|
 |
|
04-01-2019
|
#61
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Chuyến Đi Kinh Hoàng - Những Món Nợ Ân Tình Không Bao Giờ Trả Được
(Xin chân thành gửi đến anh Trần Đình Phước, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, sự biết ơn sâu xa đã khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt tình giúp tôi hoàn tất viết lại những dòng hồi ký đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ mầu nhiệm này.)
Kính dâng lên hương hồn những thuyền nhân đã bỏ mình trên biển cả vì lý tưởng tự do. Hình ảnh hiệu đính trên bài viết do một thuyền nhân là CVH, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, cựu Phóng Viên Đài VOA cung cấp sau chuyến đi thăm lại Đảo Pulau Bidong vào tháng 08, năm 2015. Nơi đây hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam đã tạm dừng chân, trước khi được đi định cư ở một nước thứ ba. (tdp)
Cuộc đời chúng ta có những điều trôi qua, rồi tan biến như cơn gió thoảng. Tuy nhiên, có những điều mãi mãi in đậm trong ký ức, dù có muốn quên cũng không thể nào quên được. Đối với tôi, một trong những điều không thể nào quên và cũng là món nợ không bao giờ trả được, dù bây giờ tôi có tiền rừng, bạc biển chăng nữa!
Câu chuyện xảy ra đã hơn ba mươi mốt năm. Hôm nay tôi xin ghi lại những phép lạ, mà tôi may mắn được chứng nghiệm trong chuyến đi bảy ngày đêm lênh đênh trên biển cả, với nhiều biến cố hãi hùng và kinh dị. Nếu như không có bàn tay nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật cứu vớt thì 137 người đã cùng chết trong lòng đại dương trên bước đường đi tìm "Tự Do".
Chuyến đi rất bất ngờ, do hai ân nhân là anh Nguyễn Vinh Tôn và anh ruột là Nguyễn Quốc Trụ, cựu Đại Úy thuộc binh chủng Nhảy Dù Quân Đội VNCH bảo trợ cho tôi mọi chi phí được trả từ Hoa Kỳ.
Có lẽ vì đột ngột, nên tôi đã khóc suốt đêm và không thể nào ngủ được. Tâm trạng khác hẳn với những lần đi trước. Chưa ra đi mà trong lòng đã tràn dâng niềm thương nhớ những người thân yêu trong gia đình.
Khoảng 3 giờ sáng, ngày 23-9-1984, tôi đến thắp nhang bàn thờ Phật. Nguyện cầu cho chuyến đi được bình an, may mắn, tai qua nạn khỏi, không bị tù đày, nhất là đừng gặp hải tặc. Có như thế tôi mới có thể giúp được gia đình thoát được cuộc sống bế tắc, khó khăn như hiện nay. Tôi cầu nguyện sức khoẻ, bình an, may mắn đến cho bố tôi đã già yếu, bệnh tật, cùng các anh chị em và một người tôi gọi là Cô đang sống đơn chiếc (đúng ra là Dì vì là em ruột của mẹ tôi). Cô đã đùm bọc, giúp đỡ gia đình chúng tôi rất nhiều kể từ khi Mẹ tôi bất ngờ ra đi vì quá đau khổ và lo sợ cho ngày mai đen tối của một gia đình mà hầu hết là quân nhân, công chức của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, sau biến cố 30-4-1975.
Và trong chuyến đi này, tôi cũng có thêm một lời nguyện cầu:Tôi sẽ tái ngộ một “Thiên Thần” đang chờ đợi tôi với một tấm lòng trong sáng và cao quý.
Lúc 3giờ 45 sáng.Tôi đánh thức cô tôi dậy. Cô cũng vừa mới chợp mắt được một chút. Tôi cố giữ thật bình tĩnh chào từ giã cô để cho cô được yên tâm. Trong gia đình và bà con thân thuộc chỉ có cô lúc nào cũng bên cạnh tôi và là người duy nhất biết tôi sắp đi xa, mà chuyến đi này lành thì ít, nhưng dữ thì quá nhiều không thể nào lường được. Ngoài ra, cần phải giữ bí mật vì sơ xuất sẽ gặp những điều nguy hiểm có thể xảy ra.
Đúng 4:00 giờ sáng, nhìn qua khe cửa sổ, tôi thấy đèn từ một chiếc Honda gắn máy chớp đi, chớp lại bốn lần trước cửa nhà. Đây là tín hiệu mà tôi đã được cho biết trước: Có người trong nhóm tổ chức sẽ đến đón tôi.
Tôi lặng lẽ, nhẹ nhàng mở cửa. Tay ôm một túi xách nhỏ gồm: một ít lương khô, một bộ quần áo cũ, vài tấm ảnh gia đình, một quyển kinh loại bỏ túi “Bạch Y Thần Chú” do bác tôi cho. Bác căn dặn phải thường xuyên khấn niệm để cầu xin bình an; và một sợi dây chuyền có hình con chim Đại Bàng đang xoè cánh do một người bạn tặng tôi từ lâu. Tôi luôn mang theo trong người vì biết người ấy luôn luôn cầu nguyện cho tôi được may mắn. Đối với tôi, đó cũng là một biểu tượng "thần thoại. " Tôi sẽ được chim Đại Bàng mang tôi đến vùng trời mơ ước.Tôi cũng bỏ theo một bình nước nhỏ, tuy rằng, người của tổ chức dặn đừng mang theo gì hết vì họ đã chuẩn bị tất cả đâu vào đó rồi.
Ngồi sau lưng người lái Honda mà tôi hoàn toàn không hề quen biết, tôi hơi lo sợ. Ngoái cổ nhìn lại con hẻm nhỏ thân yêu của một xóm nghèo gần ngã ba Cao Thắng và Trần Quốc Toản, Sài gòn. Giờ này hầu như mọi người đang yên giấc. Tôi chào vĩnh biệt trong nước mắt căn nhà mà gia đình tôi nương náu gần mười năm qua. Nơi đây bố tôi đã đưa cả gia đình về sống, sau khi trả lại căn nhà do chính phủ VNCH cấp cho công chức chỉ trước biến cố 30/04/1975 vài tháng. Nếu còn tiếp tục ở lại căn nhà đó thì không biết gia đình tôi sẽ gặp khó khăn biết chừng nào, khi người ta đến tiếp thu và yêu cầu gia đình tôi phải ra khỏi trong vòng hai mươi bốn giờ.
Tài xế Honda chở tôi ra bến xe miền Tây. Tại đây có một ngưòi đàn ông đội nón đen đã đứng chờ sẵn, ông ta trao vé xe đò đã mua từ trước để tôi lên xe đi Mỹ Tho. Khi đến Mỹ Tho, tôi được một người đàn ông khác hướng dẫn chuyển xe đi tiếp Bến Tre. Đến nơi, khoảng giữa trưa, tôi cùng mấy nguời đã tới trước cùng ngồi ăn với nhau. Tôi nghĩ họ là những người sẽ cùng đi chung chuyến vượt biên với tôi.
Sau khi ăn trưa xong, tất cả được mời lên xe Lambretta ba bánh để chở ra bến đò gần đó. Tại đây, người ta chia chúng tôi ra từng nhóm xuống những chiếc ghe nhỏ chở đầy trái cây để ngụy trang mà dân vượt biên còn gọi là “Ghe Taxi, hay “Cá Nhỏ”, để tránh những trạm kiểm soát dọc bờ sông, hoặc đột xuất có thể chận lại khám xét bất thình lình.
Ghe đi được một lúc thì nhóm tổ chức phát cho mỗi người một miếng giấy nhỏ, với mật mã do nhóm tổ chức ghi trên đó. Cho đến chiều thì ghe tấp vào một bụi rậm ven sông để chờ đợi. Khi bóng đêm vừa bao trùm xuống, ghe lại tiếp tục đi thêm một khoảng khá xa. Tại đây đã có một ghe lớn neo sẵn, còn gọi là “Cá Lớn.” Đây là ghe sẽ đưa chúng tôi ra đi trên biển cả.
Lúc này đã có nhiều ghe nhỏ đang vây quanh và mọi người cùng một lúc đang tìm mọi cách để leo lên Cá Lớn, nên vô cùng hỗn loạn. Phụ nữ, trẻ em đứng trên vai những người đàn ông hay thân nhân để vịn vào thành ghe, sau đó nhảy lọt được vào cá lớn. Trước cảnh đó, tôi chỉ muốn bỏ cuộc, vì nghĩ rằng tôi không thể nào đủ sức để có thể tự nhảy lên bám được vào thành ghe, rồi sau đó leo vào bên trong. Thời học sinh, tôi luôn luôn đứng cuối lớp về môn Thể Dục, đặc biệt là hai môn leo dây và nhảy cao thì yếu nhất. Bây giờ, nếu đứng trên mặt đất bằng phẳng, tôi cũng không thể nào làm nỗi, huống chi là phải bám vào thành ghe đang tròng trành trên sông nước. Tôi lại nhỏ con, thể lực rất yếu đuối; nếu chẳng may không vào được con cá lớn mà bị rớt xuống sông trong cảnh hỗn loạn và bóng đêm dày đặc này, chắc chắn một trăm phần trăm là chết đuối, vì tôi không biết bơi và cũng chẳng có ai can đảm cứu tôi trong lúc này. Nhưng nếu bỏ cuộc, có nghĩa là sẽ ở tù, vì tôi không thể tìm cách trở về nhà được trong lúc này nữa.
Tôi chỉ còn biết cầu xin Trời, Phật, Ông Bà khuất mặt hãy cứu vớt: “Con không thể đi tù thêm lần nữa! Con không thể nào chết. Con phải đi thoát được thì con mới có cơ hội giúp gia đình. Tất cả đang trông vào con. Gia đình con không có điều kiện tiền bạc để cho con vượt biên. Nay có quý nhơn giúp đỡ, con chỉ cần quyết tâm, chấp nhận gian nguy là đạt được. Trời Phật có thương con, phù hộ cho con thì con sẽ vượt qua.”
Tôi đã có kinh nghiệm trong lần vượt biên ở Cần Giờ bị bắt vào năm 1981 và ở tù trong Chí Hoà, sau đó bị đưa đi lao động ở Sông Bé. Chỉ trong vài phút thôi, Cá Lớn sẽ nhổ neo. Không bao giờ tổ chức vượt biên đợi người lên đầy đủ mới ra đi.
Tôi không thể do dự hay chần chờ gì nữa! Phải quyết định tức khắc. Tôi vừa khóc, vừa niệm Phật, vừa cố lấy hết sức nhắm vào thành Cá Lớn, tung hết sức bình sinh nhảy thật cao, thật chắc. Ôi! thật là may mắn! Tôi bám được vào thành ghe. Ôi! Tôi đã lọt thỏm vào Cá Lớn. Phải chăng có một sức mạnh vô hình nào đã nhấc bổng tôi lên, để tôi được vào khoang ghe, vì bình thường tôi không bao giờ có thể làm nỗi điều này. Chưa kịp đứng lên thì đã bị một số người nhảy tiếp sau đạp và đè lên khắp người. Tôi lại tiếp tục niệm Phật giúp tôi có đủ sức đứng dậy; nếu không tôi sẽ bị chết bẹp ở đây. May sao!tôi đứng dậy được và nép sát người vào thành ghe.
Chưa kịp hoàn hồn, nghe tiếng hét to: “Không ai được lên nữa! Ghe đã quá trọng tải. Nếu còn tiếp tục nhảy lên, ghe sẽ bị lật và chìm, tất cả mọi người sẽ chết tại giòng sông này.” Ngay sau đó, người của tổ chức bật đèn pin sáng lên để bắt đầu kiểm tra mật mã. Một số người trình mất mã, nhưng họ cho là không đúng và ra lệnh quăng những người này xuống những chiếc “Ta Xi” vẫn còn đang bao quanh con"Cá Lớn"chờ đợi.
Khi đến chỗ tôi đứng, tôi rất tự tin trao mảnh giấy ra cho họ xem. Vừa đọc xong, họ nói "Đây là mật mã của Ba Châu (tên người liên lạc dẫn tôi đi.) Chúng tôi không chấp nhận khách của Ba Châu. Vậy xin mời cô trở xuống ghe taxi đi về." Nghe đến đây, tôi tưởng chừng như tiếng sét đánh ngang tai, chân tay rụng rời. Làm sao lại xảy ra như vậy? Khách nào của Ba Châu cũng đều bị tai hoạ bất ngờ vì sự bất đồng và phản bội trong nội bộ tổ chức với nhau.
Nghĩ lại, nếu không nhờ phép lạ thì làm sao tôi lọt được vào cá lớn, rồi sau đó đứng dậy an toàn được. Vậy mà bây giờ bị đuổi xuống và chắc chắn sẽ lại bị ở tù.
Không thể được! Tôi bật khóc và năn nỉ "Tôi cũng là khách như những người khác, nhưng chẳng may là khách của Ba Châu. Gia đình tôi đã thoả thuận mọi điều kiện cho chuyến đi qua Ba Châu. Nay xin các bác, các anh cho tôi được tiếp tục đi. Gia đình tôi ở Mỹ sẽ đền ơn theo mọi điều kiện yêu cầu của quí vị." Khóc lóc, van nài, nhưng họ vẫn một mực dứt khoát từ chối. Hai người đàn ông được lệnh khiêng đầu và chân tôi quăng xuống ghe taxi. Tôi coi như chắc chắn vào tù. Trong lòng quá đau xót và coi như số tôi phải vào tù không thể nào tránh được.
Bỗng nhiên, ánh sáng đèn pin vụt tắt. Hai người đang khiêng tôi bèn bỏ tôi xuống sàn ghe. Cá Lớn được lệnh phải xả hết tốc lực phóng ra biển. Có lẽ thời gian mua bãi đã hết, nếu chậm trễ toán công an biên phòng khác đến đổi phiên trực có thể giữ ghe lại? Tôi bàng hoàng mừng rỡ; chỉ trong tích tắc tôi đã thoát được cảnh ngục tù. Phải chăng cũng là một phép lạ do Ơn Trên đã cứu tôi?
Chiếc ghe nhắm hướng ra biển lao như mũi tên bay trong bóng đêm dày đặc nghe rợn cả người. Chạy khoảng hơn bốn tiếng đồng hồ thì có những tiếng reo mừng:"Ghe đã ra được Hải Phận Quốc Tế. Chúng ta coi như sắp được tự do rồi.” Vừa nghe xong, tôi oà lên khóc nức nở, dù trong lòng cũng mừng. Vì từ giờ phút này tôi đã thật sự xa tất cả những người thân yêu. Không biết đến bao giờ mới có thể gặp lại, hoặc xa lìa vĩnh viễn; nếu như gặp nạn không tới được bến bờ.
Lúc này nhóm tổ chức bắt đầu quay lại hạch sách những hành khách của Ba Châu đang có mặt trên ghe. Họ doạ nạt từng người. Ai có cà rá, đồng hồ hay bất kỳ vật nào có giá trị thì đưa cho họ ngay. Khi họ hỏi tôi có gì đưa cho họ, tôi trả lời không có gì hết, ngoài một ít hành lý tôi đang có trên người. Thậ ra, tôi có giấu một chỉ vàng trong áo lót được cô tôi cho để phòng khi hữu sự. Tôi không thể nào nộp cho họ.Tôi năn nỉ với họ là khi nào được định cư, tôi hứa sẽ xin hoàn lại đầy đủ.
Trời lại dần dần sáng. Một ngày mới bắt đầu trên đại dương bao la. Tất cả đều vui mừng và hy vọng vài ngày nữa sẽ đến được bất cứ trại tị nạn nào và sau đó được đi định cư ở một nước thứ ba; lúc đó coi như đổi đời. Khi mặt trời lên cao, nắng chói chang, có lẽ là giữa trưa, nhóm chủ ghe bắt đầu cho phân phối nước uống. Tiêu chuẩn cho mỗi người là hai muỗng canh, phát vào buổi sáng và vào buổi chiều. Điều này khiến mọi người trên ghe hoang mang. Vậy là sao? Lúc đi đã hứa lương thực, nước uống cung cấp đầy đủ. Bây giờ lại xảy ra tình huống kỳ quái này! Có chuyện gì đây?
