữ Đoàn I/Thiết Giáp đi tiên phong tiến dọc quốc lộ 9 và hướng Bản Đông để thiết lập căn cứ A-Lưới. Đây là căn cứ lớn nhất của cuộc hành quân và cũng là nơi đặt bộ chỉ huy Lữ Đoàn I/ND. Trên mặt Bắc tiểu đoàn 2/ND và các pháo đội cơ hữu đến điểm cao 500m nằm cách quốc lộ 9 và biên giới Việt Lào hơn 8 Km để thiết lập căn cứ 30. Tiểu đoàn 3/ND cũng nhảy trực thăng vào cao điểm 456m lập căn cứ 31 và cũng là nơi đặt BCH Lữ đoàn 3/ND. Xa hơn nữa về mặt Bắc, Liên Đoàn 21/BĐQ gồm 2 tiểu đoàn 21 và 37 được trực thăng vận đến băi đáp Ranger South cách căn cứ hỏa lực 30 khoảng 5 km về phiá Tây Bắc. Ba ngày sau tiểu đoàn 39/BĐQ được nhảy vào căn cứ Ranger North. Hai căn cứ nầy được thiết lập với mục đích quan sát sự chuyển quân của CS đồng thời làm tŕ hoăn các cuộc tấn công địch vào trục tiến quân chính.Trung Đoàn 3/SĐI/BB cũng được nhảy vào vùng tận cùng phiá Nam tại căn cứ Blue và Hotel, trong khi đó Trung Đoàn I/SĐI/BB vào hoạt động xung quanh căn cứ Delta. Mục tiêu 604 tại thị trấn Tchépone đă bị ta oanh tạc thật khủng khiếp và nhờ vậy các cuộc đổ quân của ta vào vùng nầy được hoàn tất mà không gặp được sự kháng cự nào. Địch hầu như biết trước ư định của ta nên đă phân tán mỏng ra xa để tránh thiệt hại, để rồi liền sau đó tập trung nhiều Sư Đoàn thiện chiến nhất để tấn công ta.
Chiến dịch tổng phản công của địch được mở màn ngày 18/2 khi tăng cường áp lực bao vây và tấn công căn cứ Ranger North, trung đoàn 102 thuộc sư đoàn 308/CSBV đă áp đảo được căn cứ nầy. Thời tiết xấu và cường độ pḥng không quá mạnh của CS khiến không quân không thể can thiệp hữu hiệu, đến chiều 19/2 căn cứ Ranger North bị tràn ngập, vị tiểu đoàn trưởng Vũ Đ́nh Khang TĐ39/BĐQ đă bị bắt sống, bộ phận c̣n lại do tiểu đoàn phó chỉ huy di tản về Ranger South. Căn cứ Ranger North thất thủ, quân CS tiếp tục đánh chiếm căn cứ Ranger South, t́ểu đoàn 21/BĐQ chỉ đủ sức cầm cự được 2 ngày với sự thiệt hại thật nghiêm trọng, sau đó được trực thăng vận bốc về Phú Lộc qua chuyển tiếp căn cứ 30 của Nhảy Dù. Thừa thắng xông lên vào ngày 23/2 địch bắt đầu tấn công thăm ḍ căn cứ 31, để rồi sau đó tung toàn bộ chiến xa tiến chiếm căn cứ nầy. Đại tá Nguyễn Văn Thọ lữ đoàn trưởng cùng một số sĩ quan tham mưu đă bị bắt sống, trong đó có những cái chết thật hào hùng của Thiếu Tá Hiền Tham Mưu Trưởng và Đại Úy Đương pháo đội trưởng đă tự kết liễu đời ḿnh. Đúng 6 giờ 30 sáng ngày 25/2/71, căn cứ hỏa lực 31 Hạ Lào đă hoàn toàn lọt vào tay giặc. Ngày 26/2, CS dùng 2 trung đoàn thuộc SĐ304 tiếp tục tấn công căn cứ 30 cuối cùng căn cứ nầy cũng phải di tản chiến thuật và toàn thể các khẩu pháo cơ hữu của ta bị hư hại hoàn toàn.
Trong khi địch tấn công ồ ạt ở mặt Bắc, th́ tại khu vực Đông Nam các đơn vị của trung đoàn 3/BB cũng đă bị bao vây uy hiếp. Mặc dầu cũng đă được yểm trợ bởi không quân và pháo binh đầy đủ nhưng vẫn cầm cự không nổi, sau cùng cũng phải t́m nơi an toàn để được trực thăng bốc về Khe Sanh. Trước t́nh h́nh diễn biến ác liệt của chiến trường, hết đơn vị nầy đến đơn vị khác của ta chịu trận, không sao tiếp cứu lẫn nhau, dù đă có lần khi đồn 31 bị tấn công, SĐ Dù đă đổ bộ thêm vào trận địa một tiểu đoàn để tiếp sức nhưng không sao đáp xuống bải đáp được v́ hỏa lực vô cùng mănh liệt của địch.
Về phương diện thông tin báo chí, khi các phóng viên đă thổi phồng tin tức biến những cuộc lui binh cuả chúng ta thành thảm kịch trên chiến trường, điều tệ hại nhất là đài BBC đă phóng đại việc quân ta tiến vào Tchépone trong khi cuộc hành quân mới nửa đường tới mục tiêu; chính việc nầy đă gây một sự bất lợi thật quan trọng cho việc hành quân v́ địch quân đă nắm rỏ được ư định của ta nên đă sẵn sàng chuẩn bị nghênh chiến.
