Câu nói “đánh Trung Quốc” đối với Mỹ không chỉ là khẩu hiệu chính trị hô hào trên truyền thông mà thực sự là chiến lược sống còn về kinh tế, công nghệ và an ninh quốc gia. Nó phản ánh một thực tế không thể tránh: Trung Quốc đang vươn lên nhanh chóng trong các lĩnh vực trọng yếu, từ công nghệ trí thông minh nhân tạo (AI), xe điện, năng lượng tái tạo đến các hạ tầng kỹ thuật số.
Điểm đáng chú ý là sự nhất quán hiếm thấy giữa hai đảng chính trị lớn ở Mỹ. Cả Cộng Hòa lẫn Dân Chủ đều coi Trung Quốc là đối thủ chiến lược, dù cách tiếp cận có thể khác nhau về phương thức (một bên thiên về áp lực kinh tế và thương mại, bên kia nhấn mạnh hợp tác đa phương và đầu tư chiến lược).
Điều này cho thấy việc tranh luận về Trung Quốc không còn là vấn đề ý thức hệ nội bộ mà là ưu tiên an ninh quốc gia. Tuy nhiên, việc “đánh” Trung Quốc không thể chỉ dựa trên đối đầu trực diện, trừng phạt hay bảo hộ thuế quan. Lịch sử cuộc so găng giữa Mỹ và Nhật cho thấy rằng cách tiếp cận dựa trên cạnh tranh mở, khuyến khích đổi mới và thị trường năng động mới đem lại lợi thế lâu dài. Một điểm đáng chú ý khác là cuộc thượng đài này không chỉ về công nghệ và kinh tế mà còn là thể chế, văn hóa doanh nghiệp, và con người.
Bài học Nhật
Trong bài viết mới đây trên Foreign Affairs (“How America Outcompeted Japan”), Giáo Sư Carl Benedikt Frey (Đại Học Oxford), tác giả quyển “How Progress Ends: Technology, Innovation, and the Fate of Nations,” đã nhắc lại bài học Nhật Bản mà nước Mỹ ngày nay nên học, học lại từ chính họ chứ không phải ai khác.
Trở lại giai đoạn cách đây nhiều thập niên, mối đe dọa Nhật Bản được cảnh báo gần như hàng ngày. Năm 1979, nhà xã hội học lừng lẫy Ezra Feivel Vogel (giáo sư Đại Học Harvard) tung ra quyển “Japan as Number One: Lessons for America.” Trên truyền hình, PBS Frontline tung ra bộ phim tài liệu “Losing the War to Japan.” Nói cách khác, truyền thông Mỹ cho thấy nước Mỹ dường như đang “chết đến nơi” bởi sự tấn công vũ bão của hàng nhập cảng Nhật lẫn sự tụt hậu công nghệ của Mỹ trước đối thủ Nhật.
Tuy nhiên, đến năm 1995, khi công nghệ thông tin bùng nổ, Mỹ vươn lên dẫn đầu một cách ngoạn mục. Gần như tất cả dự báo về sự suy thoái của Mỹ đã sai không phải vì Nhật vấp ngã mà vì Mỹ đã vượt trội đúng lúc khi kỷ nguyên máy tính bắt đầu. Mỹ không đánh bại Nhật bằng cách dựng hàng rào thuế quan. Lợi thế của Mỹ dựa trên cạnh tranh mở và khả năng tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu theo sự chuyển dịch của công nghệ. Bây giờ, nước Mỹ dường như quên bài học kinh điển này. Cách Mỹ đánh gục Nhật không chỉ là bài học lịch sử cho riêng nước Mỹ mà, thật mỉa mai, lại là thứ mà Trung Quốc có thể cũng đang học trong cuộc so găng với Mỹ.
“Phép màu” hậu chiến của Nhật – tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người khoảng 8% mỗi năm từ 1950 đến 1973 – có cội rễ sâu xa. Thời Minh Trị (1868-1912), giới lãnh đạo Nhật bắt đầu xây dựng một nhà nước rất giỏi hấp thụ tri thức phương Tây, đặc biệt từ Vương Quốc Anh, bằng cách lập cơ quan dịch thuật quốc gia, đưa về hàng ngàn giảng viên nước ngoài và chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ kỹ thuật. Họ phát triển mạng lưới đường sắt, điện báo, bảo đảm lợi nhuận cho nhà đầu tư và lập những doanh nghiệp thí điểm rồi chuyển giao cho các tập đoàn gia đình gọi là “zaibatsu.”