Lúc này, chủ ghe mới cho biết là anh tài công chánh mang theo các phương tiện đi biển đã bị kẹt lại, không hiểu vì lý do gì mà không lên Cá Lớn được? Nên chúng ta khó hy vọng sẽ đi đến được các trại tị nạn như đã dự tính, vì trên ghe không ai có kinh nghiệm đi biển. Tài công phụ chỉ có kinh nghiệm đi đường sông. Bây giờ chỉ còn trông mong vào số mệnh và ơn trên cứu giúp. Phải lênh đênh trên biển không biết bao nhiêu ngày. Cầu xin sóng yên, biển lặng và gặp tàu thuyền nào đi ngang qua xin được cứu vớt, như vài trường hợp các ghe đi trước may mắn đã gặp. Bây giờ, xin các bà con thông cảm về việc cần phải tiết kiệm nước tối đa để có thể cầm cự trong thời gian dài chưa biết đến khi nào.
Khi nghe chủ ghe giải thích xong, mọi người trên ghe cùng nhìn nhau lo lắng. Riêng tôi chết lặng cả người. Bao nhiêu tin tức về chuyện vượt biên lởn vởn trong đầu óc tôi. Có những chuyến, nếu may mắn không có gì xảy ra thì chỉ vài ba ngày là đến được trại tị nạn. Có những chuyến lênh đênh cả tháng trời bị các cơn đói khát, bệnh tật hành hạ. Đôi khi phải ăn thịt lẫn nhau để được sống còn; và cũng có những chuyến bị hải tặc tấn công cướp bóc, hảm hiếp và những phụ nữ bị bắt đem theo chúng. Biết bao là những bi kịch thảm khốc về chuyện vượt biên mà các cơ quan truyền thông đã đăng tải.
Tôi nghĩ số phận chíếc ghe của chúng tôi sẽ trôi giạt về đâu? Bến bờ vô định nào? Lương thực, nước uống, xăng nhớt sẽ cạn kiệt trong bao lâu nữa? Và cũng có thể làm mồi cho đại dương. Tôi có đạt được sự đổi đời như mơ ước, được sống và học hỏi ở các nước văn minh, dân chủ, tự do. Lúc đó tôi sẽ có điều kiện để giúp đỡ gia đình đang tin tưởng vào nơi tôi. Hoặc tôi tự trách mình đi tìm một cái chết ngu xuẩn, làm cho gia đình đau khổ hơn và mang tội bất hiếu với bố tôi. Trước mắt, tôi cứ niệm Phật, cầu nguyện cho được may mắn. Mà rõ ràng tôi đã thoát chết từ lúc nhảy vào được cá lớn, và chút xíu nữa đã bị chủ ghe ném xuống "taxi", nếu không có báo động bất ngờ xảy đến.
Bóng đêm lại buông xuống, tôi mệt đừ và khát rát cả cổ họng. Phải chờ đến ngày mai mới được phát nước uống. Tôi nghĩ mình có đem theo bình một lít nước. Nếu mỗi ngày uống hai muỗng thì tôi có thể cầm cự được trên nửa tháng. Thế là tôi lấy ra hớp một hớp. Chưa kịp cất lại thì vợ chồng trẻ và cô em gái ngồi kế bên thấy tôi cầm bình nước thì van xin cho họ uống bằng giọng nói lễ phép và lịch sự. Tôi nghĩ cho ba người uống thì nhiều quá, nó sẽ ảnh hưởng đến số nước dự trữ của tôi và cũng là bùa hộ mạng trong lúc này. Nhưng thấy họ nói quá, nên động lòng trắc ẩn.Tôi trao bình nước cho họ và nói "xin mỗi người chỉ được một hớp thôi nhé!" Tuy nhiên, khi cầm được bình nước trên tay, sau khi hớp xong, họ ngang ngược không chịu trả lại, mà còn giở giọng côn đồ ra thách đố tôi muốn làm gì thì làm! Vô tình tôi đã tự đánh mất bùa hộ mệnh vì lòng thương không đúng người.
Ngày thứ hai trôi giạt trên biển theo một hướng vô định. Cầu mong sẽ gặp đuợc tàu thuyền đi ngang qua giúp đỡ, hay phi cơ bay trên đầu để ra dấu kêu cứu. Nhưng chỉ có cả một không gian tĩnh mịch, im lặng của đại dương lạnh lùng và ghê sợ. Trên bầu trời không có bóng dáng một loài chim biển nào. Mọi người đoán là ghe đã đi lạc và cách rất xa đất liền. Tôi vừa đói, vừa khát, vừa nhức đầu, chóng mặt vì các mùi hôi thối của ói mửa, tiêu tiểu của trẻ con bắt đầu xông lên nồng nặc, vì chỉ có một chỗ đi vệ sinh nằm ở phía cuối ghe, trong khi người nằm, kẻ ngồi la liệt không còn chỗ để nhúc nhích.
Sự khủng hoảng bắt đầu khi cô bé khoảng mười lăm tuổi, ngồi đối diện tôi bị ngất xỉu vì khát. Mẹ của cô khẩn khoản, van xin “Ai có nuớc làm ơn cho con tôi xin một hớp; một hớp nước có thể cứu sống được con tôi”. Không một ai lên tiếng! Có lẽ mọi người nhớ lại lời nhóm chủ tàu căn dặn và đe doạ “Không ai được tự động đi lại, phải tuyệt đối giữ gìn trật tự tối đa. Không được đòi hỏi bất cứ gì! Nếu ai không chấp hành và cãi lời sẽ bị ném ngay xuống biển.” Nhìn mặt cô bé nhợt nhạt vì khát, chỉ cần một muỗng nước là có thể đem lại sự sống cho cô ta. Không thể đành lòng nhìn cô bé đang bất động, dù kiệt lực, tôi cũng cố gắng bò lên cầu thang để gặp nhóm chủ tàu xin nước cho cô bé. Họ nhìn tôi bằng cặp mắt giận dữ. Tôi bình tĩnh nói với họ là tôi không xin cho tôi mà xin các ông hãy nhỏ lòng thương cho cô bé kia đang cần vài muỗng nước. Nếu không, cô ta sẽ chết vì khát! Quả thật, khi được vài muỗng nước thì cô bé lần hồi tỉnh lại. Gia đình cô rất vui mừng và tôi cũng vui theo.
Ngày thứ ba, biển vẫn yên, sóng vẫn lặng. Đúng là Thái Bình Dương! Tuy nhiên, trong lòng mọi người đều bồn chồn, lo lắng. Sự đói khát đã bắt đầu hoành hành. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống, thì cô bé lại kiệt sức và bất tỉnh lần nữa. Gia đình cô bé không dám gặp chủ tàu xin nước vì sợ chủ tàu nóng giận thì sẽ bị phiền phức. Sự việc xảy ra trước mắt tôi, nên tôi cũng không thể làm ngơ. Và tôi cũng cố lết đi gặp chủ tàu xin cho cô bé vài muỗng nước. Sau khi được vài muỗng nước thì cô bắt đầu tỉnh lại dần như hôm qua.
Ánh nắng càng lúc càng gay gắt. Tôi tưởng chừng như sắp ngất xỉu đến nơi giống như cô bé vừa rồi. May sao, có một cơn mưa trút xuống. Ôi! Tôi quá mừng như vừa được hồi sinh. Những giọt nước mưa như nước cam lồ của Phật Quan Thế Âm làm mát dịu cổ họng đang rát bỏng của tôi. Nhóm chủ tàu chạy đi lấy mấy tấm bạt Nylon để hứng nước mưa, xong đổ vào những thùng nhựa. Kết quả không ai có thể thể nào uống được vì những thùng chứa nước mưa trước đó dùng đựng nhớt, xăng dầu, làm cho nước mưa có mùi giống như nước cống rảnh, đen ngòm cho vào miệng bị nôn ra ngoài ngay. Nhờ cơn mưa bất chợt coi như một phép màu đã tiếp sức cho tôi sống còn.
Sang đến ngày thứ tư lênh đênh trong vô định. Giấc mơ tìm tự do có dấu hiệu tốt đẹp hơn. Đã thấy những cánh chim biển bay trên bầu trời, thấy những vệt khói dài của vài chiếc phi cơ phản lực để lại. Bóng dáng những chiếc tàu nhấp nhô từ xa đang tiến lại gần hơn. Chủ ghe cho người đốt quần áo để phát tín hiệu xin tiếp cứu. Nhưng tất cả đều vô ích. Không một tàu nào đến gần để giúp đỡ. Có lẽ họ sợ lãnh trách nhiệm và gặp nhiều phiền toái?
Thế rồi, thất vọng này, tiếp nối theo thất vọng khác. Những cơn đói khát dày vò cơ thể. Tôi bị khát rang cả cổ, nên không thể nào nuốt được bất cứ gì. Thức ăn mang theo tôi đều cho hết. Trong lúc này tôi chỉ cần một hớp nước. Nhưng nếu tôi xin chủ tàu, chắc chắn ông ta sẽ cho người quăng tôi xuống biển như lời ông ta đã hăm doạ. Trong lúc đó gia đình chủ tàu có nước, có dừa, có cam quýt tha hồ sung sướng không sợ đói khát. Vài người trên ghe có sáng kiến mưu sinh thoát hiểm. Họ lượm các vỏ dừa ném bừa bãi dưới ghe, đem tướt những lớp xơ để ngậm lấy chất đắng, chát và có độ ẩm để giữ cho cổ họng đỡ phần nào cháy bỏng vì khát. Nhờ vậy mà chúng tôi vẫn tiếp tục cầm cự, chưa bị gục ngã.
Cô bé trước mặt tôi lại ngất xỉu lần thứ ba trong ba ngày liên tiếp. Tôi nhờ cơn mưa hôm qua được hồi sinh, nay nhờ ngậm thêm xơ vỏ dừa, nên cũng có thể bò lên cầu thang xin nước cho cô bé. Không may, ngày hôm nay nhóm chủ tàu cương quyết từ chối. Họ lấy cớ là muốn sự công bằng cho mọi người. Trong vòng 30 phút cô bé cứ lập đi, lập lại: “cho tôi nước, cho tôi xin nước, nước, nước."Tôi thấy tội nghiệp và đau lòng qua, cầu mong cho mưa xuống ngay bây giờ. Ôi! Tôi không tin vào mắt tôi. Cô bé nấc lên, đảo một vòng mắt và rồi nhắm nghiền lại và bất động. Ngưòi Mẹ hét lên “Cứu con tôi, con tôi chết rồi.” Tất cả mọi người đều sửng sốt. Nghe la, nhóm chủ tàu vội vàng chạy xuống đem theo nước đổ vào miệng cô bé. Nhưng vô ích! Cô bé đã bất động và không bao giờ cần xin nước nữa! Mẹ cô, anh em trong gia đình khóc nức nở. Mọi người, kể cả nhóm chủ tàu cũng đều xúc động. Có lẽ họ đang hối hận về sự sai lầm của họ, khi không cho cô nước như hai ngày vừa qua. Nhất là đã không giữ lời hứa lo cho khách lương thực đầy đủ trong mười ngày.
Mới có ngày thứ năm, đã có người chết vì không được cung cấp nước. Với tình trạng con thuyền trôi vô định không biết đi về đâu? Dù biển yên, sóng lặng cũng sẽ chết dần, chết mòn, chứ đừng nghĩ chi đến sóng to, gió lớn. Lần đầu tiên, tôi thấy bóng tử thần đang chập chờn. Mọi người vừa xúc động, vừa lo sợ sẽ có thêm nhiều người kiệt sức, trước khi đến được “bến bờ Tự Do”.
Nắng đã bắt đầu tắt, hoàng hôn đang dần xuống. Nhóm chủ tàu quyết định "thủy táng cô bé". Họ kêu gọi bất cứ ai tùy theo tôn giáo của mình cầu nguyện cho cô bé. Không có ai hết! Tôi không hề đi lễ chùa, không biết gì về nghi thức tụng niệm. Nhưng từ những năm sau 30/04/1975, tôi đã sống triền miên trong nước mắt, chỉ biết đêm ngày cầu nguyện Trời Phật cứu vớt cho gia đình đang tan nát vì cha và anh lâm nạn, trong khi Mẹ qua đời và các em còn quá nhỏ dại.
Những năm gần đây, có những quý nhân giúp tôi vượt biên. Trong người tôi luôn luôn mang theo quyển kinh “Bạch Y Thần Chú” để cầu nguyện. Biết rằng đây không phải là kinh cầu siêu. Nhưng tôi cảm thấy có thể làm người mất đi được ấm áp, nên tôi tình nguyện đứng ra thắp nhang tụng niệm. Mẹ của cô bé cho tôi biết tên em là Tuyết Nhiên (tôi không còn nhớ họ). Sau khi thắp nhang do chủ tàu mang theo đưa cho. Tôi lăm răm tụng niệm. Sau đó, hai người đàn ông đến gần xác cô bé, người đỡ đầu, kẻ khiêng chân đẩy xác cô bé xuống biển, trong tiếng khóc nghẹn ngào của người Mẹ và anh em trong gia đình. Tôi cũng không cầm được nước mắt, thương tiếc cho cô bé hồn nhiên ngồi trước mặt tôi năm ngày qua. Hôm nay em đã đi vào lòng đại dương chỉ vì nhóm tổ chức đã tàn nhẫn bội ước.
Tôi chợt rùng mình: "Nếu không có cơn mưa nhiệm mầu hôm qua, thì nguời đầu tiên bị Thủy Táng đã là tôi.” Vì có lẽ không ai dám gặp nhóm tổ chức để xin nước cho tôi được hồi sinh thêm vài ngày như Tuyết Nhiên.
Sự xúc động vẫn chưa nguôi, thì nghe tiếng xôn xao"Máy ghe bị hư rồi, tự nhiên máy ghe bị tắt, không biết làm cách nào đễ cho ghe di chuyển.Vậy, bà con nào biết gì về sửa chữa máy móc làm ơn giúp để cho ghe có thể đi tiếp." Một vài đàn ông, thanh niên đi tới chỗ đầu máy loay hoay sờ tới, sờ lui, nhưng chẳng mang lại kết quả gì! Chiếc ghe vẫn không thấy động đậy.
Sau đó một hiện tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy trong đời đã diễn ra trước mắt tôi và mọi người: Tự nhiên, một số người đứng dậy nhốn nháo làm chiếc ghe tròng trành, nghiêng qua, nghiêng lại. Nhóm tổ chức hét lớn lên:“Xin bà con hãy ngồi yên, nếu còn tiếp tục ghe sẽ lật úp và mọi người sẽ chết hết.”Tôi kinh ngạc nhìn thấy vài người lần lượt sắc mặt trở thành đờ đẫn, mắt ngây dại và miệng thì thào: “Nước, cho tôi xin nước.” Đúng là ánh mắt và câu nói liên tục của Tuyết Nhiên trước khi ra đi. Đang nghĩ như vậy thì một cô gái trẻ ngồi cạnh tôi mấy hôm nay, cũng từ từ đổi sắc mặt và lập lại đúng câu đó, giống như những người kia.
Tôi vốn dĩ rất nhát. Sau khi Mẹ tôi mất, tôi không dám đi ngang bàn thờ Mẹ một mình. Vậy mà lúc ấy, trước ánh mắt kỳ quái của cô ta, tôi không hốt hoảng chạy đi tìm chỗ khác như người ta. Tôi nghĩ ngay lập tức: "Đúng là hồn của Tuyết Nhiên nhập vào cô này rồi.” Tôi bình tĩnh, nghiêm trang nhìn thẳng vào ánh mắt đờ đẫn, kỳ quái của cô ta và nói: “Tuyết Nhiên, em có sống khôn, thác thiêng Xin em hãy tha thứ cho những ai đã sai lầm không cho nước để em được hồi sức. Em hãy phù hộ cho Mẹ, cho anh em của em và bà con trên ghe đuợc an toàn, không bị nguy hiểm đến tính mạng. Nguyện cầu Trời, Phật, Chư Thiên Thánh Thần và Thủy Thần cho hương linh em được siêu thoát về cõi vĩnh hằng.Tôi niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát ba lần.” Thật là quá ngạc nhiên! Chỉ trong vài phút sắc mặt cô ta trở lại bình thường và không nhớ mình vừa nói những lời cuối cùng của Tuyết Nhiên như vài người khác mà cô thấy trước đó.
Càng lại ngạc nhiên hơn là vài phút sau đó có nhiều tiếng reo mừng: "Ồ, máy ghe đã nổ lại được rồi, ghe từ từ chuyển động và đi tiếp.” (Hai hiện tượng này không thể giải thích theo khoa học được và coi như hoang tưởng. Nhưng tất cả là sự thật một trăm phần trăm, mà cho đến nay tôi vẫn còn thắc mắc về sự kiện này.)
