B. Việc phá rừng
Rừng là một thảm thực vật thiên nhiên lớn nhứt và hữu hiệu nhứt trong nhiệm vụ điều hòa dòng chảy của sông Mékong. Rừng qua rễ cây và lớp đất thịt bao phủ sẽ hấp thụ và giữ nước trong mùa mưa, và trong mùa khô, nước tích trữ trong đất sau mùa mưa sẽ điều tiết và điều hòa độ ẩm của đất. Từ đó, hạn chế được mức khô cằn hạn hán trong đất vào mùa nầy. Ðây là một đặc ân của thiên nhiên làm điều hòa và cung cấp nước cho hạ nguồn để ngăn chặn nước mặn xâm nhập sâu vào ÐBSCL.
Theo thống kê, trước Ðệ Nhị Thế Chiến, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam chiếm 43% tổng diện tích quốc gia, nhưng đến năm 1995, rừng chỉ còn lại 28%, nghĩa là mất trắng đi 55.000 Km2. Sau đó, với sự trợ giúp của Liên hiệp quốc, việc trồng rừng mới được bắt đầu, nhưng tính đến năm 2005, tỷ lệ rừng tăng lên đến 32%, trong đó những vùng trồng cao su, trà, càphê&vẫn được xem như việc “trồng rừng” do đó con số mới tăng.
Tuy nhiên, việc phá rừng thực sự vẫn tiếp tục gia tăng với cường độ phi mã. Tính đến năm 2005, rừng nguyên sinh (rừng già) ở Việt Nam chỉ còn 8%. Cho đến năm 2010, rừng nguyên sinh ước tính chỉ còn khoảng 6%, mặc dù Việt Nam nhận thêm nhiều ngân khoản tài trợ của LHQ để đẩy mạnh việc trồng rừng. Nói chung, người Việt vẫn đang tiếp tục phá rừng cho đến ngày nay, do đó ÐBSCL phải gánh chịu hậu quả là hàng năm nước mặn tiếp tục tiến sâu vào đất liền và làm thiệt hại hàng trăm ngàn mẫu lúa, theo thống kê vào giữa tháng 4, 2010, mặc dù cao điểm của mùa khô là vào cuối tháng 5.
C. Việc xây dựng đê bao
Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam mang chính sách đê bao vào ứng dụng trong việc làm tăng diện tích trồng lúa, trong việc biến “sỏi đá thành cơm,” cho nên người dân ÐBSCL phải gánh chịu hậu quả ngày hôm nay là lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn và không có chu kỳ tương đối cố định như trước kia nữa. Nguyên do là khi dòng chảy từ Mékong xuống khi mùa nước bắt đầu lên cao ở Tân Châu và Châu Ðốc, nước sông hoàn toàn di chuyển ra biển, đợi đến khi nước lớn hơn nữa mới bắt đầu làm làm đầy hai vùng Tứ giác Long Xuyên và Ðồng Tháp Mười.
D. Sự khai thác quá độ các dòng sông trên thế giới
Nước là một nhu cầu thiết yếu cho bất cứ dân tộc nào trên thế giới. Trước sự gia tăng dân số toàn cầu, trước sự phát triển kỹ nghệ ồ ạt làm cho nước bị ô nhiễm và nguồn nước trên thế giới dần dần không còn trong lành như xưa.
Hiện tại và trong một tương lai không xa, các cuộc chiến tranh trên thế giới có thể do nguyên nhân từ sự sử dụng nguồn nước không công bằng giữa các quốc gia với nhau. Hãy nhìn dòng sông Colorado của Hoa Kỳ. Trong vòng hơn một trăm năm qua, do sự khai thác đập nước, con sông nầy không còn giữ được dòng chảy vào vịnh Mễ Tây Cơ, khiến một vùng đất hàng chục triệu mẫu phía nam lưu vực sông nầy, thuộc Mễ Tây Cơ vốn đã cằn cỗi lại càng khô cằn thêm. Từ năm 1997, Hoa Kỳ đã phải đền bù cho dân chúng sống tại nơi đây. Tuy nhiên còn biết bao sông ngòi khác đã và đang biến thành những tranh chấp có thể đi đến chiến tranh. Hãy kể:
-Sông Asi, bắt nguồn từ Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) chảy vào địa phận Bắc Syria. Mười năm trước đây, qua việc xây đập để phát triển nông nghiệp, vô hình trung Thổ Nhĩ Kỳ đã biến một vùng dân cư trù phú tại nơi nầy thành một nơi hầu như hoang phế.