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Tokyo tiếp tục công thức thế kỷ 19: xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa nhà nước và doanh nghiệp. Cùng lúc tăng cường nhập khẩu, họ cải biến và mở rộng đầu tư các lĩnh vực công nghệ tiên tiến với tốc độ cực nhanh. Hiệp Ước San Francisco 1951, với việc khôi phục quan hệ giữa Nhật và phe Đồng minh, đã mở đường tiếp cận công nghệ và hỗ trợ kỹ thuật từ Mỹ.
Bộ Thương Mại Quốc Tế và Công Nghiệp (MITI) – cơ quan quyền lực phụ trách chính sách công nghiệp, thương mại và công nghệ – đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dòng tri thức nước ngoài vào để các công ty nhanh chóng tiếp thu và cải tiến.
Bằng cách gắn điều kiện tiếp cận thị trường với việc bắt buộc phải nhượng quyền sáng chế, đặc biệt trong các cuộc đàm phán với IBM và Texas Instruments, MITI muốn rằng những đổi mới tiên tiến nhất sẽ chảy vào doanh nghiệp Nhật. Trong trường hợp IBM, Shigeru Sahashi, lúc đó là giám đốc Phòng Doanh nghiệp MITI, đã dọa chặn hoạt động của IBM tại Nhật nếu họ không nhượng quyền công nghệ cho các công ty nội địa Nhật, với mức phí bản quyền bị khống chế ở 5%. IBM đã phải đồng ý.
Cùng lúc, sản xuất của Nhật chú trọng “kaizen” (cải tiến liên tục), sản xuất tinh gọn và giao hàng đúng lúc. Tái cấu trúc doanh nghiệp đã thúc đẩy các nguyên tắc đó khi những tập đoàn liên kết (keiretsu) thay thế các zaibatsu. Đến giữa thập niên 1960, sáu nhóm keiretsu kiểm soát khoảng 30% nền kinh tế Nhật, phối hợp sản xuất và dựng rào cản hạn chế sự xâm nhập của các đối thủ bên ngoài.
Đến năm 1980, mô hình này đã đem lại kết quả ấn tượng. Năng suất lao động của công nhân xe hơi Nhật cao hơn 17% so với đồng nghiệp Mỹ, ở thời điểm mà các hãng xe Mỹ như Ford và General Motors báo lỗ hơn $1.3 tỷ. Trong ngành bán dẫn, các nhà sản xuất chip Nhật hợp tác chặt chẽ với nhà cung ứng thiết bị để loại bỏ lỗi sản xuất. Đến năm 1989, Nhật đã trở thành nhà xuất khẩu cho toàn thế giới, chiếm một phần tư lượng nhập khẩu của Mỹ và đáp ứng khoảng một nửa nhu cầu toàn cầu. Trong khi đó, thị phần Mỹ trên thị trường thế giới giảm từ 57% xuống 40% chỉ trong hơn một thập niên.
Thế nhưng, chính những cấu trúc mang lại lợi thế cho Nhật đã trở thành nguyên nhân kìm hãm sự thay đổi mang tính đột phá. Nhật xuất sắc trong việc tiếp thu và cải tiến sáng chế của người khác, từ tivi màu, máy nghe nhạc bỏ túi Walkman đến đầu video cassette, nhưng điều này chỉ hợp lý trong thời kỳ công nghiệp phần cứng bùng nổ. Đến khi thế giới chuyển sang phần mềm và thương mại điện tử, Nhật lại thất thế. Nguyên nhân, như Giáo Sư Carl Benedikt Frey (Đại Học Oxford) phân tích, nằm ở cấu trúc công nghiệp. “keiretsu” giúp nội bộ hợp tác dễ dàng nhưng làm khó người ngoài. Sự phối hợp kiểu “cartel” được dung túng, trong khi luật chống độc quyền được thực thi yếu ớt. Hậu quả là Mỹ, cuối cùng, vượt lên và vượt lên rất nhanh.
