|
R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 110
|
Việt Nam luôn tự hào là xứ rừng vàng biển bạc.
Biển chạy dài suốt chiều dài Việt Nam và núi rừng chạy suốt từ miền Bắc đến tận Nam Trung bộ. Thế nhưng không những biển bạc mà rừng vàng cũng dần nát ngấu do mạnh ai nấy tha hồ băm xé, chia phần.
Theo phân loại của Việt Nam thì đất rừng chia thành hai loại: đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ và đặc dụng.
Đất rừng sản xuất thường trồng các loại cây như bạch đàn, tràm, quế, hồi... để thu hoạch nguyên liệu.
Rừng phòng hộ nhằm bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu, bảo vệ môi trường như rừng phi lao ngăn cát chạy, bãi triều ven biển có rừng sú, vẹt, đước... để vừa chắn sóng, vừa giữ phù sa, làm cho bờ biển không những không bị xói, mà còn được bồi đắp và tiến ra phía trước...
Rừng đặc dụng là loại rừng được thành lập để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật và thực vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh phục vụ nghỉ ngơi du lịch kết hợp với phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái như rừng quốc gia Cát Tiên, Cúc Phương, Yok Don, Bạch Mã, Yên Tử...
Rừng là vàng hiển nhiên vì vô số thứ trời bày cho không đầy dẫy ở đó, chẳng cần tốn tiền mua mà cứ tha hồ lấy bao nhiêu tùy thích. Giá trị nhất là gỗ, khoáng sản rồi thực phẩm, trầm, dược liệu...
Trong những năm gần đây do việc khai thác quá mức, chặt phá rừng bừa bãi cùng với thiên tai hỏa hoạn, rừng của Việt Nam đã bị suy giảm đến mức báo động cả về số lượng và chất lượng. Diện tích đất lâm nghiệp năm 2005 là 14,43 triệu ha, hiện nay còn 13,5 triệu ha. Đó là theo sổ sách, chứ thực tế thấp hơn nhiều.
Hoảng quá, nhà nước bèn ra lệnh đóng cửa rừng. Nhưng lệnh đóng chỉ nằm trên giấy tờ, còn thực chất rừng nằm bát ngát, làm sao kiểm soát được, canh được một cửa này thì vô số cửa khác mở toang.
Có rất nhiều cách phá rừng.
Trước kia dân thiểu số cũng có đốt rừng làm rẫy nhưng đó chỉ là những khoảnh nhỏ. Bây giờ dân đồng bằng ồ ạt đổ lên khai thác mới ghê. Cũng tại rừng không thuộc về ai nên ai cũng có quyền khai thác (!). Người đi tới đâu càn quét rừng sạch sẽ đến đó. Rừng A Đăng (Quảng Trị) nhiều cây gỗ quý: gõ, dẻ, đào... bị dân chúng ùa vào thẳng tay đốn hạ không thương tiếc.
Sau vụ mua rễ hồ tiêu ở Chư Sê (Gia Lai) bất thành, thương lái Trung Quốc lại tìm cách mua rễ cây rừng ở xã Kon Pne (Gia Lai). Cũng với chiêu trò quen thuộc từ xưa đến giờ là sau một thời gian ngắn, việc thu mua sẽ đột ngột chấm dứt khi người dân đã thu vét đến cạn kiệt tài nguyên. Hay là xã An Ninh (Quảng Bình) phá rừng để khai thác đất. Có muôn ngàn cách để moi “vàng” từ rừng ra.
Rừng tre nứa cũng giảm nhanh nhất là ở Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Đông Bắc do việc đốt rừng làm rẫy và phá rừng để lấy đất trồng cây công nghiệp. Rừng phòng hộ giá tị ở Đồng Nai bị đổ hóa chất cho chết để trồng cam, quýt... Rừng ngập mặn và rừng chua phèn cũng bị phá nát để nuôi tôm nước lợ, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là những phong trào phồng lên xẹp xuống theo thời. Tôm chỉ được nuôi theo kinh nghiệm dân gian nên năm được mùa chưa kịp vui thì nhiều năm tiếp theo dịch bệnh hoành hành, nông dân trốn nợ bỏ nhà biệt xứ để lại những vuông tôm hoang tàn vốn trước kia là rừng đước, sú, vẹt...