Không khí ảm đạm và đau buồn, kèm theo sự lo lắng, sợ hãi lại tiếp tục phủ trùm những thuyền nhân trên chiếc ghe đang di chuyển trong vô định. Hôm nay đã bước vào ngày thứ năm giữa đại dương bao la. Tôi nhớ là ngày 28 tháng 09, năm1984.
Tất cả mọi người gia tăng sự lo lắng và hoang mang, nôn nóng cầu mong gặp đuợc bất cứ tàu thuyền nào đi ngang qua cứu. Sức chịu đựng càng ngày, càng mỏi mòn, kiệt quệ, tinh thần suy sụp! Làm sao có thể cầm cự được lâu dài? Tùy theo tôn giáo riêng của mình, mọi người cùng khấn nguyện đấng thiêng liêng, hiển linh phù trợ. Riêng tôi thì liên tục cầu nguyện Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát gia hộ. Thấp thoáng từ phía xa xa có vài bóng dáng những chiếc tàu đi ngang qua, nhưng sau đó biến dạng.
Thình lình, mọi người thấy một chiếc thuyền lớn xuất hiện và đang tiến dần về phía ghe của mình. Tất cả đều mừng rỡ và hy vọng gặp “Thần Hộ Mạng” đến cứu. Họ cho thuyền cặp sát ghe và quăng dây neo lên. Sau đó họ trèo qua ghe. Lúc đó tôi mới định thần và thấy năm người đàn ông đen như cột nhà cháy, râu ria rậm rạp, trên người chỉ mặc một quần xà lõn. Một người cầm súng dài. Tôi đoán có lẽ là tên cầm đầu? Bốn tên còn lại thì kẻ dao, người búa và mã tấu. Có tiếng xì xào “Chết mẹ rồi, gặp hải tặc là coi như xong đời.”
Tự nhiên, toàn thân thể tôi cảm thấy rụng rời. Ôi! Trời, Phật xin hãy cứu con! Con luôn ngày đêm nguyện cầu: “Đừng cho con gặp hải tặc. Nếu gia đình con đã đến lúc tận cùng, mạt vận. Con thà chết trong lòng đại dương, còn hơn rơi vào tay bọn hải tặc.” Lời nguyện cầu của con không được Trời, Phật chứng giám. Không lẽ con tới số rồi sao? Tim tôi đập vào lồng ngực thình thịch y như tiếng trống. Tôi tưởng chừng như trái tim văng ra khỏi lồng ngực và tôi sẽ chết ngay tại chỗ.
Bọn chúng trao đổi với nhau bằng tiếng Thái và ra dấu hiệu cho mọi người. Ai cũng đoán và hiểu là "Không được di chuyển hay động đậy. Nếu cãi lời sẽ bị quăng xuống biển ngay lập tức.” Thế là, chúng chia nhau đi lục soát từng người, tịch thu những gì quý giá mà chúng bắt gặp. Có cả trăm người bị chúng lục soát.Tôi và vài người khác không có gì đáng giá, còn đa số không ít thì nhiều đều bị chúng tước đoạt của cải. Tính ra chúng tịch thu cũng kha khá. Nhóm chủ tàu coi như bị thiệt hại nhiều nhất. Sau đó tên cầm súng mang các “chiến lợi phẩm” cướp được đem trở lại thuyền. Bốn tên hải tặc trên ghe dõi mắt nhìn theo hắn một cách chăm chú, hình như muốn xem tên đầu đảng cất giấu chiến lợi phẩm ở đâu?
Bình thường, tôi được ví yếu như con sên, chậm hơn rùa vì thể lực tôi rất yếu đuối. Tôi chỉ muốn càng xa bọn chúng càng tốt, dù chiếc ghe dài chỉ khoảng hơn mười thước. Lợi dụng cơ hội này, tôi vụt đứng dậy, lao thật nhanh về phía cuối ghe, rồi ngội thụp xuống giữa tiếng lao xao của vài người “Bà nội này tới số rồi, muốn chết sao? Con nhỏ này chắc muốn bị ném xuống biển!”Ngay tức khắc, anh tài công ném cho tôi một cục nhớt đen thui và nói "Trắng quá, bôi ngay vào mặt đi." Tôi vội vã bôi ngay vào mặt mũi và khắp cả người. Vài cô ngồi bên cạnh nhao nhao kêu:"cho tôi xin cục nhớt với.” Anh tài công lại ném tiếp vài cục nữa về phía các cô gái. Thấy thế bọn cướp giơ cao hung khí la hét, chửi rủa và bắt phải im lặng. May sao, tên đầu đảng vẫn chưa quay lại ghe, nên bốn tên hải tặc tiếp tục đưa mắt nhìn về phía thuyền của chúng. Lúc này, nhìn lại thì tôi đang ngồi đối diện với Mẹ Tuyết Nhiên, mà trước đó khi hồn Tuyết Nhiên nhập vào vài người thì họ đã sợ chạy đi tìm chỗ khác, do đó nhiều người không còn ngồi vị trí cũ nữa.
Lập tức, bà giao cho tôi đứa con gái út khoảng 2,3 tuổi và nói thật nhanh, giống như ra lệnh:"Cô hãy ôm cháu vào lòng ngay đi."Mấy cô ngồi bên cạnh tôi định giật đứa bé từ trên tay tôi. Mẹ Tuyết Nhiên nói:"Yên ngay! Cô này là Dì ruột của cháu bé này.” Lúc này, bọn cướp qua tức giận, chúng dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe và xồng xộc tiến về phía cuối ghe đang ồn ào. Tên cầm dao găm, gương mặt đầy thẹo, đen đúa, râu ria lổm chổm dùng cánh tay mặt xốc tôi đứng lên, khiến đứa bé đang được tôi bồng khóc thét lên và đưa hai tay bấu chặt vào người tôi. Tên cướp có vẻ hơi nao núng. Hắn đưa mắt thật nhanh nhìn đứa bé, rồi quay nhìn tôi. Thấy một phụ nữ có con quá dơ dáy, bẩn thỉu, trông thật gớm ghiếc, nên buông tôi ra. Sau đó bọn chúng đi lùng sục khắp ghe. Cuối cùng, bắt được năm cô gái trẻ, sạch sẽ, xinh đẹp. Chúng lôi xềnh xệch về phía thuyền của chúng, mặc kệ các cô vùng vẫy, kêu khóc thảm thiết, cùng với tiếng van xin, gào thét của thân nhân kẻ bị nạn. Trong số các cô bị chúng bắt mang theo có con gái chủ ghe mới 15 tuổi.
Người trên ghe bèn đặt cho tôi một biệt danh là “Người đàn bà bị hải tặc chê.” Trườc khi rút lui, bọn chúng ra lệnh mọi người phải im và dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe làm thủng vài chỗ. Sau này, tôi được biết là nhóm tổ chức có mang theo vài cây súng để phòng thân, nhưng không dám chống cự, vì sợ nếu chống cự bọn hải tặc sẽ lên cơn điên và giết hết mọi người trên ghe. Do đó nhóm chủ ghe phải bó tay chịu trận, và đành đau lòng hy sinh ngay cả con gái của mình cho bọn hải tặc bắt mang đi.
Chiếc thuyền của bọn cướp biển đang xa dần. Mọi người trên ghe vẫn còn sững sờ vì vừa trải qua một biến cố quá kinh hoàng. Những tiếng khóc của thân nhân các cô gái bị bắt đi thật sầu thảm. Tôi không biết mình đang tỉnh hay đang mê? Tôi đã thoát khỏi bàn tay hải tặc dễ dàng vậy sao? Làm sao tôi lại có can đảm đứng dậy chạy về phía cuối ghe, trong khi bọn cướp ra lệnh ở đâu phải ngồi đó, không được nhúc nhích. Trời, Phật, hay hồn thiêng của bé Tuyết Nhiên đã nhấc tôi đứng dậy, đẩy tôi chạy về cuối ghe, để may mắn gặp lại Mẹ Tuyết Nhiên và được bà trao em của Tuyết Nhiên cho tôi bồng, cũng như tại sao anh tài công đã ném cho tôi cục nhớt và nói tôi bôi ngay vào người nhanh lên? Nhờ đó, tôi đã thoát khỏi bàn tay hung ác của hải tặc trong đường tơ, kẻ tóc. Vậy là thêm một phép lạ đã cứu sống tôi. Mới có mấy ngày mà tôi đã suýt chết mấy lần. Liệu tôi còn sức và còn may mắn thêm lần nào nữa để được bến bờ tự do hay không?
Mọi người bắt đầu lao xao: "Tát nước ngay, tát nước ngay! Nước tràn vào ghe rồi!" Đàn ông, thanh niên cố gắng dùng các vật dụng do chủ ghe đưa, cố ra sức tát nước đang làm ghe bị khẳm vì những lỗ thủng trên sàn ghe do bọn cướp gây ra. Ôi! Vừa không biết phương hướng, vừa chống chọi với đói khát, vừa lo hết nhiên liệu, vừa lo nguy cơ chiếc ghe sẽ bị chìm vì nước biển đang tràn vào. Bây giờ, mọi người thật sự thấy tử thần càng lúc, càng trở nên gần hơn. Sự khủng hoảng càng gia tăng, nhưng vẫn cố hy vọng "còn nước, còn tát." Chiếc ghe cứ lê lết đi tiếp. Tôi vẫn tiếp tục niệm Phật cầu nguyện và thiếp đi trong sự hãi hùng chưa nguôi. Tôi lập đi, lập lại trong đầu:" Con không thể chết được. Con là niềm hy vọng của gia đình. Con phải sống để cứu vớt gia đình đang trông mong vào con."
Chiếc ghe tiếp tục di chuyển từ từ trong tuyệt vọng. Ánh nắng chiều dịu tắt dần, từ xa bỗng rực rỡ ánh đèn sáng ngời như từ cái tháp khổng lồ trên mặt nước. Vài người mừng rỡ, la lên: "Có giàn khoan dầu ở phía trước. Hãy cố gắng hướng về phía đó. Hy vọng sẽ được vớt." Tôi chợt bừng tỉnh, nhìn những ánh đèn màu rực rỡ ở trên cao, ngày càng gần hơn, tôi tưởng như mình đang mơ khi được thấy cung điện của Thủy Thần trong một truyện thần thoại. Nghe tiếng reo mừng của mọi người trên ghe, tôi biết đây là sự thật! Không phải là ảo tưởng hay trong mơ. Tôi tưởng chừng ngất lịm trong nỗi vui mừng tột độ, và muốn hét to lên: "Vậy là coi như thoát chết, sẽ được giàn khoan cứu vớt, sẽ được đến bến bờ tự do như đã cầu khẩn.Vậy là đã được Trời, Phật chứng giám, độ trì.”
Mọi nguời như được uống thuốc hồi sinh. Đàn ông, thanh niên ra cố gắng ra sức tát nước nhiều hơn, chiếc ghe dường như cũng đi nhanh hơn. Một lúc sau chiếc ghe đã đến được gần chiếc tàu khổng lồ treo cờ Anh Quốc với hàng chữ to PANAMA. Dù vô cùng vui mừng, nhưng tôi lại rơi vào tình trạng hôn mê vì đã kiệt sức từ lúc quá hãi hùng khi vừa thoát bọn hải tặc sáng nay. Một lát sau, tôi mơ hồ thấy có người cho nước uống, nên tỉnh dậy, thì ra đó là vài ba thủy thủ của tàu Panama đang cho chúng tôi nước và một số thức ăn. Tôi nghe thoáng thoáng tiếng người nói “Có một cựu Trung Úy Quân Đội VNCH đã lên gặp Thuyền Trưởng xin được cứu vớt, nhưng ông ta từ chối. Và một cưụ Trung Tá hiện đang tiếp xúc với Thuyền Trưởng cũng để tiếp tục cầu xin cứu vớt." Nhưng vài phút sau, ông Trung Tá trở lại ghe với nỗi buồn tuyệt vọng cho biết: “Thuyền Trưởng không thể nào cứu được, vì họ đang làm nhiệm vụ khai thác dầu hoả. Ông tặng ghe chúng ta một hải bàn và hướng dẫn đi về hướng trại tị nạn. Ông nói, trên đường đi sẽ gặp tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc và họ sẽ cứu chúng ta.” Ai ai cũng đều thất vọng, nhưng cũng mừng vì đã có hải bàn và hy vọng sẽ có tàu đến cứu. Hiện giờ đã được cung cấp nước uống, thức ăn, một số quần áo; không như trước đây trong hoàn cảnh đói khát, vô phuơng hướng, vô tin tức và sống trong tuyệt vọng.
Tôi đang hồi tỉnh một chút thì lại choáng váng khi nghe tin không may này. Bất ngờ, có một thanh niên la to lên:" Trong chuyến đi này có một cô giáo dạy Anh Văn tên Duyên.Vậy cô Duyên có trên ghe không? Nếu có, sao cô không chịu lên gặp Thuyền Trưởng xin cứu giúp đi? "Tôi đoán thanh niên này là Khánh, em vợ của anh Nguyễn Quốc Trụ. Khánh chưa hề gặp tôi, nhưng đã được anh Trụ dặn:" Hãy nhớ tìm cô Duyên, cô giáo dạy tiếng Anh đi trong chuyến này”. Mọi người lao xao la to theo: “Cô Duyên đâu? Cô Duyên đâu?” Tôi chưa kịp trả lời thì nghe tiếng xì xào: "Chắc cô ta bị quăng xuống “ghe taxi” hay bị hải tặc bắt đi theo rồi chăng? ”Tôi không còn đủ hơi sức để lên tiếng, chỉ đưa tay vẫy vẫy. Có người nói:" Ồ! cái bà tưởng đã chết hồi sáng nay.”
Hai thanh niên còn khoẻ mạnh vội tiến về phía tôi, một người khiêng đầu, một người khiêng chân để đưa tôi lên thang dây, sau đó họ đặt tôi nằm trên sàn tàu. Chỉ vài phút sau, có một Bác Sĩ và vài thủy thủ vây chung quanh tôi. Họ cho tôi thở Oxy, tiếp theo cho uống một loại nước hay thuốc gì đó. Vị Bác Sĩ tiếp tục đo huyết áp, nghe tim, phổi và theo dõi. Ông nói tôi cứ thở tự nhiên. Được hít thở gió biển trong lành khoảng 15 phút, tôi thật sư tưởng mình đã được uống thuốc tiên “cải tử hoàn sinh” trong các truyện cổ tích. Tôi có thể trả lời các câu hỏi của Bác Sĩ bằng giọng nói rõ ràng, và xin được đứng dậy để được nói chuyện với Thuyền Trưởng cũng đang đứng tại đó.
Lần đầu tiên được đứng trên sàn tàu vững chắc, kiên cố, rộng mênh mông, mà trước đó chỉ được ngồi chen chúc như cá hộp trên chiếc ghe mong manh; rồi đói khát, lo sợ hãi hùng với bao biến cố cận kề cái chết. Nhìn những ánh đèn màu rực rỡ từ trên cao của giàn khoang giữa những màu sắc lung linh của mặt trời như một viên hồng ngọc trên mặt nước biển vào lúc hoàng hôn, khiến tôi tưởng mình đang ở Thiên Đàng. Nếu may mắn được Thuyền Trưởng cứu, cho lên chiếc tàu Panama, thì đúng như từ âm phủ được lên cõi Tiên.
Sau khi nghe tôi trình bày "Chúng tôi là những người ra đi từ miền Nam Việt Nam, đã bất chấp mạng sống, bất chấp hiểm nguy để đi tìm tự do bằng chiếc ghe bé bỏng, mong manh và hiện đang bị vô nước vì hải tặc đâm thủng. " Vị Thuyền Trưởng lắc đầu, rồi buồn bã nói: “Tôi rất tiếc không thể cứu quý vị được.Trước đó đã có hai người đàn ông nói chuyện tôi về yên cầu này. Tôi đã giải thích lý do tôi không thể cứu được.
Thứ nhất: Chúng tôi đang khai thác dầu hỏa tại nước Malaysia này, chúng tôi không có đầy đủ phương tiện cứu nạn.
Thứ hai: Số người trên ghe quý vị phải hơn 100 người, chúng tôi lại càng gặp rất nhiều khó khăn để giúp đỡ. Tuy nhiên, xin quý vị đừng nên lo lắng. Hãy an tâm. Tôi đã cung cấp hải bàn để định phương hướng trên biển. Tôi đã hướng dẫn kỹ lưỡng đi về phía có trại tị nạn gần nhất, và tôi sẽ liên lạc với các tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đang di chuyển gần đây đến để cứu quý vị. Các thủy thủ chúng tôi đã làm mọi cách để giúp quý vị rồi. Tôi nghĩ quý vị sẽ lên đường bình an.”