Vốn nổi tiếng với yếu tố năng động, người Mỹ nhanh chóng tạo ra một thị trường phi tập trung. Các công ty Mỹ đã mô-đun hóa sản xuất (modularized production), áp dụng tiêu chuẩn mở, chuyên môn hóa thiết kế, và khai thác chuỗi giá trị toàn cầu để cắt giảm chi phí và tăng mức độ linh hoạt. Đến giữa thập niên 1990, loạt trung tâm lắp ráp ở Trung Quốc trở thành phần mở rộng của giới doanh nghiệp Mỹ. Sự tích hợp sâu của các công ty Mỹ với Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Đài Loan đã làm suy giảm lợi thế chi phí của Nhật; và đó là cú đấm thôi sơn khiến Nhật bị hạ đo ván.
Bài học Trung Quốc
Với Trung Quốc, chìa khóa cho sự trỗi dậy của họ khác với Nhật và Mỹ. Sau khi thăm Nhật năm 1978, Đặng Tiểu Bình cố sao chép mô hình Nhật nhưng vướng phải rào cản bộ máy quan liêu. Trung Quốc chỉ bắt đầu đột phá vào năm 1979 khi họ thành lập các đặc khu kinh tế, cho phép thử nghiệm kinh tế thị trường, ban đầu là Quảng Đông và sau đó là Phúc Kiến. Kinh tế được lột xác, bắt đầu cất cánh như vũ bão, tạo nên một phiên bản “rồng Châu Á” với sức gầm rú mạnh hơn cả Nhật. Tuy nhiên, cái gọi là sự kỳ diệu Trung Quốc dần “chạm nóc,” đơn giản là đảng Cộng Sản giữ quyền kiểm soát mọi thứ. Điều này khiến tính năng động kinh doanh giảm, dẫn đến năng suất đình trệ.
Lẽ ra Bắc Kinh phải tăng phân quyền nhằm thúc đẩy cạnh tranh và tạo không gian thử nghiệm rộng hơn cho các địa phương, họ lại tập trung quyền lực nhiều hơn về trung ương. Quyền kiểm soát khu vực tư nhân cũng thắt chặt. Bắc Kinh nắm cổ phần trong Alibaba, ByteDance, Tencent (điều mà chính quyền Trump hiện nay đang thực thi ở Mỹ)…
Nhà nước Trung Quốc định hướng “đổi mới” dựa vào các nhiệm vụ quốc gia như “thịnh vượng chung” và “tự cường công nghệ.” Hậu quả, doanh nghiệp nhà nước được mở rộng nhưng chỉ nhằm đạt mục tiêu chính trị chứ không phải ưu tiên lợi nhuận. Cùng lúc, các đại công ty tư nhân lại né những “nhà đầu tư” dính dáng nhà nước. Khi quyền lực tập trung tại Bắc Kinh, thử nghiệm địa phương giảm, và trách nhiệm chuyển từ hiệu quả sang trung thành chính trị, các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và công ty có vốn đầu tư nước ngoài phải đối mặt với rào cản ngày càng cao.
Yếu tố “trung thành chính trị” chính xác là điều mà nước Mỹ ngày nay cần tránh. Điều thứ hai cần học nữa là trung ương, nói theo kiểu Mỹ là chính phủ liên bang, không nên can thiệp sâu vào các tập đoàn.
Ngoài ra, để làm giảm sức mạnh kinh tế Trung Quốc, điều Mỹ nên làm là không phải cắt đứt thương mại, “chơi khó thiên hạ” bằng hàng rào thuế quan, mà là thúc đẩy liên kết với đồng minh, từ Mexico, Nam Hàn, Canada đến Châu Âu.
Lịch sử cho thấy rõ ràng rằng Mỹ thịnh vượng nhờ kết nối mạng lưới toàn cầu và biến chúng thành lợi thế. Nói cách khác, Mỹ cần duy trì tính cạnh tranh, không thò tay can thiệp chuyện làm ăn của các tập đoàn nội địa, và tránh trở thành một phiên bản… Trung Quốc (khi đi theo con đường “tập trung hóa” của họ) khi thực hiện cuộc chiến chống Trung Quốc.