Sư đoàn I/BB với trung đoàn 2 c̣n lại bằng mọi gía phải đánh chiếm Tchépone; dù chỉ là một tiểu đoàn được trực thăng vận vào trận địa cũng được, sau khi hoàn tất hoạt động trong thời gian ngắn rồi sẻ rút ra ngay. Trung đoàn I. SĐI/BB được điều quân lên mặt Bắc phía Nam sông Tchépone để tiếp ứng. Địch đă đoán được ư định của ta nên đă bố trí các đơn vị ra xa vùng sát hại dưới những trận mưa bom khủng khiếp của ta. Ngày 6/3, 120 trực thăng chuyên chở hai tiểu đoàn 2 và 4 của trung đoàn 2/SĐI/BB từ Khe Sanh đến bải đáp HOPE, cách Tchépone khoảng 4 km về phía Bắc. Hoả lực khá nặng của CS chỉ bắn rơi một trực thăng trong cuộc trực thăng vận đại qui mô nầy, ngày hôm sau quân đội VNCH tiến vào Tchépone mà không gặp một sự kháng cự nào của địch. T́nh h́nh yên tỉnh cho tới khuya th́ pháo địch bắt đầu tập trung bắn phá và điều động cả sư đoàn dùng chiến thuật biển người tấn công ta, trực thăng ta chỉ đến bốc được vài toán đầu, sau đó đành phải bó tay trước hỏa lực pḥng không dầy đặc của địch, số c̣n lại phải mở đường máu di tản về hướng Nhảy Dù. Căn cứ Lolo tại cao điểm 723 nơi bộ chỉ huy trung đoàn I/BB cũng chịu chung số phận phải di tản sau 10 ngày đêm chiến đấu ṛng ră. Tiểu đoàn 4 trung đoàn I/SĐI/BB là đơn vị ở lại sau cùng để bảo vệ cuộc lui binh, lúc về đến Khe Sanh chỉ c̣n 63 người trong tổng số 432 người, tất cả đều bị tử trận, mất tích hay bị thương. Trung tá Lê Huấn, K18 Đà Lạt, người hùng của trung đoàn I/SĐI/BB đă anh dũng hy sinh trong cuộc lui binh nầy.
Măi cho đến giờ phút nầy cũng chưa có ai có thể giải thích một cách rơ ràng tại sao các nhà lănh đạo quân sự miền Nam đă ném quân sĩ thiện chiến của họ vào mặt trận Hạ Lào, một cuộc hành quân mạo hiểm có tính cách phô trương hơn là mang về một chiến thắng thật sự. Không cần bảo mật mà chẳng có kế hoạch phối hợp rơ ràng, hệ thống chỉ huy điều hành bị bối rối không được thống nhất. Các vị tư lệnh của 2 sư đoàn tổng trừ bị của quân lực VNCH là Trung Tướng Lê Nguyên Khang và Trung Tướng Dư Quốc Đống đă không hiện diện cùng binh sĩ tại mặt trận, mặc dầu đơn vị của họ là những nổ lực chính yếu của chiến trường. Sự thảm hại toàn bộ của các lực lượng tham chiến ở giai đoạn đầu th́ việc đổ thêm quân tiếp vào giai đoạn kế tiếp quả là một điều chẳng nên, chỉ làm hao tốn thêm xương máu của binh sĩ mà thôi. Điều quan trọng nhất là c̣n tinh thần đâu nữa mà chiến đấu. Sư đoàn TQLC cuối cùng rồi cũng phải nhảy vào ṿng chiến và cũng không sao tránh khỏi số phận "tan hàng" đang dành sẵn cho ḿnh. Vào trận với một tâm lư không ổn định chuyện thất bại là điều chắc chắn sẽ xảy ra, chúng tôi như những con thiêu thân đang lao ḿnh vào lửa đỏ.
Mọi chuyện bắt đầu vào những ngày đầu tháng 3 năm 1971. Lữ đoàn 147/TQLC do Đại Tá Hoàng Tích Thông chỉ huy gồm các tiểu đoàn 2, 4 và 7 được nhảy vào căn cứ Delta. Đây là một dăy đồi có thế h́nh yên ngựa ở độ cao 550m gồm 2 mỏn nhỏ, mặt Bắc đặt BCH/LĐ, c̣n phía Nam chỉ có khả năng đủ chổ cho một pháo đội hỗn hợp gồm 2 khẩu 155ly và 4 khẩu 105 ly thuộc tiểu đoàn 2/PB/TQLC. Mặt Tây là một triền dốc đá thẳng đứng dựng, c̣n phía Đông là những rẫy hoang cùng nhiều đường ṃn chi chít.
Lữ Đoàn 258/TQLC được trực thăng vận vào đỉnh KOROC, căn cứ Đông Hà nằm trên ranh giới Lào Việt từ Lao Bảo trải dài xuống phía Nam với các tiểu đoàn 1, 3 và 8 cùng pháo đội của tiểu đoàn 3/PB/TQLC. Nhưng mặt trận chính vẫn là xung quanh vùng hoạt động của Lữ Đoàn 147. Tiểu đoàn 4/TQLC được thả xuống và bung rộng về hướng Đông Bắc, tiểu đoàn 2/TQLC chịu trách nhiệm về mặt Tây Bắc, trong khi đó tiểu đoàn 7/TQLC bảo vệ pháo binh và BCH/LĐ. Đại úy Nguyễn Hoa khoá 20 Đàlạt, trưởng ban 3/TĐ7/TQLC đă bị tử thương cùng nhiều binh sĩ khác trong cuộc pháo kích đầu tiên vào căn cứ hỏa lực. Tiểu đoàn 2/TQLC có 4 ĐĐT th́ 2 đă bị thương loại khỏi ṿng chiến đấu trong tuần lễ ra quân đầu tiên . Trung úy Kiều Công Cự ĐĐT/ĐĐ4, Đ/u Nguyễn Kim Thân ĐĐT/ĐĐ2, Tr/úy Bùi Ngọc Dũng ĐĐP/ĐĐ2, cũng đă bị thương rất nặng cùng Th/úy Trần Văn Loan. Tất cả đă được tải thương kịp thời nhưng Dũng bị chết dọc đường và sau nầy được ghi nhận là mất tích. Tr/úy Nguyễn Dũng Trí ĐĐP/ĐĐ5 được lệnh sang làm ĐĐT/ĐĐ2. Như cục đường bỏ vào hang kiến lửa, địch cứ thế mà bu vào. Sau khi đă rảnh tay ở mặt trận phía Bắc, địch tập trung đủ mọi nổ lực kể cả hệ thống pḥng không pháo binh hầu uy hiếp cô lập căn cứ. Hai trực thăng của QLVNCH đă bị bắn hạ nhưng vẫn cố gắng đáp xuống được ngay băi đáp tại BCH/LĐ, phi hành đoàn an toàn. Đó là phi vụ cố gắng cuối cùng trong chuyến liên lạc với BCH/LĐ.