Đến đây, tôi lại thấy đầu óc quay cuồng. Từ lúc đầu tiên lọt vào được chiếc ghe Cá Lớn cho đến nay đã 5 ngày lênh đênh giữa đại dương trong tuyệt vọng. Nếu không có những phép lạ xảy ra, làm sao tôi còn sống sót đến giờ phút này. Ôi!Tại sao có thể như thế này? Phải cố gắng nài nỉ, van xin Thuyền Trưởng. Tôi cố gắng trình bày với Thuyền Trưởng những biến cố hãi hùng, những nguy hiểm mà chúng tôi đã trải qua mấy ngày hôm nay như: không có người biết lái, nên chiếc ghe trôi vô dịnh, một cô bé đã chết khát và phải bị ném xuống biển, 5 thiếu nữ đã bị hải tặc bắt đem theo sáng nay. Trước khi rút lui bọn hải tặc đã làm thủng ghe, hiện phải tát nước để có thể cầm cự, sống còn. May mắn đã gặp giàn khoang của các ông. Bây giờ chờ được tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, có lẽ tất cả chúng tôi sẽ làm mồi cho biển cả không bao lâu nữa.
Thuyền Trưởng lộ vẻ xúc động, nhưng lại trấn an tôi: “Bây giờ đã có phương hướng, và sẽ có tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, quý vị đã có đủ lương thực và nước uống trong vài ngày nữa, xin cứ an tâm”. Chỉ nghĩ khi tôi trở về chiếc ghe mong manh, chật ních, ngột ngạt vì bao nhiêu mùi hôi hám cũng đủ chết. Trên ghe ai có đủ khả năng biết xử dụng hải bàn để lái cho đúng hướng? "Sai một ly sẽ đi một dặm” giữa đại dương thì cũng sẽ lạc hướng, tiếp tục trong vô định. Thêm vào đó tình trạng chiếc ghe bị đục thủng thì làm sao cầm cự cho đến khi gặp được tàu của Cao Ủy LHQ?
Đứng trên sàn tàu kiên cố này, tôi thấy rõ rằng. Đây là đất sống. Chiếc ghe mong manh kia là miền đất chết. Tất cả sẽ đi vào cõi chết nếu như không được lên tàu Panama này. Giờ phút này gặp giàn khoang mà không được cứu, thì đúng là số tôi phải chết dưới lòng biển rồi. Tôi lặng người khẩn cầu Trời, Phật: “Gia đình con thật sự đã đến lúc tận cùng mạt vận, nên con đã thoát khỏi tay hải tặc, nhưng phải chịu chết dưới lòng đại dương như đã khấn nguyện chăng? Tại sao Trời, Phật đã ra tay cứu con thoát khỏi bao nguy hiểm từ lúc ban đầu, mà nay phải bắt con chết tức tửi, giữa lúc tưởng rằng thật sự thoát mọi hiểm nguy? Tại sao? Tại sao? Nguời cha già, cả một đời là công chức hiền lương cuối cùng phải lâm nạn; các em thơ dại đã chịu đựng quá nhiều đau khổ trong bao nhiêu năm, nay sẽ càng đau thương hơn?”
Con phải sống. Con chỉ có ước nguyện giúp cha già, các em dại ra khỏi đường hầm, đen tối của đau khổ, và con cầu xin được gặp lại một “thiên thần” đang tha thiết chờ đợi con. Nhưng giờ phút này, tôi thấy thật sự hoàn toàn tuyệt vọng rồi, nên nước mắt đầm đìa, ngước nhìn Thuyền Trưởng khẩn khoản trong nghẹn ngào. "Nếu ông cương quyết từ chối, tôi xin thay mặt hơn 100 người xin kính chào Vĩnh Biệt. Vì tôi tin chắc rằng giờ phút tôi rời khỏi nơi đây, trở về chiếc ghe bất hạnh, tất cả chúng tôi sẽ chết dưới lòng biển. Chiếc ghe đã bị đục thủng và đang bị vô nước trầm trọng thì làm sao chúng tôi có thể có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ cứu như lời Thuyền Trưởng nói. Xin Vĩnh Biệt Thuyền Trưởng!”
Sau lời chào vĩnh biệt đầy nước mắt trong nỗi tuyệt vọng của tôi, Thuyền Trưởng xúc động thật sự. Ông hỏi tôi:“Có tất cả bao nhiêu trẻ con và phụ nữ trên ghe?” Tôi trả lời “Tôi không biết”, nhưng có lẽ ít hơn đàn ông và thanh niên. Ông nói tiếp: “Trong điều kiện của chúng tôi hiện tại, chúng tôi chỉ cố gắng cứu trẻ em, phụ nữ. Đây là những người dễ dàng bị chết trong cơn nguy hiểm. Riêng các đàn ông, thanh niên xin tiếp tục lên đường, sẽ được tàu của Cao Ủy LHQ hay các tàu khác đi ngang qua gặp sẽ cứu.
Ôi! Thuyền Trưởng đã đổi ý! Đã bằng lòng cứu trẻ con và phụ nữ. Vậy là tôi thật sự thoát chết, và chắc chắn sẽ được đến bến bờ “Tự Do” như hằng ước nguyện. Ôi! Vô vàn cảm tạ Thuyền Trưởng! Ôi! Phải chăng Thượng Đế, Trời, Phật, những người khuất mặt đã làm Thuyền Trưởng đổi ý? Tôi quay qua nói với hai thanh niên khiêng tôi lên đây, và vẫn đang đứng đó, nóng lòng chờ kết quả:“Thuyền Trưởng chỉ có thể cứu trẻ con, phụ nữ mà thôi!"Hai anh thét to lên: “Thuyền Trưởng đã đồng ý cứu trẻ con và phụ nữ.”
Sau đó, ông ra lệnh cho các Thủy Thủ xuống ghe, bồng bế các trẻ con, phụ giúp các phụ nữ bước lên thang dây của tàu Panama. Tổng cộng đếm được tất cả là 50 người. Mọi người khóc nức nở, đưa tay vẫy chào những người thân: chồng, cha, chú, bác, cậu, anh em…phải ở lại chiếc ghe không lành lặn, trải qua bao biến cố hiểm nguy, đau buồn, biết đến bao giờ có cơ hội đoàn tụ hay sẽ vĩnh viễn chia lìa? Mặc dù, tôi không có bất cứ người thân nào trên chiếc ghe này, nhưng trước cảnh chia ly não nề với những người đã chịu cùng chung số phận với mình từ ngày 23 tháng 09. Nay cá nhân tôi sẽ được bình yên, đến được bến bờ Tự Do mà ai cũng mơ ước; còn họ sẽ đi về đâu, khi tiếp tục lênh đênh trên biển cả, dù được cung cấp đầy dủ phương tiện đi biển? Nhưng chiếc ghe đang bị vô nước và không ai có kinh nghiệm đi biển thì làm sao đi đúng hướng và biết đến khi nào gặp được tàu của Cao Ủy LHQ hay bất cứ tàu nào khác tiếp cứu. Theo tôi tất cả là vô vọng. Tôi vẫn cảm thấy “Chiếc ghe ấy là cõi chết”, nên tôi rất đau lòng và suy nghĩ. Hay mình thử cố gắng năn nỉ Thuyền Trưởng cứu họ. Ông đã can đảm không xin lệnh cấp trên để tự quyết định cứu trẻ con, phụ nữ. Bây gìờ mình yêu sách thêm. Không biết ông sẽ phản ứng ra sao? Mình có quá đáng và không biết sự quảng đại của ông không? Nhìn thấy 50 người đứng chiếm một diện tích bé nhỏ khoảng vài phần trăm trên con tàu khổng lồ, kiên cố chẳng đáng là bao. Dù lo sợ, tôi tiếp tục cố gắng nói với ông: “Thưa Thuyền Trưởng, xin ông tha thứ cho tôi. Tôi rất đội ơn ông đã cứu mạng tôi và những người khác. Nay xin ông hãy cứu tất cả mọi người còn lại. Với chiếc ghe như vậy, tôi không tin họ sẽ có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ. Chúng tôi không cần thức ăn, quần áo, chúng tôi chỉ cần một nơi an toàn có hy vọng được sống. Chiếc tàu của ông là đất sống, chiếc ghe kia là cõi chết. Nếu ông nhận thêm những người kia mà tôi nghĩ chỉ chiếm thêm diện tích không đáng là bao của chiếc tàu khổng lồ này, và tất cả cùng chờ đợi gặp tàu của Cao Ủy LHQ đến giúp đưa đi tới trại tị nạn.“ Có lẽ Thuyền Trưởng đã xúc động giữa tiếng khóc nghẹn ngào, những tiếng chào biệt ly, dù bằng tiếng Việt, một ngôn ngữ mà ông hoàn toàn xa lạ và không hiểu:“ Ba ráng bảo trọng, tạm biệt anh; tạm biệt con, tạm biệt cậu, chú vvv…” nên ông lặng yên, trầm ngâm suy nghĩ với ánh mắt đầy xúc động. Sau một, hai phút, ông nhìn tôi nhè nhẹ gật đầu và ra dấu bằng lòng cứu tất cả mọi người còn lại trên ghe. Nhiều tiếng hét to:“ Thuyền Trưởng bằng lòng cứu tất cả mọi người.“ Ôi! Không còn gì may mắn và hạnh phúc hơn! Cảnh tượng đau lòng như một đám tang tập thể trước đó, lập tức trở thành hân hoan, vui sướng với mọi người. Thế là, từng người vội vã cuống quýt leo lên thang dây với sự giúp đỡ của các Thủy Thủ để bước lên sàn tàu. Những khuôn mặt rạng rỡ lẫn ngỡ ngàng, dù nét lo âu, khủng hoảng vẫn còn in trên nét mặt.
Khi không còn ai lên nữa, vài thủy thủ hỏi to bằng tiếng Anh: “Còn ai ở dưới ghe không?” Không có tiếng trả lời. Họ hỏi thêm vài lần nữa! và nói chúng tôi xem lại có người nào bị kiệt sức, ngất xỉu chưa lên được chăng? Tất cả gia đình cùng xem lại thân nhân của mình. Thật là một cử chỉ nhân từ và chu đáo! Sau đó các thủy thủ dùng búa chặt đứt sợi dây thừng to dùng để cột chiếc ghe vào tàu Panama trước đó, chiếc ghe tròng trành, lơ lửng trôi bềnh bồng, trên đó có chiếc túi xách mà lúc hai người khiêng tôi lên tàu Panama tôi làm rớt lại. Biểu tượng thần thoại, cánh chim Đại Bàng mà tôi thường mang theo trong những lần vượt biên từ nay sẽ trôi theo giòng nước, không bao giờ cùng tôi đi tiếp bất cứ nơi đâu!
Tất cả mọi người được yêu cầu đứng xếp hàng để đếm số người. Tất cả 137 người gồm: trẻ em, phụ nữ, thanh niên và đàn ông. Vừa mới đếm xong thì vài phút sau bỗng nhiên giông tố ầm ầm từ đâu kéo tới, kèm theo những đợt sóng khổng lồ đánh tràn vào cả sàn tàu. Các thủy thủ vội vã dùng những sợi dây thừng thật to, cột mọi người lại với nhau, và sau đó buộc chặt vào các cột tàu để không bị sóng đánh cuốn trôi đi. Một sự kinh hoàng diễn ra trước mắt mọi người đang bị ướt đẫm:
Chiếc ghe mà truớc đó chứa cả trăm người chỉ trong nháy mắt đã bị nhận chìm theo những đợt sóng khổng lồ, rồi mất hút ngay dưới cơn mưa tầm tã đổ xuống như thác, sấm chớp nổ vang khắp trời.
137 người trong đó có tôi đã chết đi và sống lại trong sự nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật??? Nếu không may mắn gặp vị Thuyền Trưởng đầy lòng bác ái và nhân từ này thì chúng tôi đã cùng theo chiếc ghe chìm sâu vào lòng đại dương lúc đó. Tôi đi từ bàng hoàng này sang đến bàng hoàng khác. Chỉ trong năm ngày lênh đênh trên biển, tôi đã chứng nghiệm được quá nhiều phép nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật đã cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần, và kể từ giờ phút này đã cùng 136 người được trở về từ cõi chết.
Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ cảm thấy vui mừng đã cứu đuợc 137 người một cách bất ngờ. Chỉ trong vòng vài phút đã có những tấm bạt khổng lồ được căng lên che chở cho đoàn người chúng tôi đang bị ướt sũng, và lạnh run cầm cập bởi những luồng gió mạnh như vũ bão quất thẳng vào người.
Sau đó mọi người được các Thủy Thủ đưa vào các phòng cho ấm. Rồi họ phân phát những cục xà bông thơm phức và một số quần áo, yêu cầu mọi người lần lượt, từng nhóm bốn, năm người, chia ra nam theo nam, nữ theo nữ đi tắm, vì không có đủ phòng tắm cho từng người tắm riêng. Lúc bấy giờ, tôi đã hoàn hồn, và không còn lạnh run nữa, không khỏi bật cười khi nhìn thấy vài cô mặt mũi, mình mẫy vẫn còn dính đầy nhớt, lem luốc trông thật gớm ghiếc (giống như tôi).
Sau khi được tắm rửa sạch sẽ, ấm áp, mọi người được mời vào phòng ăn. Bao nhiêu thức ăn được khui ra từ các hộp thịt, hộp súp đã được bày sẵn trên các bàn trong căn phòng sáng rực những ánh đèn Néon. Chỉ mới sau mấy ngày đói khát, luôn luôn bị khủng hoảng, lo sợ, và lúc nào cũng kề cận với Tử Thần, chúng tôi cảm thấy như được thưởng thức một bửa yến tiệc linh đình, thịnh soạn do chiếc Đèn Thần của Aladin biến hoá. Tôi nhờ vài thanh niên đi vòng quanh càc bàn nhắc nhở mọi người dùng súp truớc, cố gắng ăn từ từ và ít thôi để bao tử không bị ảnh hưởng, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng khi chuyển từ tình trạng quá đói sang quá no.
Mọi người lại được phân phát mền, dù không đủ cho mọi người, nhưng chúng tôi vui vẻ, chia theo nhóm đắp chung cho càng ấm, và nằm tạm trên sàn tàu dưới những tấm bạt che mưa vẫn đang còn rỉ rả. Riêng tôi thì may mắn được ngủ trong một phòng riêng nho nhỏ, có lẽ của một Thủy Thủ nhường chỗ cho dùng tạm trong thời gian chờ đợi này?
Cơn giông bão đã ngưng gầm thét để cho mọi người được ngủ yên trong niềm vui sướng và diễm phúc lớn lao nhất: Đã sống lại từ cõi chết và sẽ đến bến bờ Tự Do như ước nguyện. Chưa bao giờ tôi có một giấc ngủ thật say trong tâm trạng bình an, và tinh thần phơi phới như đêm hôm đó!
Chúng tôi chỉ van xin Thuyền Trưởng cho chúng tôi một chỗ ngồi trên sàn tàu Panama kiên cố, để được sống sót, và chờ đợi được tàu của Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc đến cứu.
Chúng tôi không dám mong được ăn uống, phân phát chăn mền, quần áo như thế này. Chắc là đoàn người chúng tôi đã tiêu thụ hết thực phẩm, quần áo dự trữ của tất cả Thủy Thủ đoàn? Có thể vì thế mà Thuyền Trưởng đã cương quyết từ chối lúc ban đầu. Ơn cứu mạng này của Thuyền Trưởng chắc chắn không bao giờ có thể đền trả được.
Mọi người sung sướng, yên tâm chờ đợi trên tàu Panama thêm một ngày và một đêm. Lần thứ hai được nằm trên chiếc giường bé nhỏ có chăn nệm trắng phau giữa tiếng sóng biển rì rào và thỉnh thoảng có tiếng ầm ầm của những cơn sóng từ xa vọng lại, không khí mát dịu, trong lành mà chưa bao giờ tôi có trong đời đã đưa tôi chìm vào giấc ngủ thật dễ dàng và êm ái.
Tiếng gõ cửa của một Thủy Thủ đánh thức tôi dậy giữa lúc tôi còn đắm chìm trong giấc ngủ êm đềm. Anh ta nói khi tôi vừa mở cửa "Tôi xin lỗi đã đánh thức cô. Cô đã có một giấc ngủ ngon không? Thuyền Trưởng muốn gặp cô".