-Sông Euphrates và sông Tigris cũng phát nguồn từ đất nước trên, chảy qua Irak và Iran. Câu hỏi được đặt ra là nếu có một cuộc tranh cãi nào giữa Thổ và hai quốc gia trên, hai con sông nầy sẽ dự phần không nhỏ vào cuộc chiến trên.
-Sông Hoàng Hà bên TC, cũng vì khai thác quá độ, dòng chảy không còn chảy ra biển Bắc TC nữa, và hôm nay, TC phải thiết lập một kinh đào dài 320 Km khánh thành vào năm 2011, để dẫn nước sông Dương Tử cung cấp cho lưu vực sông nầy.
-Sông Dương Tử. TC còn đang cho đào con kinh thứ hai cũng phát xuất từ sông Dương Tử để tiếp nước thêm, và sông Dương Tử cũng cần bù đắp vào sự thiếu hụt trên, do đó lại phải dẫn nguồn nước từ một phụ lưu của sông Mekong. Ðó là sông Lamcang (Lan Thương). Rõ ràng TC là thủ phạm chính và đầu tiên làm đảo lộn dòng chảy của dòng chính sông Mekong và tạo ra tình trạng lũ lụt và hạn hán thường xuyên hơn.
E. Còn Việt Nam ngày nay thì sao?
Với trên 2,360 nguồn sông nước, với trên 1,500 mm vũ lượng mưa hàng năm, dân tộc Việt hiện đang thiếu nước! Ðó là một điều nghịch lý mà dân tộc phải chịu, và nguyên nhân của sự tạo ra nghịch lý nầy chính là đảng Cộng sản Bắc Việt.

Xác cá nhiễm độc trong sông chết nổi dạt vào bờ
Trong suốt tiến trình xây dựng và mở mang bờ cõi, cha ông chúng ta ngày càng mở mang, khai triển kinh rạch, đặc biệt vùng châu thổ sông Cửu Long, biến vùng đất 39,000 km2 nầy thành vựa lúc cho dân tộc sinh tồn.
Ngày nay, qua sự khai thác bừa bãi, cung cách phát triển “ăn xổi ở thì,” xem thường việc cân bằng môi trường trong phát triển, đất nước Việt trở thành một vùng ô nhiễm từ Bắc chí Nam. Những dòng sông thơ mộng ngày xưa, nếu hẹp thì biến thành những bãi rác, vũng lầy; nếu rộng, thì sông không còn là nơi người dân sử dụng nguồn nước cho sinh hoạt hàng ngày.
Từ năm 1986 trở đi, Việt Nam đã mở cửa trực tiếp tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, Việt Nam đã có nhiều biến chuyển đáng ghi nhận như có một nguồn sinh khí mới thổi vào xã hội và người dân Việt. Tuy nhiên với những hạn chế do nhu cầu sinh tử là sự bảo đảm an toàn quyền lực của chế độ, Việt Nam trong thế mở vẫn còn tạo ra nhiều ngăn trở và khó khăn cho xã hội. Việt Nam vẫn còn dò dẫm trong tư thế của một xã hội nông nghiệp, phát triển từ từ lên xã hội công nghiệp, để rồi đang phải chịu hụt hẫng trước thế toàn cầu hóa. Thật khó thực hiện được một xã hội hài hòa bao gồm các xu hướng phát triển không đồng nhất thậm chí mâu thuẫn lẫn nhau.
Một lần nữa, làm sao tránh khỏi thụt lùi trước tiến trình toàn cầu hóa trong lúc lãnh đạo Việt Nam vẫn còn giữ thái độ thù nghịch, nghi kỵ với hầu hết các quốc gia trên thế giới? Làm sao phát triển thành một xã hội công nghiệp hóa lấy căn bản nông nghiệp làm tiêu chuẩn như trường hợp Việt Nam hiện tại?
Mở nhưng vẫn đóng. Ðóng trong định kiến. Ðóng trong lo sợ bị đào thải. Càng đóng lại càng có nguy cơ bị đào thải sớm hơn. Hiện nay, người ta có cảm tưởng như những yếu tố sau đây là chính yếu trong sắc thái dân tộc của Việt Nam là tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác đúng mức.
a) Tiềm năng nhân lực dồi dào.
Nước nghèo, nhân công rẻ và thừa thãi, thông minh và dễ huấn luyện tay nghề. Có bàn tay sắt của nhà cầm quyền giữ gìn trật tự và sự ổn định. Thiếu luật lệ rõ ràng và tham nhũng trở thành dễ dàng cho các sự phiêu lưu mậu dịch, chỉ cần liên lạc với một số người có chức vị và có quyền lực trong đảng.
b) Ða số dân chúng sống về nghề nông với một nền công nghiệp còn thô sơ.