Sau đó việc tiếp tế, tản thương coi như hoàn toàn bế tắc. Chỉ mới vỏn vẹn có một tuần mà bao nhiêu điều bế tắc đă xảy ra, binh sĩ bị thương mỗi ngày một nhiều không được tải thương, đạn dược lương thực bị hao hụt dần, đa số binh sĩ hoang mang giao động không c̣n tinh thần chiến đấu. Pháo binh cơ hữu của ta bị kiệt quệ hoàn toàn, mọi sự yểm trợ nhờ vào LĐ/258 tại KOROC và các phi vụ oanh tạc của không quân Hoa Kỳ. Tiểu đoàn 2/TQLC bị địch chận đánh khi hoạt động cách căn cứ khoảng 4-5 km, trong một phi vụ yểm trợ một quả bom đă lạc và nổ ngay vị trí của ĐĐ5 làm tổn thương thêm một số binh sĩ, tiểu đoàn được nhận lệnh dừng ngay tại chổ chờ lệnh. Về phiá TĐ4/TQLC cũng không có ǵ sáng sủa hơn, vẫn bị địch cầm chân và quân số mỗi ngày thêm hao hụt. Chẳng có một kho tàng nào của địch bị ta phá hủy trong giai đoạn nầy, trước t́nh thế đó, BCH/LĐ điều động TĐ2 và TĐ4 về hoạt động chung quanh căn cứ để sẳn sàng cho một cuộc rút quân trong tương lai. Biết được ư định đó nên địch càng bám theo ta rất sát, ĐĐ5/TĐ2/TQLC là ĐĐ tiền đồn ở mặt Bắc căn cứ hầu như ngày nào cũng bị địch tấn công, trong khi tất cả lực lượng của TĐ4/TQLC đă rút qua mặt về phía trong BCH/LĐ. Th/tá Nguyễn Xuân Phúc tiểu đoàn trưởng cùng Đ/úy Trần Văn Hợp tiểu đoàn phó TĐ2/TQLC cũng được điều động về nằm chung với BCH/LĐ. Một biến cố đă xảy ra thật quan trọng là một trung đội đặc công VC đă xâm nhập và chiếm được một số vị trí của đơn vị pḥng thủ, với ư địch cắt đứt mọi tiếp viện từ ngoài vào để tung quân tràn ngập BCH/LĐ. Tuy nhiên, địch cũng đă bị chận lại và sau đó một đại đội TĐ7/TQLC tới giải tỏa, địch tử thương một số, phần c̣n lại đầu hàng. Tất cả chúng thuộc SĐ/324B có nhiệm vụ tiến đánh LĐ147. Lữ Đoàn đă có lệnh di tản chiến thuật từ quân đoàn nhưng lệnh nầy chỉ phổ biến đến cấp tiểu đoàn trưởng mà thôi. Lư do thật giản dị là cố gắng duy tŕ tinh thần chiến đấu của các đơn vị hầu đủ thời gian sắp xếp cho một kế hoạch rút lui. Đại đội A Viễn Thám của Đ/úy Hiền đă được lệnh lên đường t́m hiểu t́nh h́nh địch nhưng tất cả lọt vào ṿng vây địch, một số bị bắt trong đó có ĐĐT nên Lữ Đoàn không nhận được một tin tức nào cả. Theo kế hoạch B52 sẽ thả bom trước ở 2 mặt phía Nam Bắc và Lữ Đoàn sẽ bắt đầu di chuyển ra khỏi căn cứ lúc 08 giờ tối, theo thứ tự TĐ4, TĐ7, BCH/LĐ và pháo binh, TĐ2 đi đoạn hậu. Tất cả khẩu pháo binh cùng đạn dược và lương thực dự trử bỏ tại chổ. Trong đó có gần 60 thương bệnh binh cùng nhiều tử thi đă bị thối rữa trong nhiều ngày. Một số tù binh CS cũng bị ta c̣ng tay nhốt trong các hầm trú ẩn gần đó. Trước giờ ấn định t́nh h́nh đă biến đổi khác thường một cách thật nhanh chóng. ĐĐ5/TĐ2/TQLC do tôi chỉ huy đă bị cô lập tại chổ trong mấy ngày liền không được tải thương và tiếp tế. Tất cả điểm có nước dưới chân đồi đều bị bao vây chế ngự. Trời tháng 3 với những cơn gió nắng rát miền Hạ lào cùng những đợt tấn công pháo kích liên tiếp của địch đă không làm nản đi ư chí quyết sống của chúng tôi, v́ chẳng ai c̣n cách nào chọn lựa khác hơn là "PHẢI SỐNG" để được trở về bằng chính sức lực của ḿnh. Đó là vào những ngày cuối của cuộc hành quân 21, 22/3/1971. Chúng tôi được lệnh lui binh về gần BCH hơn ...để tránh thiệt hại. Th/úy Kim trung đội trưởng vũ khí nặng cùng hạ sỉ Nghạch đă bị tử thương sau một loạt pháo kích bằng súng cối 82 ly của địch vào vị trí. Trong khi có tiếng chiến xa địch từ xa, bắt đầu mon men vào tuyến. Đó là lúc 5 giờ chiều ngày 22/3/71 và BCH/LĐ đă rút lui trước sớm hơn dự định. Đại đội tôi được lệnh di tản sau đó một tiếng đồng hồ khi chiếc T54 đầu tiên của CS bị hạ bằng khẩu SKZ 57 ly từ tay Tr/sĩ I Nguyễn Tế. Giọng Th/tá Phúc vang lên trong máy ra lệnh cho tôi '"anh phải cho con cái move down south gấp ".