Tôi vội theo anh ta bước lên cầu thang dẫn tới boong tàu trên cao. Dưới ánh bình minh giữa đại dương, mặt trời thật rạng rỡ trên mặt nước bao la xanh biếc, cảnh sắc còn đẹp hơn cả bức tranh thủy mạc. Vị Thuyền Trưởng cứu tinh của chúng tôi đang đứng chờ và đưa tay ra bắt trong lúc tôi chào ông ta. Sau đó, với khuôn mặt thật nghiêm trang quay về phía mặt Trời đang tiếp tục lên cao trên mặt nước, vị Thuyền Trưởng quỳ xuống, lâm râm vài lời và làm dấu lạy Thượng Đế theo kiểu Thiên Chúa Giáo, tôi cũng vội vã quỳ xuống theo.
Rồi Thuyền Trưởng đứng đậy, nói: "Cảm ơn Thượng Đế đã nhờ Cô cho tôi cơ hội cứu được 137 người. Đúng như lời cô, nếu tôi không thay đổi quyết định kịp thời, 137 người đã thật sự bị chôn vùi dưới lòng đại dương lúc đó. Và suốt hai ngày nay, tôi không liên lạc được với bất kỳ tàu nào của Cao Ủy, vì ảnh hưởng của cơn bão, điện thoại cũng hoàn toàn bị tê liệt. Hôm nay, không thể chờ thêm nữa, chúng tôi phải nhổ neo để đưa quý vị đến một trại tị nạn gần đây nhất. "Tôi rưng rưng nước mắt, chỉ biết tận đáy lòng, vô cùng cảm ơn cứu mạng của Thuyền Trưởng. Tôi xin ông cho tôi cơ hội được liên lạc với ông trong tương lai khi được định cư. Thuyền Trưởng về phòng, vài phút sau trở ra trao cho mảnh giấy có ghi tên, địa chỉ ở đất liền bằng chữ viết tay:
Captain Brian O' Connell
17 Arundel Close
Bexley
Kent
England
U.K
Các Thủy Thủ được lệnh nhổ neo tiếp tục lên đường, tàu từ từ xa giàn khoan đứng sừng sững như toà lâu đài giữa đại dương vào buổi sáng ngày 30 tháng 09, năm 1984. Buổi chiều cùng ngày thì đến Đảo Pulau Bidong, một trại tị nạn dành cho các thuyền nhân Việt Nam trên quốc gia Mã Lai Á.
Mọi người coi như đã đạt ước nguyện nhờ ơn cứu mang của vị Thuyền Trưởng có tấm lòng bác ái bao la, "Thuyền Trưởng O'Connell”. Lần lượt từng người chào từ biệt Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ với tất cả sự biết ơn không có lời nào có thể diễn tả được. Tất cả Thủy Thủ đoàn và Thuyền Trưởng hân hoan chúc chúng tôi may mắn, sớm được định cư ở một nước thứ ba.
Vì tàu được cặp vào đất liền, chúng tôi không phài dùng thang dây để leo xuống như lúc ở giữa biển. Mọi người ung dung bước ra khỏi tàu như bước ra khỏi phi cơ, có lối đi thẳng lên chiếc cầu giữa mặt nước, rồi cao lên dần cho đến khi giáp với đất liền. Sau này tôi được biết tên cây cầu là Jetty.
Thuyền trưởng O’Connell bắt tay từ biệt tôi lần cuối, sau khi giới thiệu tôi với các Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đang đứng chờ đón đoàn người tị nạn được tàu Panama bàn giao.
Một trang sách mới đã được lật qua trong dòng đời của 137 thuyền nhân sống sót nhờ một phép mầu vào ngày 28 tháng 09, năm 1984 vì đã may mắn gặp được vị Thuyền Trưởng giàu lòng nhân ái. Và bắt đầu đoạn đời tị nạn từ đây với mã số do Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn đăt tên theo thứ tự khi có đoàn người tới đảo: MB 224 Pulau Bidong.
Vẫy tay chào tàu Panama đang xa dần trên mặt nước mênh mông, tôi vẫn còn ngẩn ngơ như đang mê ngủ. Đứng trên nền cát trắng, dưới những hàng dừa xanh cao vút dọc theo bãi biển, tôi hướng về phía mặt trời rực rỡ đang dần dần đi xuống gần mặt nước xanh trong vắt, thành tâm khấn nguyện lời cảm tạ Thượng Đế,Trời, Phật, những hương linh đã cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần đầy nhiệm mầu qua bao biến cố kinh hoàng suốt mấy ngày qua.
Từ đây, bắt đầu một khúc rẽ cuộc đời như một hành khất đi chân đất, với hai bàn tay không; cái túi xách nhỏ có vài kỷ niệm và đôi dép đã bị rớt lại trên chiếc ghe trong lúc được khiêng lên tàu Panama. Tôi đã không dám xin đôi giầy hoặc dép trong thời gian chờ đợi, vì đã nói với Thuyền Trưởng: Chỉ xin một chỗ đứng trên “vùng đất sống”.
Hành trang tôi mang đến Pulau Bidong chỉ có một trái tim tràn ngập lòng biết ơn Thượng Đế, Trời, Phật và những ân nhân đã cứu giúp tôi trên từng bước đường đời, sự thương nhớ những người thân yêu còn lại đang vất vả nơi quê nhà, và đang ấp ủ những ước mơ cho ngày mai tươi sáng. Bên cạnh đó là một linh hồn nặng trĩu với những hình ảnh hãi hùng, tuyệt vọng trong cuộc hành trình đi tìm "Tự Do", với bao ký ức đau buồn của những năm tháng" đại bác đêm đêm vọng về thành phố" trên quê hương. Một linh hồn quằn quại vì sự tan nát của gia đình khi chiến tranh chấm dứt trong cảnh nước mất, nhà tan, đau thương, thống khổ chất chồng.
Thấm thoát đã hơn ba mươi mốt năm trôi qua. Tôi đã bước qua bao nhiêu ngã rẽ cuộc đời như chiếc thuyền trôi theo giòng nước. Có những lúc rẽ qua giòng suối nên thơ, có đôi khi rẽ vào giòng sông êm ả và cũng có lúc di vào lòng biển khơi đang trong cơn giông tố. Ở bất kỳ ngã rẽ nào, không có một khoảnh khắc nào trong đời, tôi có thể quên được những phép lạ đã cứu vớt tôi trong chuyến đi nhiệm màu ấy.
Những lời cuối cho dòng hồi ức về những phép lạ tôi đang kể lại, xin thay mặt 137 người cùng thoát chết dưới lòng đại dương trong cơn giông bão vào buổi chiều ngày 28 tháng 09, năm 1984, và bây giờ không biết đang tản mạn ở các phương trời nào, ai còn, ai mất, thành tâm gửi đến Thuyền Trưởng Brian O' Connell (cũng không biết ông đang phiêu du ở chân trời, góc bể nào), lòng biết ơn vô bờ bến và không bao giờ đền trả được ơn cứu mạng ngày ấy.
Ước nguyện tha thiết nhất của tôi trong những năm tháng cuối cuộc đời là được Ơn Trên ban phép lạ cho tôi tìm được tin tức vị Thuyền Trưởng có tấm lòng bác ái bao la đã cứu 137 người tưởng chừng như chắc chắn là chết được trở về đất sống.
Sự liên lạc của tôi với Thuyền Trưởng đã bị cắt đứt, sau bức thư gửi đến ông năm 1988 đã bị trả về với hàng chữ: "Moved to unknown address". Nhiều năm nay, các con tôi đã cố truy tìm trên nhiều trang mạng từ Internet, nhưng tảt cả đều vô vọng.
Cũng xin thay mặt 137 thuyền nhân, gửi đến tảt cả Thủy Thủ đoàn của tàu Panama ngày ấy sự biết ơn sâu xa trước sự giúp đỡ nhiệt tình đầy lòng bác ái của quý vị.
Từ đáy lòng , xin gửi đến cô Minh, mẹ của Tuyết Nhiên, và anh tài công sự biết ơn vô bờ đã giúp tôi thoát khỏi bọn hải tặc một cách nhiệm mầu, khi giao cháu bé và liệng cục nhớt cho tôi kịp thời trong tích tắc.
Và cũng tận đáy lòng, xin chân thành đặc biệt gửi đến ân nhân Nguyễn Vinh Tôn sự biết ơn vô bờ đã giúp tôi bước lên chiếc thuyền định mạng ngày 23 tháng 09, năm 1984. NVT mãi mãi là một Thiên Thần của sự trong sáng và cao quý trong hồn tôi.
Giờ đây, tôi xin thắp một nén hương dâng lên hương linh của anh Nguyễn Quốc Trụ với tất cả sự biết ơn chân thành nhất của một người hân hạnh và may mắn đã được anh giúp trong chuyến vượt biên này.
Và cùng hàng triệu Quân, Dân, Cán, Chính VNCH, xin tưởng nhớ, ghi ơn những anh hùng đã hy sinh bảo vệ VNCH, trong đó có người anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Quốc Trụ, SVSQ/ Khoá 20 Võ Bị Đà Lạt, Đại Úy thuộc Binh Chủng Nhảy Dù, người đã tham dự trận chiến khốc liệt nhất trong quân sử VNCH, trận Đồi 31, Lam Sơn 719, Hạ Lào 1971, nơi anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Văn Đương đã nằm xuống, và đi vào huyền thoại qua nhạc phẩm bất hủ "Anh không Chết Đâu Anh" của Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh, còn anh Nguyễn Quốc Trụ và nhiều Sĩ Quan, binh sĩ đã bị bắt làm tù binh trong những trại tù nghiệt ngã ở Bắc Việt cho đến năm 1979.
Xin thắp một nén hương dâng lên người Cô (Dì) yêu dấu Hồng Hoàng Lan, với tất cả sự biết ơn của người cháu được Cô thay Mẹ, an ủi, đùm bọc trong giai đoạn gia đình tan nát, đau thương sau biến cố lịch sử 30 tháng 04, năm 1975. Cô là người duy nhất trong gia đình Mẹ tôi còn ở lại Hà Nội sau năm 1954 vì đã không thể bỏ lại những cây đàn yêu quý để ra đi. Là một nhạc sĩ xử dụng đàn Violoncelle trong Dàn Nhạc Giao Hưởng Hà Nội, cô đã kịp thời vào Sàigòn để đưa tiễn Mẹ tôi về cõi vĩnh hằng ngay sau 30-4-1975. Cô cũng là người đã khuyến khích, giúp tôi tìm đường vượt biên, và bắt nhịp cầu cho tôi được bước vào chuyến đi hãi hùng, nhưng mầu nhiệm này.
Và xin thắp một nén hương nguyện cầu cho hương linh emTuyết Nhiên cùng tất cả những thuyền nhân đã nằm xuống lòng đại dương trong những cuộc hành trình đi tìm Tự Do đưọc an nghỉ nơi vùng trời miên viễn.
Nếu không có những phép lạ nhiệm mầu cứu vớt, 137 người trong đó có tôi cũng đã chung số phận âm thầm nằm trong lòng biển cả ngày 28 tháng 09, năm 1984. Và những biến cố dồn dập xảy ra trong suốt cuộc hành trình không bao giờ thân nhân được biết.
Cuối cùng, xin chân thành gửi đến anh Trần Đình Phước, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, sự biết ơn sâu xa đã khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt tình giúp tôi hoàn tất viết lại những dòng hồi ký đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ mầu nhiệm này.
Toronto, Giáng Sinh 2015
Phạm T. Duyên
*Kính dâng lên hương hồn những thuyền nhân đã bỏ mình trên biển cả vì lý tưởng tự do. Xin Quý vị nào biết tin tức về Thuyền Trưởng người Anh tên là Brian O’ Connell và Thủy Thủ Đoàn của tàu Panama khoan dầu trên Biển Đông cách đây hơn 31 năm. Xin làm ơn giúp, để tôi có thể liên lạc, dù là muộn màng. Đây cũng là ước nguyện cuối đời của tôi. (PTD)
Phạm T. Duyên
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
04-03-2019
|
#62
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Trên những vết thương còn chảy máu
Qua cầu Phú Mỹ, chạy một lúc là tới Cát Lái rồi lên Thủ Đức. Vậy mà lần lửa từ trước tết đến hôm nay tôi mới đi được. Để tránh thay đổi ý định giờ chót, tôi gọi cho Hùng từ hôm qua.
Tháng sáu trời hay mưa vào buổi chiều, quá 12 giờ thì đã mịt mù mây đen, tôi vẫn cứ phải đi.
Con sông Sài Gòn ngày nước lên mênh mông, đám ghe buôn, ghe hàng trôi theo nước chen kín một khúc phía xa chân cầu Phú Mỹ, cây cầu dây giăng mới xử dụng vài năm đã có dấu hiệu xuống cấp, mặt nhựa trên lớp bê tông đã nhăn nhúm và phía đông cây cầu, người ta đang hối hả đổ đá phủ lên, lấp bồi đồng hoang cỏ dại của bao năm rừng nước mặn. Đám gốc rễ tràm, rễ đước phơi khô bên đường là dấu hiệu của những đợt tàn phá thẳng tay. Cái khu “Nhà bè nước chảy chia hai, ai về Gia Định Đồng Nai thì về” bây giờ nó chỉ là đất đá ngổn ngang dưới chân những tháp cẩu cao vòi vọi.
Chưa tới ngả tư Bình Thái, Hùng đã réo vang trên điện thoại:
– Ông nhớ mò vô đường số 3, tụi tui đang ngồi ở cuối đường, mà cha nội biết ngõ vô chỗ này không đã?
– Trời! lên Thủ Đức tui còn muốn lạc huống chi đường mới, tên mới thôi tui gọi ông khi tới gần đó.
Vậy đó, Sài Gòn bây giờ lạ lẫm như vậy, tôi là thứ Mán lạc rừng ở đất địa này, sau mấy chục năm ít có cơ hội ra khỏi nhà.
Đón tôi là 5 gã thương tật từ đầu tới chân, 5 con người ngồi lọt thỏn trong góc quán dưới tàng cây sân thả những sợi rễ dài chấm dất, trông có vẻ tình tự văn nghệ, văn gừng không chịu được. Chào nhau chưa kịp đã nghe tiếng Hùng với khuôn mặt biến dạng sau ngày bị thương ở Lai Khê, khi theo tiểu đoàn vào Tống Lê Chân, ào ào trách cứ:
– Nửa năm rồi nghen cha nội, hứa bao lần ông mới mò tới tụi tôi.
– Có trời làm chứng, tui ráng hết gân mới tới được, tuổi già bệnh hoạn mà cha.
Quanh bàn là 3 ông Biệt Động.
Người lớn tuổi nhất cựu binh Mai Vinh của sư đoàn 5, người ở lính khi tôi mới một tuổi, ông về sư đoàn này khi ông Thiệu còn là đại tá tư lệnh, qua bao chiến trường, bao trận mạc. Cuối cùng, ông lãnh một trái phá khi sư đoàn dưới quyền tướng Lê Văn Hưng, với một khuôn mặt méo mó, mất luôn con mắt trái, hàng tá mảnh đạn găm vào người. Ông về vườn và sống tất bật theo cái tuổi về chiều cùng với mớ sắt thép đạn bom vẫn tồn tại trên thân thể đã già nua.
Hai mai Huỳnh Thanh Tâm của Biệt động quân vẫn ngồi yên lặng nhìn tôi nãy giờ:
– Từ sau cái Gò Công Tây, anh mới chịu ló cái mặt ra.
– Anh khoẻ không? Cha! râu dài gần tới rốn, bộ anh muốn lên núi hả?
Người phế binh một chân còn lại đó là đàn anh quá tầm so với thời tôi, anh chiến đấu ở An lộc từ cái năm 1970, khi tôi chưa ăn cơm nhà bàn. Anh đi nát chiến trường miền đông, rồi bỏ lại cái chân ở Chơn Thành, có lẽ chính vì thế anh cũng thân tình với hạ sĩ Dương, anh chàng Võ Phùng Dương này của 4/52 BĐQ quá thân với tôi trong những ngày lặn lội lên đồi Gió, đồi 169 vào những năm 2011 thăm lom những mả mồ hoang lạnh còn sót lại sau chiến tranh, và hắn “thằng một chân về chôn bạn” mà tôi rất quí.
Anh Tâm rất hiền, nhưng là dân học trường “Tây uýnh Pháp” nên thường, anh hay rớt lại mấy câu tiếng Tây quen thuộc trong câu chuyện và là dân khoá 23 TĐ, nên dĩ nhiên, một ông ĐĐT trinh sát của lính rằn ri vẫn “you and me”quen thuộc, như thời anh đấu hót với cái máy truyền tin trên tần số của lính Mỹ, khi gọi pháo yểm.