Từ những sắc thái đặc thù đó, người Việt Nam sống về huyền thoại nhiều hơn thực tiễn. Do đó, nếu muốn đuổi kịp cộng đồng các quốc gia trên thế giới Việt Nam cần:
-Mở cửa để học hỏi, lựa chọn. Cái mới, cái chưa biết nào cũng có những hiểm nguy của nó. Sự tính toán dò dẫm là cần thiết, nhưng quá tính toán có khi tính già hóa non, vì để mất thời cơ.
-Không nên tạo thêm huyền thoại. Tập cho người dân thực tiễn hơn.
-Không ngừng phát triển sắc thái dân tộc, cái sức mạnh bên trong (nội lực), để tự tạo cho mình một thế mạnh trong sự bang giao với cộng đồng các quốc gia trên thế giới.
c) Muốn được như vậy, Việt Nam cần tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi dân tộc trong cộng đồng quốc gia tham gia vào cuộc sống chung:
-Ðể mọi cá nhân, mọi đoàn thể đều có thể tự lập, tự sinh sống, không ỷ lại vào sự sáng suốt hay sức mạnh của một đảng, một nhà nước hay của một cấp lãnh đạo nào.
-Ðể cho mỗi người Việt Nam tự thấy mình thực sự còn có nội lực để đóng góp tích cực và toàn diện trong mạch sống quốc gia. (“nội lực” được hiểu theo tinh thần “dân khí” của Cụ Phan Châu Trinh).
-Ðể kêu gọi tận dụng nội lực trong nước để phát triển quốc gia mà không cho phép hay hạn chế người dân phát huy nội lực cho từng cá nhân thì làm sao tránh khỏi cảnh thụt lùi cho đất nước được?
Xưa vua thay Trời trị nước, tất cả đều là của vua, ngay cả sinh mạng của người dân. Minh quân hay hôn quân vô đạo là sự may nhờ rủi chịu của người dân, người dân không có tiếng nói. Một thứ nô lệ sẵn sàng chết vì ông chủ, gọi như thế là trung. Nay, thì nhân danh nhân dân mà dân không có quyền tư hữu sản xuất. Tương tự như xưa, triều đình suy nghĩ và dạy dân những gì triều đình cho là tốt nhất, thì bây giờ Ðảng suy nghĩ và thông tri cho dân những gì cấp lãnh đạo nghĩ là tốt nhất. Ðã đến lúc “chủ nghĩa nhân danh” phải bị đào thải, để mỗi người dân, và theo đó mỗi dân tộc tập tành nghĩ suy và hành động theo những hiểu biết và cảm xúc của mình.
-Phải trả lại cho dân, cho những dân tộc cái quyền sống của họ. Không một ai sống thay cho bất cứ ai được. Phải sống thật mới lớn mạnh được.
-Sống nhờ, sống gửi, sống mà trí tuệ và tâm linh gửi cho nhà vua hay cấp lãnh đạo, sống mà trách nhiệm nửa vời, chờ đợi ơn mưa móc ở một minh quân, hay phép lạ của một huyền thoại trí tuệ tập thể.
-Sống mà lúc nào cũng phải chạy theo cái ăn cái mặc, ngày ngày đói no không chừng, đau ốm không thuốc men... Sống như vậy là sống còi cọc, què quặt, bịnh hoạn và khuyết tật.
-Khi người dân được trọn vẹn với cuộc sống của mình. Khi đói dám nói rằng mình đói, khi thất học dám nhận mình thất học.
-Khi không còn sợ hãi nói cái mình thật sự cảm nghĩ, nói chung khi mà kinh nghiệm được rằng mình có những quyền hạn bất khả xâm, được luật pháp và cơ quan thẩm quyền bảo vệ.
Khi ấy (điều kiện cần) có nhiều khả năng con người dấn thân trọn vẹn với cộng đồng của mình, làm hết sức mình cho chính mình và cho cộng đồng thì đương nhiên dân giàu và theo đó nước mạnh. Người đại diện cho quốc gia, cho dân tộc nhờ vậy mà có cái thế mạnh trong bang giao quốc tế.
Ðưa nửa triệu người làm mồi cho biển cả, giam một triệu người vào các trại cải tạo, để một triệu người tăng cường nhân lực cho các nước giàu có, (hầu hết nhân lực trên đều trong tuổi lao động, sản xuất tốt nhất, hiệu quả nhất) là một biện pháp tốt để đổi lấy một sự yên ổn cho ÐẢNG CSVN, nhưng là một biện pháp đã làm thui chột hay què quặt quốc gia. Tương tự, thắng trận ghi công là một điều thường tình, nhưng kỳ thị người tại chỗ, áp dụng chính sách “tru di tam tộc” (đời cha, đời con, và đời cháu không được học quá tiểu học) của thời quân chủ chuyên chế, là đặt phân nửa đất nước ra khỏi sự tham gia đóng góp việc chung.