Bật chạy ra khỏi hầm trú ẩn. Tôi hô to "Đ/úy Tiền ĐĐT/ĐĐ5/TĐ2/TQLC đây, các anh hăy theo tôi", vẫn cứ thế tôi măi lải nhải vào tận phía trong. BCH/LĐ trống vắng, mùi thúi rữa của tử thi nơi những chiếc poncho bọc kín không được tải thương trong nhiều ngày, vài chục người trong toán lính bị thương c̣n lại đang hờn trách cấp chỉ huy, tôi vẫn hô to "Đ/úy Tiền đây, các anh hảy theo tôi" giọng Hạ sĩ Báu người lính gan dạ của đại đội tôi bị thương vào chân hôm qua khóc to nhất "chân em bị găy làm sao chạy được ông thầy". Nước mắt tôi tuông chảy, miệng lẩm bẩm "đành chịu vậy thôi! chứ biết làm sao bây giờ" trong khi đèn chiến xa địch bắt đầu soi sáng và bắn nả theo lên đồi căn cứ.
Không thể chần chờ được nữa, có tiếng hô to của giặc phía sau "Hàng sống chống chết", tôi và 2 hiệu thính viên: Đặng Phước Thành và Nguyễn Văn Chúc cùng nắm giây leo trên đỉnh dốc đá thẳng đứng "một, hai, ba, ̣ e con ve đánh đu, tarzan nhảy dù", chiếc dây qúa tải bị đứt nửa chừng thầy tṛ rớt chồng lên nhau trên mặt đất.Tay ṃ mẫm khắp nơi trên cơ thể, đứng lên ngồi xuống, mới yên tâm là ḿnh c̣n đủ sức để mưu sinh thoát hiểm.Chúc nhe hàm răng vàng óng ánh "Có ông bà độ đó ông thầy". Tôi tập hợp tại chổ được vài ba chục mạng người, gồm nhiều đơn vị khác nhau. Tôi ra lệnh là muốn sống phải theo tôi và tuyệt đối giữ kỷ luật khi di chuyển. Th/tá Phúc (TĐT) và Đ/úy Hợp (TĐP) vẫn lên máy điều động và hướng dẫn chúng tôi theo nhiều trái sáng liên tiếp được bắn lên từ KOROC. Không cần xử dụng bản đồ và địa bàn, chúng tôi cứ nhắm hướng có trái sáng mà đi tới. Khoảng hơn nửa đêm về sáng, chúng tôi lọt ngay vào ṿng địch có tiếng hô to của người lính gác: "các đồng chí đi đâu về khuya thế.?". Toán đi đầu hốt hoảng dội ra, nhanh ư tôi điều động anh em đi hướng khác. Sáng hôm sau, trời nắng đẹp bầu trời xanh thẫm, ra khỏi khu rừng rậm là những dăy đồi tranh đầy cỏ dại loang lỗ nhiều hố bom chạy dài xa tít. Hạ sĩ Thất vẫn c̣n mang chiếc máy truyền tin trên lưng chạy đến t́m tôi khóc mếu máo: "Đại bàng ơi.! Th/úy em chết rồi ". Đinh Hồng Lạc là sĩ quan trẻ thâm niên nhất trong đại đội tôi, đẹp trai với làn da trắng mịn như con gái, người Cần Thơ và rất mùi với 6 câu vọng cổ.Chính mắt tôi thấy anh ngă gục khi có lệnh của tôi, vừa vọt ra khỏi miệng hầm, một viên đạn thượng liên trên pháo tháp xe địch đă xuyên qua màng tang. Xác anh nằm vắt ngang bên vệ đường. Chiếc đầm già L19 xuất hiện quan sát bao vùng cùng vài chiếc trực thăng vơ trang của Mỹ đă làm chúng tôi an tâm hơn. Trái khói vẫn tiếp tục bắn chỉ điểm nơi điểm hẹn. TĐ3/TQLC Sói biển được điều động từ KOROC tới để cứu nguy cho chúng tôi. Địch tốc tới, tiếp tục tấn công vào bải bốc tại điểm tập trung nầy, phi cơ Mỹ chỉ có thể tản thương được một vài đợt đầu tiên, sau đó với sự chiến đấu gan dạ của TĐ3 chúng tôi tiếp tục di chuyển tiếp đến một địa điểm an toàn khác.
Tập họp lại khi về đến Khe Sanh đại đội tôi chỉ vỏn vẹn c̣n vài chục chục thầy tṛ, phải mất gần 1 tuần lễ sau, những toán thất lạc lần lượt được các trực thăng Mỹ chở về. Đại đội tôi mất đi gần phân nửa, một hao hụt qúa lớn lao. Bộ tư lệnh QUÂN ĐOÀN I đă vinh danh chiến thắng HẠ LÀO bằng một cuộc diễn binh rầm rộ tại PHÚ VĂN LÂU, nhiều huy chương và thăng cấp cho các quân nhân tham dự. Trong đó có các đơn vị trưởng tại chiến trường. Th/tá Phúc và Đ/úy Hợp của TĐ2/TQLC cũng không ra ngoài ngoại lệ đó. C̣n tôi và Đ/úy Lâm Tài Thạnh ĐĐT/ĐĐI mỗi người một Đệ Ngũ Bảo Quốc Quân Chương với nhành dương liễu.