Kéo cái chân giả lên anh Tâm nói với tôi:
– Nó xưa và cũ như cuộc đời tui vậy đó, thấy chưa? Nhưng tui khoái nó, như khóai cái “cây mùa xuân vừa héo ở Gò Công Tây” của ông vậy.
– Cha nội chuyện đó xưa như trái đất rồi anh nhắc chi?
– Nhắc chớ, những lời nói thật dù dễ phật lòng nhưng… tui khoái.
Anh cho tôi xem cái chân giả của anh, nó được làm từ thời của thập niên 60, 70 gì đó trông thật thô và kỳ cục.
– Trời sao anh không làm cái mới dễ đi hơn.
– Kệ, tui quen nó rồi, dấu chiến chinh giữ mãi trong lòng…
Trương Văn Vân, ngồi đối diện tôi, kế anh là Bùi Văn Ấn của SĐ 25BB. Vân gõ ngón tay lên cái chân nhựa kéo cao ống quần lộ ra cái chân cụt gần sát gối
– Tui bỏ cái chân thiệt ở Hậu Nghĩa, may mà ngày đứt phim có nó chứ không cũng mệt lắm.
Tôi lấy máy ảnh chụp một phát, 3 con người một thời xương máu, còn lại chỉ có 3 cái cẳng chân, và cố lấy hình ba cái chân giả, mỗi cái có một niên đại chế tác khác nhau, màu sắc khác nhau, dù cùng một chiến trường Miền Nam Việt Nam, nó đánh dấu bao thế hệ nối nhau đi chiến đấu.
Chợt nhớ tới Hoàng Thế Minh:
– Sao tui không thấy Thế Minh vậy? tôi hỏi Hùng.
– Nó chờ ông từ sáng, nên mới về nhà, để tui gọi nó qua, ở gần đây mà. Nghiêng cái mặt dị dạng Hùng ngó tôi trả lời từng tiếng.
Chiều đã xuống và cơn mưa sẽ đến, cái nóng hầm hập của thời tiết Nam bộ cho tôi cái “ngửi” được hơi gió lạnh và mưa đang tới. Hoàng Thế Minh đến, khó nhọc với cặp nạng, nhưng thao tác quen thuộc, anh chống nó xuống mặt đường, quăng người rời khỏi yên xe gắn máy, thằng con trai lớn của anh giúp ông bố tật nguyền đi vào, trên hai cái nạng. Tôi và Hùng đứng dậy đón anh.
Trong bàn chỉ có tôi, Hùng và cựu binh Mai Vinh còn nguyên hai chân, nhưng anh Vinh già và hom hem tới độ tôi có cảm giác anh khó lòng đứng lên được.
– Sao rồi ? Tôi vỗ vai Thế Minh.
– Cũng vậy thôi, chờ anh hoài mà tới nay mới có dịp ngồi lại với nhau.
Câu nói rất bình thường của Thế Minh làm tôi khựng lại. Tôi đã từng hứa với anh sẽ lên Thủ Đức thăm anh và hứa từ hai năm rồi vậy mà cho tới hôm nay mới mò lên được, dù Thủ Đức chỉ cách nơi tôi ở không quá 45 phút chạy xe gắn máy.
Hùng bảo tôi uống bia, café thì lúc này toàn ba cái café dỏm, không bắp rang thì cũng sái nhì sái ba pha thêm hương liệu, nước ngọt thì là hoá chất trộn đường hoá học, chẳng còn lựa chọn nào khác, dù ba cái bia bọt quả tình tôi không thích, Thế Minh cầm càng với chai trà không độ.
Chúng tôi tha hồ đấu hót, chuyện trên trời, dưới nước, chuyện thượng vàng hạ cám.
Hùng nhắc lại với Thế Minh:
– Mày biết hôn, tao ném cái combine, đỡ ông thiếu úy Tuân, bị chơi một phát ở vai phải khi ông ta rút colt 45 hô anh em xung phong, cho đến khi hai thầy trò dìu nhau ngả xuống, ông Tuân dính thêm phát nữa và tử trận ở Tàu Ô, trên đường 13 nhuộm máu…
– Mày biết không ổng chết trên tay tao, trước khi phi cơ xuống tải thương. Và hãnh diện:
– Tao mang máy cho ổng mà… Tao lại không dính ở trận Tàu Ô này mà rớt tại Lai Khê lúc chuẩn bị lên Tống lê Chân.
Thế Minh thở dài nói với Hùng:
– Vào An Lộc tao cũng te tua nhưng tao ra quân khu I.. và rớt ở khu Trà Bồng, Quảng Ngãi. Tao bị ở đồi Hoàng Oanh.
Hai người chiến binh cùng mũ nâu ngồi nhắc nhau thuở chiến trường, bây giờ họ đang sống chật vật với thương tật trong cái tuổi về chiều, cùng nhau hồi tưởng những mặt trận họ từng qua. Trong mắt họ tôi nhìn thấy một chút nuối tiếc phảng phất trong từng câu, từng chữ, thời lẫm liệt của một đời trai trẻ đã qua.
Cho đến khi Hùng nhắc cái vụ nhận quà từ một tổ chức thiện nguyện mang tên VHF, anh càm ràm về những vấn đề tệ hại xảy ra từ những cá nhân liên quan đại diện cho tổ chức này, thì câu chuyện bắt đầu ì xèo lên.
Một cái tên “Chín Cùi” nào đó, đã nhiều lần lạm dụng danh nghĩa đại diện cho tổ chức VHF lừa lọc anh em TPB đang sống tại VN, cướp đi những trợ giúp từ tổ chức này gởi cho các anh TPB mà anh ta làm đại diện.
– Trời có vụ này nữa sao?
Trời đổ mưa, mưa như trút xuống, chúng tôi vịn níu nhau chạy vào bên trong quán, cô chủ quán, một thiếu phụ trung niên, có vẻ rất quen với những tay tàn tật này, chạy ra thu dọn ly tách.
Bên trong quán đã có một bàn với ba người khách đang đánh đàn guitar cùng hát hò những ca khúc thời xưa cũ, cái quán rất văn nghệ, tính cách của nó bộc lộ qua những khách gần như quen thuộc với quán, bởi cô chủ cũng là một trong những “ca sĩ” của buổi trình diễn bỏ túi mà không có khán thính giả này.
Vào bàn mới, câu chuyện lại xoay quanh vụ VHF.
Tôi nói với anh Tâm:
– Tổ chức này là VietNam Healing Foundation hả đại ca? Tui có lần vào trang này trên net.
– Ừ, tui cũng bị nó chơi mấy phát, từ 3 năm nay, chỉ vỏn vẹn 600 ngàn một lần, mà hỏi ra thì VHF vẫn thường chuyển về tôi theo qui định mỗi năm hai lần và mỗi lần là 1 triệu 500 ngàn.
Tôi lẩm bẩm tính toán mỗi năm hai lần:
– Mỗi năm 150 đô la cho mỗi TPB, như vậy cũng tốt quá rồi.
Hùng cau mặt:
– Tốt con khỉ, thằng Thế Minh nè, nhận chiếc xe lăn trị giá hơn triệu tám, tới tay thì trớt quớt.
Tôi quay sang hỏi Hoàng Thế Minh:
– Sao trớt quớt vậy Minh?
– À, tui mất hai chân, tổ chức này cho một chiếc xe lăn. Tay “Chín Cùi” gọi tôi lên nhận và hỏi tui: “Mày muốn nhận xe hay nhận tiền?”
Anh biết không, cái xe lăn rất quí, nhưng tui không dùng được vì nhà chật chội, xê dịch khó khăn, nó cồng kềnh so với cái chỗ tui ở, tui nghĩ mãi và cuối cùng nói với Chín Cùi “Thôi anh cho tui nhận bằng tiền cũng được”. Chín “Cùi” bảo tui:
“Mày muốn nhận thì nè, ở đây 600 ngàn tao đưa trước, mày kiếm ra chiếc xe lăn ngồi trên đó chụp hình rồi đưa tao, tao sẽ đưa phần còn lại 1 triệu 200 ngàn cho mày sau”. Tui về, chạy vắt đầu tóc kiếm cho ra cái xe, chụp hình rồi đưa anh ta. Mấy ngày sau Chín “Cùi” gặp tui, bảo tui cà phê cà pháo với hắn cái đã. Bất đắc dĩ tui phải mời anh ta vào quán, ngồi xuống bàn là Chín “Cùi” điện thoại rủ một lô bạn của hắn tới. Kết quả là tui trả hết 700 ngàn tiền nhậu cho họ, rồi tò te về với cái xe lăn bằng 500 ngàn đồng trong túi.
Huỳnh Thanh Tâm, gục gặt đầu, mấy sợi râu bạc bay phất phơ trông như một ông thiền sư đã ngộ đạo đang tung tăng trên đỉnh núi.
– Chưa hết đâu, nó còn chơi cái màn, cứ mỗi một triệu mà nó đi giao tới là phải 100 ngàn tiền xăng nhớt, chưa nói đến cái khoản café.
Nghe đến đây tôi thực sự lạnh toát người. Trời, anh em bè bạn tôi, những TPB một thời xương máu đã đổ xuống cho biết bao thằng còn nguyên vẹn bị cư xử như thế này sao?
– Nhưng mà Chín “Cùi” là ai vậy? tôi hỏi trống không.
Trương Văn Vân, im lặng nãy giờ, xắn tay áo góp chuyện:
– Chín “Cùi” hả? Hắn là Nguyễn Hồng Minh hình như cũng là TPB của TĐ 3 TQLC. Thằng này xui mà gặp tui là tới số…
Anh Tâm xen vào:
– Tui nghe nói, hắn lấy giấy tờ của anh ruột hắn, chứ hắn không phải là TPB.
Hoàng Thế Minh thêm một câu làm tôi ngẩn người:
– Khi VHF mới tổ chức, có 24 TPB đầu tiên. Tui ghi danh và nhận trợ giúp từ đầu, chính vì vậy sau một lần duy nhất nhận thì không có nữa tôi mới hỏi Chín “Cùi”. Anh ta nói là “Mày chưa gởi hồ sơ làm sao có” tui kể cho anh ta là mình chính là những TPB trong danh sách đầu tiên, anh ta nói “Tao không biết, mày hỏi lại đi”. Chuyện này xảy ra trước khi có cái vụ xe lăn.
Đến đây thì tôi hiểu ra một điều, rất nhiều tổ chức thiện nguyện từ các nơi, cố tâm giúp đỡ những TPB của QLVNCH còn ở lại VN nhưng do chính những người đại diện của họ, nên có khi vì một lý do nào đó, số quà hay sự hỗ trợ của họ không đến được tận tay người nhận.
Cái lý do quả thật nghiệt ngã, cái lý do chết tiệt chẳng có một chút tình người, cái lý do nói như kiểu nhà binh, mà Trương Văn Vân trong một phút bất mãn đã thốt ra “cái lý do tào lao”.
Lão tướng Mai Vinh từ đầu không bàn vào câu chuyện trần ai này, anh thở dài:
– Nói cho cùng ngay cả sinh mệnh của mình, mình cũng không biết hà huống chi những cái từ trên trời, từ xa lắc, qua biết bao vòng, biết bao chặng mới tới tay mình…
Trời đã xuống thẫm một màu, màu mưa lớn, chúng tôi tan hàng. Trương Văn Vân bận chuyện nhà nên về trước, nhưng vẫn rời bàn sau cựu binh Bùi văn Ấn, lão này phải về rước cháu ngoại tan học nên chào chia tay từ trước cơn mưa. Tôi chở Thế Minh về Thủ Đức, Hùng đưa anh Thanh Tâm về nhà, lão tướng Mai Vinh lên yên ngựa một mình dù chỉ một nút nữa là tới 80, cái tuổi hiếm hoi trong số cựu binh tôi từng gặp.
Không quen với hai cái nạng xếp dọc sườn xe, nhưng tôi vẫn cố chạy cẩn thận giữa dòng xe đông như kiến dọc xa lộ với một con người thiếu thăng bằng ngồi phía sau, Thế Minh vòng tay ngang người tôi giữ cho khỏi ngã trong những cú lạng tránh những gã thanh niên mặt non choẹt đang hùng hổ rú ga chạy ào ào trên con đường chật chội.
– Thời đại của tụi mình hết rồi. Tôi nói với Thế Minh.
– Anh tới ngã tư Kha Vạn Cân thì quẹo trái nghen.
Đó là con đường tử thần của xe tải một thời vang danh, bởi những chuyến đất đá chở về từ hướng Biên Hoà, con đường bây giờ trở nên chật chội hơn, hàng quán đông hơn, tới nhà Thế Minh phải quẹo trái, phải thêm vài cái nữa, tôi thật chẳng thể nào nhớ nỗi đường xá ở cái xứ người đông như kiến này.
Thế Minh cởi trần kéo tôi ngồi xuống ngay cái chỗ anh ngủ, một cái nhà bếp nhỏ và cái kệ bếp dùng chứa đồ, anh đã nằm ngủ trên cái sàn chật chội nhiều chục năm qua. Nhìn cái khó, cái nghèo xơ xác, bộc lộ qua mái tôn lót một lớp xốp chống nóng, lu bu, ngổn ngang đồ đạc là biết anh khốn khó tới cỡ nào.
Tôi mở máy cho Minh coi những tấm hình đã chụp hồi chiều, hai đứa cùng nghe lại mấy lời bực dọc của Vân cùng sự giận dữ của Hùng khi nhắc đến câu chuyện về VHF.
Theo thói quen, để tránh những dấu hỏi khó chịu nếu có sau này, tôi ghi vội trên điện thoại. Hai đứa ngồi với nhau một lúc lâu, rất là lâu.
Chia tay với Hoàng Thế Minh tôi chạy xe dưới màn mưa bụi suốt từ Thủ Đức về đến đầu cầu Phú Mỹ, cả người lem luốc và ướt nhẹp.
Thắng xe dừng ở giữa cầu, chỗ có thể tránh đường xe chạy qua, đứng trên hành lang dành cho người đi bộ, tôi nhìn xuống sông Sài gòn, thấp thoáng phía xa thành phố mới lên đèn.
Câu nói của lão tướng Mai Vinh cứ lởn vởn trong đầu tôi “…ngay cả cái sinh mệnh của mình, mình còn không biết…”. Cay đắng làm sao! Những con người có một thời chinh chiến, bản thân họ là TPB, mà là TPB của một chính quyền bị tước trên tay từ một chính quyền khác, sự sống còn như một trò chơi không hơn, tương trợ nhau được biểu diễn qua một đường cong ma mãnh.
Bầm dập gần 40 năm tính từ ngày mà cái quân đội họ đã phục vụ không còn nữa. Nhưng, suy cho cùng sự chiến đấu lẫm liệt đó chính là chiến đấu cho tự do, cho sinh tồn của dân tộc, của đất nước. Chiến tranh qua đi, sao nó không giống những quốc gia khác, cũng có những cuộc nội chiến, cũng có thương binh. Sao người ta cư xử trong tinh thần thượng tôn của võ nghiệp, trong cái trân trọng một con người, mà ở đây, trên đất nước này lại khác. Nhớ anh Nguyễn Đình Toàn từng hát cho tôi nghe một ca khúc sau ngày tan trận, lúc hai anh em bị nhốt chung ở nhà giam T20 thành Gia Định từ những năm 1977, trong đó có một câu thật đau đớn “…người với người, đã trở thành thiên tai…”.
Không phải cái đau xuất phát từ những người đối lập, mà nó lại khởi nguồn từ những người cùng một hoàn cảnh, tồi tệ nhất trong các thứ hoàn cảnh tồi tệ khác. Cướp nhau tận cùng, tước đoạt tận mạng những thứ có thể tước đoạt được, trong cái tranh giành sống còn hôm nay. Vì cái gì? Đói khổ làm người ta mụ mẫm cả lương tri.
Trách sao những món tiền khổng lồ mà các tổ chức quốc tế, của Liên Hiệp Quốc với những kế hoạch đã có vài mươi năm, hỗ trợ cho những kẻ bị nạn sau chiến tranh, những con số hàng chục, hàng trăm triệu đô la, không bao giờ, không thể nào đến tay những thương binh của một quân đội đã bị lãng quên. Những món tiền cỏn con như chút quà mọn như vậy còn bị cắt xén tan nát nói chi là cái khác to, lớn hơn nhiều rất nhiều. Chiến tranh để lại quá nhiều tai ương.