Hai cách phá rừng nhanh nhất, phá bạt ngàn rừng nhất là làm thủy điện và “đổi rừng nghèo thành rừng kinh tế”. Cách thứ nhất đi kèm với lòng hồ là nhà máy, đường đi, đất tái định cư khiến rừng bị bạt một vùng khổng lồ. Trên một con sông vài nhà máy thủy điện lớn nhỏ chi chít kế tiếp nhau bất kể việc mất rừng, thủy điện cũng bị thiếu nước.
Cách thứ hai lấy đất để trồng cây công nghiệp. Đặc biệt rừng Tây Nguyên bị tàn phá mãnh liệt nhất do làn sóng di cư từ miền Bắc tràn vào sau năm 75. Họ tích cực đốt phá rừng để chiếm đất trồng các loại cây đang được giá như cà phê, cao su... Sau vài năm không còn rừng giữ nước, thêm cao su vốn thuộc loại cây không giữ nước khiến khô hạn càng thường xuyên, lấy nước đâu tưới cho tiêu, cà phê... Lời thành lỗ nặng. Rừng đã phá rồi chẳng khi nào quay lại bóng rừng xưa.
Không trồng trọt, không thủy điện rừng cũng bị phá. Khu rừng thông đẹp nhất Tây Nguyên ở huyện Krong Puk (Dak Lak) bị hàng trăm người mau chóng chặt phá, lẹ lẹ chia lô, san nền để dựng nhà, bán đất, hoặc đốt rừng để làm rẫy, hoặc lo chiếm đất sẵn, vội vàng dựng tạm mấy cái chòi đợi đòi tiền đền bù. Cho nên chung quanh rừng Tây Nguyên có đến hơn 1500 xưởng cưa chuyên chế biến và tiêu thụ gỗ lậu.
Diện tích rừng trồng cũng có tăng do các chính sách giao khoán đất rừng cho cơ quan nhà nước, công ty tư nhân hay gia đình nông dân trong thời gian nhất định cộng thêm một số chương trình trồng rừng khác. Tuy nhiên, rừng trồng quá ít ỏi, chẳng bù đắp bao nhiêu so với số rừng bị mất đi như vũ bão. Và con số diện tích rừng tăng lên nằm trên báo cáo thực chất có cả vườn điều, vườn tiêu lấp liếm chui vào trong đó.
Theo Luật Đất đai hiện hành quy định thời hạn giao đất cho người nông dân sử dụng khá ngắn và hạn mức người dân được nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cũng khá hạn hẹp. Cụ thể: “thời hạn giao đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất cho gia đình, cá nhân sử dụng quy định là 50 năm”. Phần lớn các công ty lâm nghiệp đâu có mặn mòi gì việc trồng rừng nên sau khi nhận quản lý đất rừng xong đều giao khoán ngay cho gia đình, cá nhân.
Đầu tiên là giao cho tay trong là cán bộ, nhân viên của công ty lâm nghiệp, quan chức, công an địa phương. Tránh tiếng thì thay thế bằng vợ con của các quan, rồi đến bà con bạn bè của quan. Nếu không dây mơ rễ má họ hàng thân hữu của quan to có chức có quyền có máu mặt thì chịu khó phong bì chìa ra, tiền trao cháo múc đổi lấy khoảnh rừng. Chẳng bao lâu, rừng bỗng bị hô biến thành đất thuộc quyền chủ tư nhân cả. Và vì hầu hết đất rừng thuộc về cán bộ nên chuyện thu hồi là không thể.
Nếu có chút hiểu biết (lương tâm) về sản xuất lâm nghiệp thì họ tiếp tục chăm sóc, đốn cây theo kế hoạch. Số này hiếm hoi lắm, không đáng kể. Còn lại sẽ tùy theo tình hình thị trường mà chuyển sang làm nông như trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, đào ao nuôi cá, nuôi tôm... chứ trồng rừng làm chi mất công. Trồng rừng hàng nhiều chục năm mới cho khai thác thì đã hết hạn giao đất. Kết quả mồ hôi nước mắt bị tước đoạt dành cho người đâu đâu hưởng!