Ngày nay khi ngồi hồi tưởng lại mặt trận Hạ Lào, bao h́nh ảnh thân thương của những người lính trong đơn vị như c̣n lảng vảng đâu đây. Th/úy Nguyễn Kim đă chết bất ngờ trong giờ phút cuối khi chỉ mơ ước về đúng lúc ngày đứa con đầu ḷng được chào đời. Th/úy Đinh Hồng Lạc không c̣n nữa để nàng con gái Kim Oanh bên ḍng sông Kiên Long ṃn mỏi chờ đợi. Chuẩn úy Lê Văn Quế và Tr/sĩ I Tế đă lạc lỏng đâu đó trong rừng Hạ Lào không có mặt khi về lại Khe Sanh. Hạ sỉ Báo, Tr/sĩ Được, binh nh́ Ngô Văn Lẹ và bao nhiêu người thương binh khác đă ra sao.? Khi những trận bom liên tiếp dội xuống căn cứ Delta sau khi đoàn quân ta đă di tản. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă chiến thắng tại các chiến trường Kampuchia, An Lộc, Quảng Trị nhưng rơ ràng chúng ta không thắng tại Hạ Lào.
Ai chiến thắng mà không hề chiến bại,
Ai nên khôn mà chẳng dại một... đôi lần
Đă đến lúc chúng ta hảy trả lại SỰ THỰC cho LỊCH SỬ, mặc dầu đó là một sự thực đau ḷng. Tôi xin ghi lại câu nói "để đời" của Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm, người chịu trách nhiệm chỉ huy tổng quát của cuộc hành quân nầy với Đại Tá Hoàng Tích Thông LĐT/LĐ147/TQLC:
"Sao Thủy Quân Lục Chiến, nó về được nhiều thế nhỉ.!."
ARLINGTON, tháng 10-2003
MX Phạm văn Tiền.
* tài liệu tham khảo:
-Chiến sử TQLC/VN.
-Chiến tranh toàn tập của tiến sĩ NGUYỄN ĐỨC PHƯƠNG - England.
Hồi Kư
Tiến tŕnh thành lập và phát triển BC TQLC
Chiến sử TQLC
Binh Chủng TQLC
Sơ lược về BC TQLC
Trung Tá Lê Quang Trọng - Chỉ Huy Trưởng TQLCVN đầu tiên
Đại Úy Bùi Phó Chí vị Tiểu Đoàn Trưởng TQLC đầu tiên
Trung Tá Lê Nhữ Hùng - người đă góp công nhiều cho sự hùng mạnh của Đoàn Quân Mũ Xanh
Tiến tŕnh thành lập Chiến Đoàn & Lữ Đoàn
Lữ Đoàn 258
Lữ Đoàn 369
Tiểu Đoàn 1 - Quái Điểu
Tiểu Đoàn 1 PB - Lôi Hỏa
Tiểu Đoàn 2 - Trâu Điên
Tiểu Đoàn 3 - Sói Biển
Tiểu Đoàn 4 - Ḱnh Ngư
Tiểu Đoàn 5 - Hắc Long
Tiểu Đoàn 6 - Thần Ưng
Tiểu Đoàn 7 - Hùm Xám
Tiểu Đoàn 8 - Ó Biển
Tiểu Đoàn 9 - Mănh Hổ
Tiểu Đoàn Tổng Hành Dinh
Tiểu Đoàn Truyền Tin
Pháo Binh TQLC
Viết cho những người pháo thủ Mũ Xanh
Một đoạn đường trong cuộc đời Y Sĩ TQLC
1963 - 1967
Mật khu Đỗ Xá
Chiến dịch Sống T́nh Thương
Hành quân Hội Đồng Sẩm
Tiểu Đoàn 2 - Trận An Qúi
Tiểu Đoàn 2 - Trận chiến Tam Quan
Tiểu Đoàn 3 - Trận Bàng Long, Cay Lậy
Tiểu Đoàn 4 - Trận B́nh Giả lúc khởi đầu
Tiểu Đoàn 4 - B́nh Giả ơi! C̣n nhớ măi
Tiểu Đoàn 5 - Trận Mộ Đức
Tiểu Đoàn 5 - Trận Mộ Đức & Cái chết của vị TĐT
Chiến Đoàn A - Trận Phụng Dư
Chiến Đoàn A - Trận Đức Cơ
Chiến Đoàn B và TĐ-5 Dù Truy Kích CQ ở Ba Gia
Chiến Đoàn B - Cuộc hành quân đổ bộ Deckhouse V Sóng Thần
1968 - Mậu Thân
Tiểu Đoàn 6 - Trận Mậu Thân
TQLC Trong Tết Mậu Thân
Chiến Đoàn A - Trận Mậu Thân
H́nh Ảnh T/T Nguyễn Văn Thiệu thăm TĐ2/TQLC
1969 - 1970
Cuộc hành quân qua Cambodia
Tiểu Đoàn 4 - Hành quân Cambodia
Tiểu Đoàn 7 - Những ngày đầu
Tiểu Đoàn 8 - Trận Cam-Bốt
Lữ Đoàn B - Vượt biên qua Kampuchia
1971 - Hạ Lào
Hành quân Lam Sơn 719
Tiểu Đoàn 1 PB - Lôi Hỏa sang Lào
Tiểu Đoàn 2 - Hành quan Lam Sơn 719
Tiểu Đoàn 3 PB - Căn cứ hỏa lực Hồng Hà
Tiểu Đoàn 4 - Đêm Hạ Lào sao dài quá!