Dẫu sao tôi cũng đã thực hiện được cái mong muốn gặp Minh, gặp Hùng và những TPB mà tôi từng biết đến, có người chỉ biết qua một cái tên, có người đôi lần cùng nhau chia xẻ trong những khi tôi có cơ hội và có khả năng chạy vạy từ anh em bè bạn của mình.
Nhắc đến điều này tôi như một con nợ, gánh một gánh với nhiều anh em quen biết, cũng có kẻ chưa từng gặp mặt nhau. Từ những nhà hảo tâm có khi biết, có khi không, giúp tôi có thêm cơ hội sống gần, kề cận với những anh em TPB và biết được những thứ trời ơi đất hỡi chung quanh chuyện trao nhận quà cáp từ xa chuyển về, biết cái sống như chết rồi của anh em, biết cái oai hùng trong đoạn đời chiến đấu của từng người và chính vì thế mới biết những “cái lý do tào lao” và câu chuyện chết tiệt mà trong đời có lẽ sẽ không sao hiểu nỗi.
nguyễn thanh khiết
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
04-05-2019
|
#63
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Thêm chuyện Paris: Tháo dỡ 65 tấn ổ khóa tình yêu ở Paris … đem bán
Cầu Pont Neuf vốn được xem là điểm hẹn của hàng ngàn cặp đôi trên toàn thế giới nay sắp bị tháo dỡ toàn bộ ổ khóa tình yêu.
Bắc ngang dòng sông Seine chảy trong lòng thành phố Paris – Pháp có hết thảy 37 chiếc cầu bắc ngang, nhưng nổi tiếng và được nhiều người biết đến nhất chính là chiếc cầu nhỏ Pont Neuf dành riêng cho những người bộ hành. Từ lâu, nơi đây đã trở thành điểm đến cho tình nhân khắp nơi trên thế giới. Họ “thề non hẹn biển” bằng đủ các loại ổ khóa, gắn vào hàng rào dọc theo thành cầu để cầu mong tình yêu bền chặt, gắn bó.
Việc dùng ổ khóa để “trói buộc” nhau là một quan niệm được các cặp tình nhân phương Tây khá tin tưởng. Các đôi thường khắc tên mình hay lời nhắn nhủ trên ổ khóa rồi gắn vào thành cầu sau đó vứt chìa khóa xuống sông gần như trở thành “đặc sản” mà nhiều du khách đến đây đều không thể bỏ qua.
Tuy nhiên, khi mật độ ổ khóa ở đây ngày càng tăng đã vô tình tạo nên sức nặng khủng khiếp khiến chiếc cầu có nguy cơ hư hỏng trầm trọng. Trước thực trạng đáng buồn này, chính quyền Paris đã tuyên bố bắt đầu loại bỏ các ổ khoá tình yêu gắn trên những cây cầu từ năm 2014 đến nay, đồng thời kết thúc trào lưu khóa tình yêu. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để xử lí tốt nhất 65 tấn kim loại từ hàng ngàn ổ khóa này trở thành vấn đề được mọi người quan tâm.
Vừa qua, phó thị trưởng Paris Bruno Julliard đã đề xuất ý kiến: thành phố sẽ bán các ổ khoá và khoản tiền thu về đem quyên góp cho những người tị nạn. “Người dân có thể mua lại từ 5-10 ổ khóa hoặc thậm chí là nhiều hơn, xem như lưu giữ một phần lịch sử và kỉ niệm với Paris. Và tất cả lợi nhuận thu về chúng tôi sẽ chuyển hết cho nhóm người tị nạn đang sinh sống tại thành phố”– ông Julliard chia sẻ.
Đợt mở bán đầu tiên sẽ diễn ra vào đầu năm 2017 và hứa hẹn sẽ thu về khoảng 100.000 euro (tương đương 2,4 tỉ đồng). Song song với quyết định này là chiến dịch No Love Locks được phát động mạnh mẽ nhằm kêu gọi du khách ngưng gắn ổ khóa trên các “cây cầu tình yêu” ở Paris.
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-06-2019
|
#64
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Ra tù
Còn mấy ngày nữa là đúng thời khắc bốn mươi năm trước, cầm giấy ra trại trên tay và mười mấy đồng tiền xe tàu làm lộ phí. Lòng nhẹ nhõm. Thế là ước mơ được trở về nhà sau mấy chục tháng “tu tiên “ đã trở thành hiện thực. Dù biết rằng chưa thành người công dân nhưng khi bước ra cổng trại, ngoái nhìn lại những dãy nhà tranh đơn sơ đã một thời là mái ấm, lòng vẫn thấy vừa vui, vừa bùi ngùi. Một thời gian dài bắt tay viết lại lịch sử đời mình, có những góc ký ức không cố nhớ mà sao khó quên.
Buổi sáng, đứng chờ xe lửa trên ga nhỏ Trản Táo trở về thành phố, lòng rộn ràng khó tả. Nhìn mười mấy người cải tạo gầy gò, thuộc nhiều lứa tuổi, mặt mày ai cũng rạng rỡ, măc bồ đồ tươm tất nhất có được, sao thấy đứa nào cũng ngố. Bộ đồ trên người cũng vậy. Hồi đi trình diện mặc một bộ, hai bộ còn lại nhét ở túi xách; theo thời gian hai bộ kia đã rách bươn. Bộ đồ sạch sẽ nhất được giặt và cất kỹ ở đáy túi xách, chỉ mặc vào dịp lễ tết và chờ ngày hôm nay. May mà ngày ấy, cũng kịp đến, bộ đồ có cũ đi nhưng vẫn còn nguyên.
Ba mươi hai tháng trong trại, ngày ngày lao động, có khi lên rừng đốn cây, thường mặc bộ đồ lính cũ, nay đã rách bươn, vá chằng chịt, hôm qua tặng lại cho thằng “sún“, trẻ nhất trong 6 đứa còn lại ở trại như một kỷ niệm để nó có thêm áo quần thay khi tắm giặt, bởi vì mỗi lần giặt, ai cũng phải phơi nắng ở bìa rừng hai ngày mới khô. Tội nghiệp thằng nhỏ mới khoảng hơn hai mươi tuổi, hồi nhỏ chạy giấy tờ làm lính kiểng ở đơn vị nào đó và ăn rồi cà nhỏng đi chơi, đi học ở saigon. Rồi phải lòng một cô gái trong xóm lao động gần nhà, cô này lại mê sĩ quan nên anh chàng mỗi lần đến nhà cô gái lại mang bộ đồ lính rằn ri “giật le”, trên vai đeo hai bông mai vàng chói (trung úy) mua ngoài tiệm. Sau ngày 30 tháng tư, đi trình diện như lính ”đơ dèm cùi bắp” bị mấy ông “nằm vùng” tố cáo “khai man lý lịch nên bắt đi cải tạo 10 ngày, chung chỗ với sĩ quan. Không biết chừng nào mới được về với cha mẹ .
Nó nằm gần, trên cái giường tre tập thể, (quên mất tên gì rồi, xin lỗi em), đêm nào cũng khóc hu hu vì nhớ nhà làm nhiều đứa cũng khó ngủ theo. Đưa cho em, hết đồ cá nhân còn lại trong trại, tôi chỉ cầm cái xắc nhỏ đeo vai trên người y như ngày đi trình diện 3 năm trước. Khi chiếc tàu lửa đổ xịch trên sân ga, mười mấy đứa lên tàu, cái cãm giác nhẹ nhõm lộ hẳn ra trên nét mặt. Vậy là được tự do thật rồi, sắp về nhà rồi. Là tàu chợ Nha Trang-Saigon nên trên tàu chật nêm, đầy những bao bố, thúng gánh hầm bà lằng trên sàn. Tôi chen được một chỗ trước mặt nhờ có bà già đang ngồi thấy người dáo dác tìm chỗ nên co ro, rút một chân lên ghế.
- Tụi bây là cải tạo phải không?
- Dạ, thưa bác, đúng rồi. Mà tại sao, bác biết. Tôi ngạc nhiên hỏi bà cụ.
Bà cười hiền hậu, cái miệng móm mém, chỉ còn lưa thưa một hai cái ở trong miệng:
- Tổ cha mày, má nhìn mấy cái mặt tụi bây, ngơ ngơ ngáo ngáo là biết không giống mấy người trên tàu này, thấy không con?
Mà bà già nói đúng thiệt. Xung quanh,phần lớn là đàn bà, phụ nữ, ai nấy, tiều tụy, căng thẳng, nhiều âu lo, nét mặt phong trần , đầy vẻ láu lỉnh; còn, nhìn kỷ lại tụi này, thằng nào cũng ngơ ngơ, mắt mở to, thấy cái gì cũng nhìn vì lạ quá. Chiếc tàu mệt mỏi, xình xình leo qua đồi tre. Nhiều đứa cố nhón gót, nhìn lại lần cuối, nơi quen thuộc bao nhiêu tháng miệt mài với rừng núi.
Vài ba đứa mặc quần áo lao động cải tạo vẫy vẫy tay. Tôi cố nhìn kỷ ,Ơ kìa, có thằng nhỏ sún răng , chung tổ. Nó nhón gót vẫy tay lần cuối. Khuôn mặt nó nhỏ dần, xa dần rồi mờ hẳn. Mắt tôi mờ đi. Chắc thế nào nó cũng khóc , khóc vì mừng cho mấy anh và cũng khóc vì nhớ nhà. Tối nào nó cũng khóc rấm rức mà. Thôi, ráng lên em. Tội nghiệp.
Bà má Nam Bộ, hỏi tôi:
- Ủa sao mày khóc, hả con?
- Tại con mới thấy thằng em còn lại trong trại nó mới vẫy tay chào, tôi nghiệp nó. Tôi ngượng nghịu trả lời
- Nó là em mày hả con?
- Dạ, không phải. Nhưng nó hiền lắm nhỏ tuổi hơn đứa em ở nhà, nên tụi con, ai cũng coi nó như em. Thấy nó vẫy tay, tự nhiên chảy nước mắt.
Rồi bà bước xuống đứng cạnh tôi, bà hỏi
- Hồi trước, mày làm lính, nghề gì?
- Dạ, con là trung úy, làm bác sĩ.
- Má cũng có con, cũng làm lính đánh giặc nhưng chết lâu rồi, nên má bỏ Saigon, về làm ruộng trong vùng sâu Long Khánh, má sắp xuống ga tới rồi. Nhìn tụi mày, má nhớ con má. Hồi xưa, có lần má đi khám bệnh “quan đốc tây”, gọi bằng Ngài không hà. Sợ lắm, không dám nhìn mặt quan “đốc”. Ở đây, lâu rồi chưa gặp thằng bác sĩ nào trẻ như mầy. Giống con tao. Ráng giữ sức khỏe nghe con, rồi làm ăn nghe. Mà mày có vợ con gì chưa con?
- Dạ chưa má ơi. Tôi gọi “má” tự nhiên, ngọt xớt.
- Thôi ráng chịu cực khổ, làm ăn , rồi có vợ con như người ta đi.
Má lần tay vào lưng quần, rồi nắm lấy tay tôi, nói nhỏ:
- Má cho mày cái này.
Rồi bà giúi vào tay tôi mấy đồng bạc nhàu nát moi từ lưng quần. “Xuống ga mà uống nước mía rồi ăn hủ tíu”. Tôi gạt tay bà, định từ chối.
- “Mày đừng làm má khóc, nghe con. Bỏ túi đi. Cho má rờ cái mặt của bác sĩ một chút nghe con. Mắt má nhìn không rõ.
Không đợi trả lời, bàn tay sần sùi, nhăn nheo của bà rờ, mân mê trên mặt tôi từ trán xuống cằm. Tới chỗ còn ướt nước mắt, bàn tay bỗng dứng lại, ngập ngừng mân mê như có chút bâng khuâng. Má tôi chết vì bệnh lâu rồi, chắc cũng gần hai mươi năm. Ngày xưa, má tôi cũng hay mân mê trên mặt con mình, rồi vuốt tóc. Tôi bỗng ôm chầm lấy bà rồi thảng thốt” Con cám ơn má”.
Tàu rúc lên hồi còi dài, báo hiệu sắp dừng, bà buông tay tôi, chuẩn bị xuống ga. Mấy đứa đở má xuống ga. “Thôi má về nghe con. Giọng bà buồn, ướt đẫm. Đôi mắt bà bỗng sáng lên, rồi mờ đi. Tôi nắm chặt lấy tay người má Nam Bộ mới gặp, bóp chặt như một lời chia tay. “Thôi má về bình an”.
Nhìn ra cửa sổ con tàu trên đường từ ga Trản táo về hướng Saigon, cố nhớ địa điểm ga xép này. Sau này, nhiều lần tôi đã có dịp ngồi trên xe lửa Nha Trang –Saigon, đã nhiều lần lóng ngóng nhìn ra cửa sổ để tìm lại hình ảnh người phụ nữ năm xưa nhưng sao hoài vẫn chưa thấy. Cũng đã gần 40 năm rồi, ngồi viết lại mấy dòng này, mới sực nhớ chưa biết má tên gì, nhà ở vùng nào để biết đâu còn có dịp gặp lại. Nhưng mà, nếu quả thật, có duyên và Trời Phật thương, chắc thế nào cũng có ngày má con mình gặp lại, nếu má còn sống. Lúc đó, tôi tin rằng, sẽ nhận ra ngay vì hình ảnh của má vẫn còn nguyên trong trí nhớ, dù rằng, giờ này, tuổi con cũng gần như tuổi má hôm ấy.
Làm sao quên được đôi mắt nhân từ của má hôm ấy, đôi mắt ướt trên da mặt nhăn nheo và cái miệng móm mém. Khuôn mặt buồn thiên thu. Khoan chết nghe má, để còn có ngày gặp lại.
Người Đăng: buithiengiao
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
04-08-2019
|
#65
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Trại 5 - Mùa Cùm!
Chú thích của TV PVT: Trại 5 Lam Sơn ngày nay (sau 2010 ....) cũng còn gọi là Trại 5 Thanh Hóa tức trại giam số 5 của Bộ Công an cộng sản tại Thanh Hóa, nơi đây sau 2005 đã giam giữ Phạm Thanh Nghiên, Trần Ngọc Anh, Lê Thị Công Nhân, Lê thị Kim Thu, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ, Trần Khải Thanh Thủy … và mới đây giam những người bị tước đoạt điền sản tại Dương Nội với người nữ dân oan tiêu biểu là chị Cấn thị Thêu. Nơi đây cũng còn đang giam giữ người con gái đất Trà Vinh, Nguyễn Đặng Minh Mẫn... - Nguồn ảnh: VOA tiếng Việt ( http://www.voatiengviet.com/)
******
1. 1995
Sau Tết chừng hai tháng thì 10 người tù A 20 ra Bắc hồi đợt tháng 11.1994 được chuyển sang nhà 4, đoàn tụ với anh em A 20 ra Bắc đợt cận Tết 1995. Anh em mừng tủi ôm nhau nước mắt lưng tròng. Tội tu sĩ Nguyễn hữu Tín, ông gầy đét, trơ hai hàm răng trắng đứng đợi tôi cạnh cổng ra vào, nắm lấy lấy tay tôi ông hỏi « …sao gầy vậy Thành! »
Nhìn ông, nhìn anh em, vui mà muốn khóc. Tôi nói.
- Bộ thầy mập lắm hay sao mà biểu con sao gầy thế?
Ông cười, mặt gần như chỉ còn thấy hàm răng trắng và hai con mắt đã nhiều lớp nhăn, xúng xính trong bộ áo quần màu nâu đã bạc thếch, nổi đậm lên hai chữ cải tạo màu đen đã đổi thành xám xịt, đóng to đùng giữa lưng và hai đùi.
Anh Nguyễn Kim Long đứng trên bực thềm, gầy không thể tả! Hai con mắt đã thành sâu hoắm, đôi tay lòng khòng đưa ra ôm lấy tôi. Bên cạnh là giáo sư Nguyễn văn Bảo và võ sư Lê Ngọc Vàng.
Đỗ bạch Thố vẫn như ngày nào ở A 20, rất nhanh gỡ ba lô và cái hòm gỗ (chính Thố đóng bằng gỗ mít ở A 20) trên tay tôi xuống rồi đem thẳng vào chỗ nằm đã qui định sẵn.