Có một đảng mạnh, có kỷ luật, có những cán bộ tiên phong, có một quá trình thử thách nhiều thập niên, có trên 3,2 triệu đảng viên là một điều tốt. Nhưng biến số đảng viên ấy thành một số quan lại của một triều đình vua và chúa, đứng ngoài luật pháp, tham ô và lạm quyền, nhất nhất một chiều, là thui chột ý chí và lòng phấn đấu vươn lên của mọi tầng lớp dân chúng.
Cả nước chỉ có hơn ba triệu người có quyền dám nghĩ, nhưng chỉ một thiểu số trên đây có quyền dám nói; và trong ba triệu người nầy, đa số vì miếng đỉnh chung, vì sự tiến thân và an ninh của mình và gia đình đã trở thành a dua, nương thời, nương lúc, nên cũng không dám nghĩ, không cần nghĩ và nói xuôi chiều cho khỏe thân. Chỉ còn lại một thiểu số ít ỏi, 1200 đại biểu, 160 ủy viên trung ương đảng và 14 ủy viên bộ chính trị, dầu có thông minh tuyệt đỉnh, dầu có trí tuệ tuyệt vời, thì đương nhiên quốc gia phải èo uột. Nhìn vào các dân tộc khác trên thế giới, chúng ta không thể tìm ra một quốc gia nào có nền văn hóa hàm chứa những giá trị hoàn toàn khác biệt. Vì lý do đó, những giá trị về nhân quyền và các quyền tự do căn bản của con người trên toàn cầu đều phải được tôn trọng triệt để. Dĩ nhiên, sẽ không có trường hợp ngoại lệ cho Việt Nam.
Thật khó biện minh trước thế giới khi Việt Nam công bố: “Việt Nam có những giá trị và bảo vệ nhân quyền đặc thù theo cung cách Việt Nam. Việc áp đặt quyền làm người theo tiêu chuẩn Liên Hiệp Quốc là xâm phạm vào chủ quyền Việt Nam.” Với cách nhìn như trên, chính sách mở của Việt Nam vẫn còn dựa theo định hướng xã hội chủ nghĩa cho nên lãnh đạo Việt Nam vẫn còn cổ xúy chủ nghĩa dân tộc cực đoan để duy trì quyền lực và không dám mở thực sự vì sợ sẽ bị phô bày cho thế giới rõ những sự lạc hậu và lầm lạc của họ trong việc phát triển quốc gia.
Từ đây, với mặc cảm tự ty đối với thế giới bên ngoài, dân tộc Việt Nam vốn dĩ đã bị dồn ép từ lâu, sẽ vùng dậy và lần lần rập khuôn theo những quốc gia nhân bản, dân chủ và tiến bộ khi được hé mở từ từ. Từ đó tiến trình chủ nghĩa dân tộc “cách ly” trước đây đã biến thành chủ nghĩa “chạy theo ngoại bang” mà chính quyền hiện tại khó kiểm soát nổi, và ngoại bang nơi đây, rõ ràng là đàn anh nước lớn Trung Cộng.
F. Tiến trình toàn cầu hóa
Từ những nhận xét trên, Việt Nam trước tiến trình toàn cầu hóa, và để hy vọng thoát khỏi thụt lùi, cần phải thực hiện một chính sách mở “chân chính” chứ không thể tự ru ngủ trên những ngôn từ hoa mỹ ghi trong các kế hoạch phát triển quốc gia không tưởng. Do đó, toàn cầu hóa là một thực tiễn, và là một nét đặc thù của thời đại. Ðó là một tiến trình càng ngày càng nhanh, trừ phi có một thiên tai vô cùng lớn, như các máy điện toán bị phá vỡ, các vệ tinh ngưng hoạt động, máy bay không cất cánh, cầu lộ sụp đổ, xe cộ tàu bè không xăng nhớt...
Có thể quan niệm toàn cầu hóa như một “salad bowl,” trong đó mỗi quốc gia đều giữ những nét đặc thù của mình, mỗi dân tộc đều được tôn trọng đúng mức. Ðúng mức ít nhất là trong cái nghĩa tương xứng với vị thế và giá trị tương quan của nó. Trong cái “salad bowl” ấy, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia phải tự làm giàu chính mình: giàu văn hóa, giàu nhân lực, giàu sản phẩm, giàu tình người, để có một vị thế tương xứng.