Tiểu Đoàn 9 - Trận chiến Ba Ḷng
Tiểu Đoàn 9 - Trận chiến Động Cù Mông
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào
1972 - Mùa hè đỏ lửa
TQLC/VN và cuộc tấn công của csBV tại Vùng I
Tiểu Đoàn 3 - Tại Đông Hà
Tiểu Đoàn 3 PB - Tay đôi với tụi nó...
Tiểu Đoàn 4 - Mùa hè đỏ lửa
Tiểu Đoàn 5 - Những ngày đầu
Tiểu Đoàn 6 - Thần Ưng trong mùa hè đỏ lửa
Tiểu Đoàn 6 - Xé xác tăng địch
Tiểu Đoàn 7 - Ngày đầu cuộc chiến
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Lữ Đoàn 258 - Chiến thắng Quảng Trị tháng 4, 1972
Công sản BV bị TQLC đánh bại tại Đông Hà
Hành lang máu
Tiểu Đoàn 9 - Trận chiến cầu Bến Đá
Tiểu Đoàn 9 - Rừng núi Barbara
Lữ Đoàn 369 - Trân sông Mỹ Chánh
Tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 19-6-1972
Tiểu Đoàn 1 - Thử lửa đầu tiên
Tiểu Đoàn 1 - Nhảy vào Triệu Phong
Tiểu Đoàn 1 - Đổ bộ trong ḷng địch
Tiểu Đoàn 1 PB - 20,000 đạn đại bác mỗi ngày
Tiểu Đoàn 2 - Cuộc chiến Cổ Thành Quảng Trị
Tiểu Đoàn 2 - Tiêu diệt chiến xa CSBV thuộc Tr/Đ Tăng-Thiết Giáp 202
Tiểu Đoàn 2 - Tái chiếm Dinh Tỉnh Trưởng & Toà Hành Chánh Quảng Trị
Tiểu Đoàn 3 & 6 - Tiến về Quảng Trị
Tiểu Đoàn 3 - Dựng cờ
Tiểu Đoàn 5 - Hắc Long dậy sóng
Tiểu Đoàn 5 - Đánh trên đầu địch
Người Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Pháo Binh TQLC và trận Quảng Trị
Cờ bay trên Cổ Thành Quảng Trị
1973 - 1974
Tiểu Đoàn 2 - Cửa Việt, một chiến thắng vẻ vang và ngậm ngùi
Tiểu Đoàn 3 PB - Trước khi ngưng bắn
Tiểu Đoàn 4 - Hành quân Cửa Việt
Lữ Đoàn 258 - Chiến tích sau cùng
1975
Hương lộ 555 lẻ loi
Tiểu Đoàn 7 và Lữ Đoàn 147
Lữ Đoàn 147 - Di tản chiến thuật
Tiểu Đoàn 4 - Trận đánh cuối cùng
Tiểu Đoàn 9 - Trận đánh cuối cùng
Băi biển Non Nước: Một kết thúc tức tưởi, oan nghiệt
Vị TĐT cuối cùng của Tiều Đoàn 1 Quái Điểu
Y Sĩ TQLC: Những người không thích sống lâu
The Following User Says Thank You to anhhaila For This Useful Post:
Sư Đoàn 1 BB Trên Chiến Trường Phía Nam Bến Hải, khu Trị-thiên.
04/05/1999
Vương Hồng Anh.
Thể theo yêu cầu của đông đảo bạn đọc, nhất là các cựu quân nhân VNCH, muốn có những thông tin, tài liệu về chiến sử của các đại đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa trong suốt hơn 20 năm bảo vệ miền Nam thân yêu, Việt Báo đă khởi sự biên soạn loạt bài “Đơn vị và Chiến trường”, giới thiệu các đơn vị tinh nhuệ, những câu chuyện về chiến trường và người lính anh hùng của 11 Sư đoàn Bộ binh, hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến, các binh đoàn thiện chiến của các binh chủng: Biệt động quân, Thiết giáp, Lực lượng Đặc biệt, Pháo binh, Công binh chiến đấu... một số đơn vị của hai quân chủng Không quân, Hải quân, của lực lượng an ninh diện địa Địa phương quân, Nghĩa quân và Cảnh sát Quốc gia.
Để mở đầu loạt bài này, VB trân trọng giới thiệu chiến sử của đại đơn vị đầu ḷng Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa: Sư đoàn 1 Bộ Binh, một trong những Sư đoàn thiện chiện nhất, đă cùng với lực lượng Tổng trừ bị giữ vững pḥng tuyến phía Nam Bến Hải, và cụm tuyến phía Tây hai tỉnh Trị Thiên trong 16 năm dài từ 1955-1971, bảo vệ vững vàng Tây Nam Huế trong suốt cuộc chiến Mùa Hè 1972, chận đứng các cuộc xâm nhập của Cộng quân sau khi Hiệp định Paris kư kết (27/1/1973) cho đến ngày được lệnh triệt thoái khỏi chiến trường Trị Thiên vào những ngày cuối tháng 3/1975. Trước khi tŕnh bày chi tiết về một số trận đánh lịch sử và một số câu chuyện về những nhân vật chiến trường của Sư đoàn anh hùng này, qua bài viết đầu, chúng tôi xin lược tŕnh chiến sử của Sư đoàn 1 Bộ binh:
* Từ Sư đoàn Dă chiến số 21 đến Sư đoàn 1 Bộ binh: 2 lần đổi danh hiệu; 14 lần thay đổi tư lệnh; 20 năm chiến đấu trên chiến trường Trị Thiên:
Là đại đơn vị đầu ḷng của Quân lực VNCH, Sư đoàn 1 Bộ binh được chính thức thành lập ngày 1 tháng 1/1955, với đơn vị ṇng cốt là liên đoàn 21 Bộ binh lưu động được thành lập từ ngày 1/9/1953. Đây chính là binh đoàn tiền thân của Sư đoàn.