Quả thời gian trồng rừng lâu quá, khó mà lường trước chuyện gì sẽ xảy ra. Một gia đình ở xã Thanh Hóa (Quảng Bình) khai khẩn đất hoang trồng rừng keo đến khi bắt đầu khai thác thì bị nhà nước lấy chia cho người khác. Nổi tiếng nhất là “rừng mệ Nghèng”. Bà Nghèng bỏ ra 45 năm, tức là gần cả cuộc đời từ trẻ đến già, để cặm cụi gánh từng gánh nước trồng 200 ha rừng phi lao chắn cát. Công lao từng một thời được coi là “huyền thoại” ấy sau đó mau chóng bị xóa gần hết nhường chỗ cho nhà cửa, phố xá... mọc lên nhanh đến chóng mặt.
Rừng miền Trung do Trường Sơn chạy sát biển, với độ cao đó dễ dàng xây nhà máy thủy điện. Vì thế trên các con sông ở Tây Nguyên và miền Trung mọc ra chi chít vét sạch gỗ quý, phát quang cả đám rừng. Lợi chẳng bù hại khi nhà máy thủy điện xả lũ bừa bãi khi gây hạn khi gây lụt cho vùng hạ lưu không kể các vấn đề xã hội, môi sinh khác. Miền Nam đốn rừng ngập mặn để nuôi tôm cá. Còn miền Bắc, gần đây người ta tiến lên đồi núi, bạt rừng để xây dựng trang trại, khu du lịch, biệt điện, resort...
Bởi đời sống cư dân thành thị quá gò bó, căng thẳng, ngột ngạt... Hà Nội đã trở nên quá chật chội đến căng thẳng, đâu còn đất xây nhà cao cửa nên một số quan chức, người có tiền tạo nên phong trào mua đất ở nơi xa, vắng vẻ, xây nhà, làm vườn thành nơi nghỉ dưỡng cuối tuần, nơi để dành nghỉ hưu... Chưa kể làm nơi... an nghỉ ngàn thu của dòng họ... nhìn trước, đón đầu khu đô thị tương lai. Nhất là từ khi Hà Nội mở rộng địa giới khiến xứ Mường cũng thành dân Tràng An, dù lên tận miền đồi núi xây nhà bên suối thì vẫn là dân Hà Nội ở giữa Hà Nội.
Những người này lùng sục về miền quê, miền cao tìm đến người quen, cò đất... để mua đất. Người nọ bảo người kia. Trong nhà ngoài xóm chỉ bảo nhau. Thế là hình thành làng biệt thự, vườn cây, khu lăng mộ... chiếm cả cánh rừng đặc dụng, trọn ngọn đồi phòng hộ...
Chuyện băm nát, phá rừng đã xảy ra tưng bừng mười mấy năm nay. Lâu lâu báo chí lôi ra một vụ ì xèo rồi chìm nghỉm. Cùng lắm là kiểm điểm, xử lý nội bộ...
Đột nhiên, dạo này rùm beng vụ ca sĩ Mỹ Linh, họa sĩ Thành Chương... xây biệt thự, biệt phủ trên đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng Sóc Sơn cả chục ngàn hecta. Hỏi ra thì huyện đã cấp giấy phép, xã đã phạt chục triệu đồng rồi... thôi.
Chứ làm sao bây giờ. Thiên hạ đưa nhiều ý kiến khác nhau. Người bảo phải phạt thật nặng như... phá bỏ theo luật định để làm gương. Kẻ bảo phí quá, các công trình trị giá bạc tỷ người ta lỡ xây rồi. Tội nghiệp!
Nói vậy chứ khó thật. Vì hai vụ “điển hình” này thuộc về hai người tên tuổi, một người là diva nhạc nhẹ, một người là họa sĩ. Mà biệt phủ của họa sĩ đã từng đón vua và hoàng hậu ngoại quốc, tiếp những vị đứng đầu nước ta... Vả lại, đâu phải chỉ có hai khu đất của hai nhân vật này mà chung quanh đó hàng trăm ngôi biệt thự “khủng” hoành tráng và kiên cố. Đó là thú chơi sang mới của các đại gia.
Ngoài ra, còn nhiều biệt phủ của các quan “bí”, “giám”, “trưởng”, “chủ”... thì cơ quan nào dám đụng vào. Phải tìm cách lách luật bào chữa để các công trình này tồn tại và... phát triển chứ.
Cứ thế, Việt Nam chẳng còn “rừng vàng” nữa mà chỉ thấy vườn vàng, nhà vàng, mộ vàng!!!
Saigon cô nương
TB
|