Vai trò của nhà lãnh đạo quốc gia không là chiếm hữu quyền lực, có quyền sinh sát sinh linh, nhất hô bá ứng, mà là làm cho người người, nhà nhà tham gia vào việc làm giàu cho họ, cho gia đình họ, cho dân tộc họ, và cho quốc gia họ, làm cho quyền lợi của họ mật thiết với quyền lợi của dân tộc hay quốc gia.
Toàn cầu hóa sau cùng là sắc thái quốc gia, sắc thái dân tộc. Toàn cầu hóa cũng ngầm hiểu một sự quân bình trong mối bang giao quốc tế, cần thiết cho một hài hòa tương đối trong giao lưu văn hóa, mậu dịch. Toàn cầu hóa cũng khẳng định lại mối quan hệ giữa lãnh đạo và quần chúng, làm sao cho mọi cá thể đều có cơ hội dấn thân và sống toàn diện của mỗi người con Việt trong cộng đồng dân tộc.
Như thế chắc chắn không phải là một dạng dân chủ tập trung, theo lối xã hội chủ nghĩa, mà là một tính dân chủ thực tiễn, trong cuộc sống hàng ngày của người dân. Tóm lại, từ ngày xưa, chủ nghĩa dân tộc đã một thời thúc đẩy sự phát triển quốc gia. Nhưng ngày nay, cung cách suy nghĩ mới của phát triển đã vượt qua rào cản của ranh giới quốc gia và ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới. Bây giờ và tương lai cần phải có một sự phát triển hài hòa chung cho cả nhân loại.
Thay Lời Kết
Ngoài lãnh thổ do tổ tiên để lại, nguồn sinh mệnh chính của dân tộc Việt rõ ràng là những dòng sông chảy dài từ Bắc chí Nam, và vùng biển Ðông bao bọc, cho đến khi Cộng sản Bắc Việt chiếm trọn miền Nam năm 1975. Tuy nhiên nhu cầu sống còn của đảng CS Việt Nam, Bắc Việt cố tình làm thái thú cho đàn anh nước lớn Trung Cộng, bọn này đang dùng sự quản lý của họ để làm cho đất nước của chúng ta ngày càng kiệt quệ. Nay, trước sự tồn vong của dân tộc, chúng ta, người Việt quốc nội và hải ngoại cần nhận thức rõ đâu là đại họa “cõng rắn cằn gà nhà” của thái thú Bắc Việt.
Thế giới ngày hôm nay là thế giới của toàn cầu hóa, thế giới của cộng sinh, một thế giới tuy đa cực và đối cực. Tuy nhiên, không vì một chủ thuyết ngoại lai đã bị đào thải, không vì tham vọng quyền lực mà đảng cộng sản Bắc Việt phải cam tâm đem bán tổ quốc cho TC, biến Việt Nam thành một tỉnh bang của Tàu. Mọi người Việt nếu còn tấm lòng Việt cần phải thức tỉnh và cùng nhau tìm một sinh lộ mới cho dân tộc. Có được như vậy chúng ta mới hy vọng loại trừ được cơ chế của một đảng đã và đang đem Ðất và Nước vào cơn hồng thủy ngày hôm nay.

Sông rạch đồng bằng sông Cửu Long.
Xin nhớ, ngày xưa, chính nhờ bản sắc dân tộc của cha ông Việt và đã từng là điểm hội tụ và kết nối toàn dân trước bao sự xâm lăng & đô hộ của giặc Tàu; ngày nay, những người con Việt chắc chắn sẽ nối bước cha ông bảo vệ ngôi nhà Việt Nam trước tiến trình Hán hóa của TC. Muốn làm được như vậy, chúng ta cần phải loại trừ nguyên nhân tạo ra đại nạn trên, đó chính là Cộng sản Bắc Việt.
Trong ý nghĩ đó, nhứt định Cộng sản Việt Nam phải chấm dứt, cơ chế cộng sản và bất cứ hình thức chuyên chính vô sản nào sẽ phải biến mất trên Ðất và Nước của người con Việt. Sẽ không còn một ngoại lệ nào khác cho Cộng sản Việt Nam.
Mai Thanh Truyết
Kỷ niệm trận chiến Hoàng Sa 19 tháng 1, 1974
Phụ Bản
Danh sách các đập đã xây dựng dọc theo dòng chính Mekong
từ Bắc chí Nam với công suất trên 10 Megawatt.
(Phụ Bản kèm [file word] trong Todaypictures_NVMinn esota_Tuan 79)