Được h́nh thành theo kế hoạch phát triển Quân đội Quốc gia Việt Nam, trong giai đoạn đầu,đại đơn vị này được mang danh hiệu Sư đoàn Dă chiến số 21, gồm 3 trung đoàn: trung đoàn Bộ binh số 21 (gồm 3 tiểu đoàn 8, 28 và 56), trung đoàn Bộ binh số 22 (gồm 3 tiểu đoàn 23, 27 và 30), trung đoàn Bộ binh số 23 (gồm 3 tiểu đoàn: 7, 12 và 24), tiểu đoàn Pháo binh số 2.
* 14 vị tư lệnh của Sư đoàn 1 Bộ binh, có một vị 2 lần giữ chức tư lệnh Sư đoàn này, cách nhau 5 năm; tư lệnh đầu tiên: đại tá Lê Văn Nghiêm; tư lệnh cuối cùng: chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm.
Vị tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn là đại tá Lê Văn Nghiêm. Khi c̣n ở cấp trung tá, ông là một trong 4 liên đoàn trưởng Bộ binh lưu động đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam vào năm 1953, (3 liên đoàn trưởng khác là: trung tá Nguyễn Quang Hoành- đầu năm 1955 là đại tá tư lệnh Đệ nhị Quân khu; trung tá Nguyễn Khánh-năm 1964 là đại tướng; trung tá Tôn Thất Đính, năm 1963 là trung tướng). Đại tá Nghiêm người Thừa Thiên, tiến tŕnh binh nghiệp của ông từ 1950 đến đầu năm 1955, được ghi nhận như sau: thăng cấp đại úy vào năm 1950; thăng thiếu tá: 1952, tiểu đoàn trưởng đầu tiên của tiểu đoàn 30; thăng trung tá: 1953, giữ chức vụ liên đoàn trưởng liên đoàn 21 Bộ binh lưu động; thăng đại tá đầu năm 1955, giữ chức tư lệnh Sư đoàn Dă chiến số 21 (Sư đoàn 1 Bộ binh), giữa năm 1955, kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh Đệ nhị Quân khu (sau này là Vùng 1), thăng thiếu tướng tháng 11/1955 cùng lần với đại tá Dương Văn Minh, sau đó lần lượt giữ các chức vụ: chỉ huy trưởng Liên trường Vơ Khoa Thủ Đức (1956 đến 1960), tư lệnh Quân đoàn 3 và Vùng 3 Chiến thuật (1961-1962), tư lệnh Quân đoàn 1 và Vùng 1 chiến thuật (từ tháng 12/1962 đến tháng 9/1963); thăng trung tướng 2/11/1963 và giữ chức vụ tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Tháng 2/1964: chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự; tháng 11/1964, giữ chức giám đốc Nha Động viên Bộ Quốc pḥng. Về hưu đầu năm 1965. Sau đại tá Lê Văn Nghiêm, Sư đoàn 1 Bộ binh đă được chỉ huy bởi các tư lệnh sau đây:
- Từ tháng 1/1956 đến tháng11/1963: 6 vị tư lệnh (sau này đều thăng cấp tướng và giữ chức vụ từ tư lệnh Quân đoàn đến Tổng tư lệnh Quân đội): đại tá Nguyễn Khánh (1956-1957); đại tá Tôn Thất Đính (1957-1958); đại tá Nguyễn Văn Chuân (1958-1959); đại tá Tôn Thất Xứng (1959-1960); đại tá Nguyễn Đức Thắng (1960-1961); đại tá Nguyễn Văn Thiệu (1961-1962); đại tá Đỗ Cao Trí (cuối năm 1962 đến tháng 11/1963), trong thời gian giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, đại tá Trí hai lần thăng cấp: thiếu tướng vào tháng 7/1963 (trước tháng 4/1964, cấp đại tá được thăng thẳng lên thiếu tướng), thăng trung tướng vào ngày 2/11/1963; từ tháng 9/1963 ông kiêm nhiệm chức vụ Quyền tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật thay thiếu tướng Lê Văn Nghiêm.
- Từ tháng 11/1963 đến tháng 3/1975: 8 vị tư lệnh: đại tá Trần Thanh Phong (tháng 11/1963 đến cuối tháng 1/1964), trong cuộc chỉnh lư ngày 31/1/1964 do trung tướng Nguyễn Khánh chỉ huy, ông bị cất chức và bị áp giải vào Sài G̣n v́ tướng Khánh nghi ngờ ông thuộc nhóm trung tướng Trần Văn Đôn, sau một thời gian ngắn, ông được tướng Khánh cho tiếp tục quân vụ tại bộ Tổng tham mưu, và được thăng chuẩn tướng vào ngày 31/10/64 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, thăng thiếu tướng vào 31/10/1967 và lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng như tham mưu trưởng Liên quân, tổng trưởng Xây dựng Nông Thôn, tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, tử nạn v́ báy may rơi vào năm 1972 gần Phú Yên khi ông đi thanh tra với chức vụ phụ tá của trung tướng Cao Hảo Hớn, trung tâm trưởng trung tâm B́nh Định-Phát triển, đặc trách văn pḥng điều hành Chương tŕnh An ninh Thị tứ; thay thế đại tá Phong là đại tá Nguyễn Chánh Thi (từ tháng 2/1964 đến đầu tháng 11/1964), cũng như đại tá Trí, đại tá Thi đă hai lần được thăng cấp khi chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh: thăng chuẩn tướng vào tháng 5/1964, thăng thiếu tướng vào cuối tháng 10/1964 và sau đó được cử giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 Chiến thuật thay thế thiếu tướng Tôn Thất Xứng.
