Ba má tôi sống trong căn nhà thờ họ, nên mọi cúng giỗ trong năm má tôi đều phải lo toan. Tuổi thơ tôi nhớ, vào những ngày rằm hằng tháng, má tôi thường nấu nồi chè bà ba để cúng Phật và cúng ông bà.
Cái tên dung dị của món chè ấy cứ theo tôi măi, dù chẳng hiểu tại sao món chè đó được gọi như vậy. Hỏi người lớn, có người nói: “Hồi đó, ở miệt Sài G̣n, có một phụ nữ không rơ tên, chỉ biết bà là ‘thứ Ba’ trong nhà, bán loại chè đặc biệt này, người ăn v́ thế gọi luôn là chè bà ba, riết thành quen!”. Lại có người "tán": “Chè bà ba là loại chè đặc trưng của người Nam bộ qua h́nh ảnh người phụ nữ duyên dáng mặc chiếc áo bà ba (?!)”.
Riêng ba tôi th́ chẳng thèm băn khoăn cho mệt: “Chè bà ba là chè bà ba! Suy luận đôi khi làm mất đi tính chất phác và dân dă vốn có của món chè!" Thôi th́, cứ hiểu: “Đây là một loại chè thập cẩm gồm các loại rau, củ, quả… dùng để cúng và để ăn của người dân miền Tây Nam bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long”.
B́nh dị thế nhưng để có được chén chè thơm ngon, người nấu cũng phải tốn nhiều công sức. Ngày nay, có nhiều nới bán chè dựng bảng “chè bà ba”, nhưng thật ra là đó là “chè thưng” v́ họ đă “biến tấu” món chè này bằng cách thêm những nguyên liệu khô khác vào như: táo tàu, hạt sen, nhăn nhục, phổ tai… Chế biến chè bà ba truyền thống phải có những nguyên liệu tươi cơ bản như: dừa (dừa khô lẫn dừa nạo), khoai lang bí, khoai ḿ, khoai môn (khoai sáp), đậu xanh, lá dứa, bột năng, đường cát.
Nấu món chè này phải làm nhiều việc lắt nhắt, nên ngày đó má tôi thường phân công các anh chị tôi mỗi người giúp một tay. Đầu tiên, má ngâm đậu xanh (khoảng 200 gr) trước một đêm cho mềm, đăi vỏ, nấu chín. Má phân công anh Tư tôi ra vườn hái vài trái dừa khô và dừa nạo, một nắm lá dứa. Dừa khô anh nạo sẵn để ra thau, vắt lấy nước cốt (chừng 1 chén), nước dăo (khoảng1/3 nồi). Dừa tươi (dừa nạo) lấy nước đổ vào nồi. Cái dừa tươi, nạo thành sợi như con bánh canh để sẵn ra tô. Lá dứa đâm nhuyễn lấy nước để ra chén.
Chị Hai tôi th́ lột khoai ḿ (khoảng 400 gr) rửa sạch, mài nhuyễn, nhồi với ít nước lạnh, bỏ vào vải the, vắt ráo. Sau đó, cho một ít nước lá dứa vào, ṿ thành từng viên nhỏ cỡ đầu ngón tay, luộc chín, vớt ra thả vào nước lạnh cho các viên đừng dính với nhau. Chị Ba rửa khoai lang bí và khoai môn (khoảng 400 gr), gọt vỏ, xắt thành từng miếng vuông (như con cờ).
Má nhồi bột năng (khoảng 100 gr) với nước ấm thành một cục dẻo, cán mỏng, xắt thành sợi (như con bánh canh) luộc trần để sẵn ra tô. Tiếp đến, má cho nước dăo và nước dừa tươi (1/2 nồi), một ít muối vào nồi rồi thả tuần tự các nguyên liệu vào, nấu sôi liu riu (thứ nào chín lâu cho vào trước, tránh bị nhừ mất ngon) như: khoai môn, bột năng xắt sợi, cái dừa nạo, khoai lang bí, đậu xanh đăi vỏ (đă nấu chín), và cuối cùng là đường cát (khoảng 700 rg). Nêm nếm vừa khẩu vị, chờ nước sôi bùng là nhắc xuống, múc ra chén!
Chén chè bà ba luôn tỏa hương thơm ngát. Vị ngọt, bùi của khoai lang, khoai ḿ, khoai môn… lẫn vị dai, gịn của bột năng, dừa nạo… tạo thành một ăn thât khó quên trong kư ức của tôi.
SSM