Các tư lệnh kế tiếp là: chuẩn tướng Nguyễn Văn Chuân (tháng 11/1964 đến tháng 3/1966), đây là lần thứ hai chuẩn tướng Chuân chỉ huy Sư đoàn 1 BB, ông được thăng thiếu tướng vào tháng 11/1965, đến ngày 13/3/1966, được cử giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 thay trung tướng Nguyễn Chánh Thi; chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận (tháng 3/1966 đến tháng 6/1966); đại tá Ngô Quang Trưởng (từ tháng 6/1966 đến tháng 8/1970), hai lần thăng cấp trong chức vụ tư lệnh Sư đoàn 1 BB: thăng chuẩn tướng vào tháng 2/1967, thăng thiếu tướng vào tháng 5/1968; chuẩn tướng Phạm Văn Phú (tháng 8/1970 đến tháng 9/1972), thăng thiếu tướng tại mặt trận tháng 3/1971 với chiến công chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh trong cuộc hành quân Hạ Lào, đến tháng 9/1972, nghỉ dưỡng bệnh, đại tá Nguyễn Văn Điềm, tư lệnh phó xử lư thường vụ trong 2 tháng; chuẩn tướng Lê Văn Thân (1/11/1972 đến cuối tháng 10/1973); đại tá Nguyễn Văn Điềm (tháng 11/1973 đến ngày 29/3/1975), đại tá Điềm được thăng chuẩn tướng vào ngày 1/4/1974, bị tử nạn vào ngày 29/3/1975.
* 2 lần thay đổi danh hiệu:
Trở lại với tiến tŕnh hoạt động và phát triển của Sư đoàn này, ngày 17 tháng 9/1955, theo SVVT số 3975/TTM/1/1/SC, Sư đoàn Dă chiến số 21 cải danh thành Sư đoàn Dă chiến số 1, danh hiệu các trung đoàn và các tiểu đoàn cũng được thay đổi: trung đoàn Bộ binh số 21 đổi thành trung đoàn Bộ binh số 1, các tiểu đoàn 8, 28 và 56 đổi thành tiểu đoàn 1/1, 2/1, 3/1; trung đoàn Bộ binh số 22 đổi thành trung đoàn Bộ binh số 2, các tiểu đoàn 23, 27 và 30 đổi thành tiểu đoàn 1/2, 2/2 và 3/2; trung đoàn Bộ binh số 23 đổi thành trung đoàn Bộ binh số 3, các tiểu đoàn 7, 12 và 24 đổi thành 1/3, 2/3 và 3/3; tiểu đoàn Pháo binh số 2 thống thuộc Sư đoàn đổi thành tiểu đoàn Pháo binh số 1. Cuối năm 1958, theo quyết định cải tổ các sư đoàn dă chiến và sư đoàn khinh chiến, Sư đoàn dă chiến số 1 đổi thành Sư đoàn 1 Bộ binh, các trung đoàn Bộ binh số 1, 2 và 3 đổi thành trung đoàn 1, 2 và 3 Bộ binh.
Ngày 1 tháng 6/1965, theo kế hoạch phát triển Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, các trung đoàn Bộ binh có thêm tiểu đoàn thứ 4. Ba năm sau, ngày 1 tháng 6/1968, Sư đoàn 1 Bộ binh thành lập thêm trung đoàn 54 Bộ binh với trung đoàn trưởng đầu tiên là trung tá Ngô Văn Chung (thăng đại tá 1/1/1970, cuối cùng là tư lệnh phó Sư đoàn 3 Bộ binh; tự sát trong lao tù CS sau 1975); cũng trong thời gian này, trung đoàn 2 Bộ binh có thêm tiểu đoàn 5/2. Cuối năm 1968, Sư đoàn 1 Bộ binh có 4 trung đoàn Bộ binh: 1, 2, 3 và 54, 1 thiết đoàn Kỵ Binh (thiết đoàn 7), 3 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 1 tiểu đoàn Pháo binh 155 ly, tiểu đoàn 1 Công Binh. Từ năm 1969, theo tổ chức mới của các sư đoàn Bộ binh, Sư đoàn 1 Bộ binh có thêm 3 tiểu đoàn yểm trợ: tiểu đoàn 1 Truyền tin, tiểu đoàn 1 Tiếp vận, tiểu đoàn 1 Quân Y. Đến tháng 10/1971, trung đoàn 2 Bộ binh được chọn làm trung đoàn ṇng cốt để thành lập Sư đoàn 3 Bộ binh.
Từ ngày thành lập cho đến tháng 3/1975, trong hơn 20 năm, Sư đoàn 1 Bộ binh đă 9 lần được tuyên dương công trạng trước Quân đội. Đầu năm 1969, quân kỳ của Sư đoàn 1 Bộ binh đă được gắn Bảo Quốc Huân Chương, và toàn quân nhân của Sư đoàn 1 được mang giây biểu chương màu tam hợp. Từ năm 1960 đến 1975, trên chiến trường Trị Thiên, Sư đoàn đă lập nhiều chiến công lớn qua các cuộc hành quân mang tên Lam Sơn, những thành tích lẫy lừng nhất là 5 lần đánh bại cuộc tấn công quy mô của sư đoàn 324 B CSBV, lần đầu tiên tại mặt trận phía Nam sông Bến Hải vào tháng 4/1967, lần cuối cùng tại mặt trận Tây Nam Huế trong cuộc chiến Mùa Hè 1972. Riêng trong tháng 2/1971, Sư đoàn 1 Bộ binh đă cùng với Sư đoàn Nhảy Dù, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, Lữ đoàn 1 Kỵ Binh, lực lượng Biệt động quân Quân khu 1 tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào.
The Following User Says Thank You to anhhaila For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.