Những người tù từ A20 Xuân Phước, bị cộng sản đày ra Trại 5 Thanh Hoá 1995 và ngày 29.12.1999 chuyển về trại Nam Hà. Trong hình này, hầu hết là án từ 16 năm đến chung thân. Hàng đầu từ trái: Trần Đế (Cần Thơ 18 năm); Chí sĩ Cao Đài Hồ Vũ Khanh; Đỗ Minh Tuấn - tổ chức Hoàng văn Hoan- Hải Phòng); và Trần Nam Phương (Quảng Nam chung thân). Hàng sau từ trái: Nguyễn duy Cường (Vũng Tàu, áo choàng xanh đen, 14 năm); Dương văn Sĩ (Sóc Trăng chung thân); Lê Thiện Quang (Huế 15 năm); Lương quang Hòa (Thanh Hóa); Vũ đình Thụy tức Võ Lâm Tể (Phú Yên chung thân); Phan Văn Bàn (Quảng Nam /Long Thành, tổng án 32 năm) (1); Bùi Thúc Nhu (Phú Yên, chung thân) - ảnh tư liệu của Phạm văn Thành
Gặp lại nhau, dù mới cách xa có 5 tháng, nhưng tình cảm thật dạt dào! Thứ tình cảm mà suốt 16 năm tiếp theo đằng đẵng trong đời tôi - sau tù - không thể tìm có được, dù đã đi cùng trời cuối đất khắp Âu Á Mỹ Úc xa xôi…
Khu cách ly A4 là một nhà bê tông mái bằng, xây dựng lại trên nền đất của bệnh xá trại tù trung ương số 5 Lam Sơn, một nhà tù hơn 50 năm liền đoạt danh hiệu tiến tiến tiêu biểu của ngành công an quản lý tù!
Dãy nhà ngăn làm đôi. Tôi và toàn nhóm 10 người bị xếp vào phần nhà phiá ngoài gần cổng A4a. Nhà có bốn thường phạm sống chung với chính trị phạm chúng tôi. Võ sư Lê ngọc Vàng, giáo sư Bảo, bác sĩ Kim Long, thày Tín, Biệt kích Nguyễn văn Trung, Bình định Trần Minh Tuấn, nhà giáo Hoàng xuân Chinh …. đều bị xé khỏi tôi và Phạm anh Dũng, Nguyễn ngọc Đăng, Lê Thiên Quang và Trần văn Lương.
Lược qua nhân sự phân bổ hai nhà, tôi hiểu là cách phân bổ này được chỉ định từ trung ương, nằm ngoài hoàn toàn quyền hành của giám thị trại 5, vì phải là đã theo dõi hồ sơ cùng hành vi của từng người nhiều tháng nhiều năm mới có thể phân định được chính xác sự …gai góc của từng người mà xếp chỗ nằm như vậy.
Phòng tôi có hai sự lạ là sự có mặt của Phượng Hoàng Phan văn Bàn. Như vậy là anh Bàn đã dấu được độ gai góc của mình. Có anh Bàn trong buồng, tôi vững tâm rất nhiều. Chỗ nằm của anh bị xếp vào góc trong cùng sát tường, đối diện chỗ nằm của Thày Mai Đắc Chương. Bên cạnh thày Chương là Trần Nam Phương rồi đến tôi, đến hình sự (thường phạm) Sáng và tới Lê thiện Quang, Đỗ Bạch Thố, Phạm anh Dũng, Trần văn Lương, Nguyễn đình văn Long, Nguyễn hữu Thiết (vụ Linh Mục Nguyễn Văn Vàng (2)). Sau anh Thiết là hai người tù thường phạm khác. Dãy bê tông đối diện là hình sự Quân, rồi tới chính trị phạm Michel Nguyễn Muôn, Moris Đỗ Hườn, rồi Kiên hình sự, rồi chính trị phạm cựu Đại úy Đỗ Hồng Vân (cùng vụ tôi), nhà giáo Phan văn Lợi (anh Bảy Lợi) và một anh quê ở Huế tôi đã quên tên rồi đến anh Phan văn Bàn. Dương văn Sĩ sau khi từ Thanh Cẩm chuyển về (4 tháng sau khi tôi chuyển sang nhà A4) được xếp sát chỗ nằm anh Bàn. Vũ đình Thụy cũng nằm gần anh Bàn.
Sinh hoạt chính của khu cách ly được biểu lộ rõ nét ở buổi trưa. Đây là giờ chuẩn bị ăn trưa và nghỉ trưa. Muốn biết quan điểm và thái độ của từng người tù, cứ điểm danh các nhóm ăn cơm chung là có đáp số rạch ròi.
Khi tôi sang nhà 4A, các nhóm quan điểm tự nhiên hình thành công khai. Góc đầu hồi trên bệ hành lang phiá sau nhà A4a được anh Bàn quét dọn sạch sẽ và trở thành chiếu sinh hoạt của nhóm chúng tôi. Chủ lực từ giấc sáng tan giờ đập đá là anh Kim Long, giáo sư Bảo, Lê Ngọc Vàng, Hoàng xuân Chinh … từ buồng A4b sang. Cơm trưa chủ yếu là anh Bàn và anh Trương văn Sương quán xuyến. Nơi chiếc chiếu này, lý thuyết Nhân Bản Việt được giáo sư Nguyễn văn Bảo đặc biệt chú trọng giải bày. Bác sĩ Nguyễn Kim Long phân tích chi tiết về các vấn đề của Hiệp định Geneve và Hiệp định Paris 1973. Anh Phan văn Bàn nói về các chiến dịch Phượng Hoàng và các kinh nghiệm. Trương văn Sương được hỏi kỹ về giai đoạn hoạt động ở Hoàng Sa và biên giới Thái Việt với tổ chức anh Trần văn Bá. Vụ án và tổ chức của ông Hoàng cơ Minh cũng được đặc biệt mổ xẻ tại không gian này một cách hết sức nghiêm khắc.
Lê thiện Quang (3) chủ yếu nói về yêu cầu hài hòa tôn giáo và yêu cầu chuyên nghiệp hoá các phản ứng mang tính cách chính trị, đây là người rất cứng rắn yêu cầu anh em lột bỏ những quán tính quá khứ quân đội của những người như anh Trương văn Sương, Vũ đình Thụy:
« …Chúng ta 20 năm trước là những Thiếu úy, Trung úy, Đại úy. Nếu không mất nước mà còn sống, giờ này chúng ta đã phải mang trách nhiệm của những Đại tá, Thiếu tướng, Trung tướng … cầm vận mạng của hàng chục ngàn chiến binh và gia đình họ. 20 năm đã trôi qua, đừng ám ảnh cái dĩ vãng Thiếu úy Trung úy nữa! Quân đội đã mất, vũ khí đã mất, nước cũng không còn … việc hôm nay của chúng ta là việc của những bậc đại sĩ làm chính trị hưng quốc. Tầm vóc ấy hàng ngàn thằng Thiếu úy Trung úy không so sánh được! Phải nhận ra trách nhiệm lớn lao của từng người … »
Quang là người Công Giáo Phú Cam, truyền thống giữ đạo của người vùng đất thánh địa La Vang là một truyền thống hết sức đặc biệt. Vụ án của tôi bị kích lên hàng tối nguy hiểm để xử tòa đại hình đồng lúc sơ chung thẩm cũng là vì những nghi ngại liên quan đến lực lượng công giáo Phủ Cam, bởi Trần Tư đầu vụ có xuất thân từ Phủ Cam, Văn đình Nhật cũng có những dấu chỉ liên quan mật thiết với Phủ Cam, Phạm đức Hậu từ Mỹ về trước khi bị bắt hầu hết quan hệ đều dính dáng tơí các họ đạo Công giáo và Đỗ hồng Vân lại liên quan chặt chẽ với các nhóm lực vũ trang Cao đài và Phật Giáo Hòa Hảo! Vụ án tiềm tàng một nỗi ám ảnh mà cơ quan an ninh đầu não cộng sản luôn luôn sợ hãi, đó là thế lực hành động của các lực lượng tôn giáo.
Trong bối cảnh ấy, Quang là người khả dĩ có thể nói rất cứng với những anh cựu sĩ quan VNCH khác, bởi bản tánh cũng như tầm hiểu biết của Quang là rất vững vàng. Xuất thân sĩ quan Nha Kỹ Thuật cũng tự nhiên làm thành tường lũy để anh có thể phát biểu những ý tưởng võ tuyên với tất cả những anh em tù A 20 mà ít ai là không phải suy nghĩ sau khi nghe những điều anh nói. Một người hiểu biết nhiều nhưng không phải bạ chỗ nào cũng phát biểu những suy nghĩ của mình.
Chiếu ăn nhóm chúng tôi khoảng 12 người sau khi tôi tách nhóm sinh hoat của Đỗ bạch Thố và anh Phạm anh Dũng. Mục đích là tránh sự chú ý của phiá giám thị vào những nhân lực chủ yếu luôn muốn hành động chống lại chủ nghĩa cộng sản bằng bất kỳ giá nào hoặc kiểu cách nào.
Hoàng xuân Chinh sống một mình vơí sự kham khổ đến mức tối đa. Nguyễn văn Trung cũng vậy, Trần Minh Tuấn cũng vậy. Đây là ba con ngươì đăc biệt vơí những cá tánh cực kỳ đặc biệt, không chịu mang ơn bất kỳ ai, dù đời sống chỉ có cơm trại và rau muối. Trần minh Tuấn suốt ngày giang nắng ngoài trời, những vồng đất cằn phèn thế nào đi nữa, với bàn tay của Tuấn, chỉ hai ba tháng sau là khổ qua, đậu bắp, cà chua, cải, mướp, bạc hà mọc lên la liệt…anh em cũng nhờ vậy mà có thêm thứ để nhét vào bụng và cũng là cơ hội để nhét vào túi cói của Tuấn lúc thì chai nước tương khi thì vài lát đậu phụ, coi như có qua có lại vì ông thần nước mặn này vô cùng khái tính. Tính cách này 20 năm ròng, Tuấn mang theo nguyên vẹn qua tất cả các nhà tù khắc nghiệt nhất nhì Nam Bắc. Giờ đây, 16 năm sau khi bị tống xuất khỏi nhà tù và quê hương, nhắc đến anh, lòng tôi không khỏi mênh mang cảm giác luyến thương và kính phục, một mẫu người trai đất võ đặc thù của sông núi miền trung (Bình Định).
Khu cách ly A4 là nằm trên phần đất rộng nhất của các khu trong phân trại A (giờ họ gọi là Phân trại 1, theo như cựu tù chính trị đang còn trong nước, cô Phạm Thanh Nghiên (4) xác định). Khu này giếng không có nhiều nước nên anh em quyết định đào sâu thêm. Tôi vô cùng ái ngại khi biết rằng trước đây, thời còn các anh tù cải tạo 1978/1988, khu này là bệnh xá và nhà cầu bệnh xá cũ không xa nơi đang đào sâu thêm cái giếng định mệnh là bao! Giếng sau khi cố đào hàng tuần, nước cũng chỉ đủ ½ cho gần trăm con người nên giám thị buộc phải để đội phân bổ người xuống nhà bếp để gánh nước về dùng. Anh em rất nhanh đề cử tôi đi lấy nước cho nhà buồng, vì trong nhà hầu hết đều đã già yếu hoăc bệnh tật.
Mấy tháng đầu phiá trực trại không đồng ý cho tôi ra khỏi khu cách ly để đi xuống khu nhà bếp kéo nước giếng về nhà buồng … nhưng sau đợt cùm kiên giam 7 tháng, họ nhắm mắt khi thấy tôi cứ xồng xộc gánh đôi thùng đi kéo nước, phần vì thời gian cũng đã hai năm, tình cảm nơi mỗi con người chân chính khó có thể ghét nhau mãi được. Trên có hét hò thì hét hò, còn họ là ngươì dưới, miễn sao giữ không để chúng tôi làm loạn là được … nên mỗi khi tôi xồng xộc đi kéo nước, lại có hai ba cậu hình sự xách thùng chạy theo và ông quản giáo đội bếp phải canh chừng, đội trưởng đội bếp cũng lảng vảng suốt "hành trình" từ bếp đi qua nhà căng tin, qua cổng bệnh xá và vào khu cách ly. Tất cả các thường phạm đều được lệnh cấm triệt để không được chào hỏi hay dạ thưa gì vơí chúng tôi nếu như «vô phúc » phải đụng đầu. Nhớ có lần tôi bắt chuyện vơí một ngươì mẹ còn rất trẻ, chị đang địu đứa con chừng 5 tháng, vừa địu con vừa rửa rau, cả một xe bò rau muống …
- Tôi giúp cô được gì không?
- Bác cho cháu cái …sịp!
Người mẹ trẻ trả lời rất nhanh, mắt vẫn không rời những thúng rau bự chảng.Tôi sững người mất vài giây mới hiểu ra …
Cả tháng sau đó vô tình cũng một lần rửa rau ở bờ giếng. Cô bé than “Các ông ấy vặn hỏi cháu đến chết khiếp. Giờ bác có cho cháu cái gì cháu cũng không dám nhận! Hãi lắm”!
Đó là người thiếu phụ sanh con trong nhà tù, bị bắt án 12 năm vì tội “gánh Thánh Kinh vượt biên giới”! Lần ấy, qua một đứa em hình sự tôi nhờ bàn tay nữ giang hồ khét tiếng đất cảng là cô Dung Hà để lo chút đỉnh cho cô gái bé nhỏ ấy. Được biết là Dung Hà có lo lắng cho mẹ con cô này, trước khi được trả tự do và sau đó chết thảm trong một vụ thanh toán giang hồ với tổ chức xã hội đen Năm Cam ở Sài Gòn.
Giàn phong lan được các tù hình sự cắt gọt từ vách Núi Mành vốn treo la liệt khi chuẩn bị đón đoàn tù thứ hai ở A 20 ra trại 5 này, các đoàn “tham quan” cũng đã hai ba lần vào ra xem xét. Tôi ngứa mắt bèn đào hố và xuống khu chăn nuôi heo gánh phân chuồng (đã rất hoai / phân hủy). Mấy tay an ninh trại cũng đành chịu vơí quyết định ương bướng của tôi. Tay quản giáo tên Nghị phàn nàn vơí tôi “Anh thật quá quắt! Giàn phong lan như thế anh cho mướp đắng vơí bầu leo lên thì còn gì là phong lan?”. Tôi trả lời nhã nhặng nhưng không kém cứng rắn:
- Chúng tôi cần sống! Tất cả những thứ anh em tôi trồng ngoài đội đều bị ăn cắp hết! Giờ tôi làm thế này, lan sống đươc thì càng đẹp, không sống được thì để chúng tôi sống!
Quản giáo Nghị ừ hử một vài câu rồi bỏ đi.
Giàn phong lan hai tháng sau thành giàn bầu bí và khổ qua dày đăc, trái ra cơ man nào là trái. Nhóm chúng tôi kéo chiếu xuống giàn mướp đắng. Không gian này vơí tôi thành chồng chất biết bao kỷ niệm.
Một lần Đỗ Bạch Thố tỏ ý muốn làm lễ giỗ cho ông Hoàng cơ Minh và anh em đã chết trong cuộc xâm nhập từ Thái năm 1987 (“Đông Tiến” 2). Đó là tuần lễ cuối cùng của tháng 8 năm 1996. Tôi nhìn Thố, nhẹ giọng.
- Cùm đấy bồ tèo!
Thố cười khoe đôi hàm răng đã bị đánh gẫy hơn nửa.
- Cùm thì cùm chớ ngại gì! Anh em họ cũng cần chút hương khói…
Mâm cơm cúng có một con gà luộc vàng lườm, có xôi trắng của Quang cho gạo, hai đĩa muối. Thố kêu tôi chủ lễ nhưng tôi từ chối.
- Ở đây chỉ ông có đủ tư cách chủ lễ!
Anh em về từ Thái có Bình là nhóm Đông Tiến 1 nhưng vì khi ở A 20 Bình có thời gian làm đội trưởng mội đội làm gạch, lại có một số vấn đề lớn còn khúc mắc trong giai đoạn xâm nhập cùng đoàn ông đại tá Dương văn Tư … nên chỉ có Võ Kỳ Phát và Đỗ bạch Thố là hai người của đoàn xâm nhập 1987 đang có mặt tại khu cách ly chính trị trại 5.
Nhóm Đông Tiến 3 ở khu nhà 1A (nhóm Trần quang Đô tức Đào bá Kế), mấy đứa em làm cách nào đó tôi không biết, chuyển được cho Thố chừng gần một xị rượu đế (cỡ 200ml).
Các đầu vụ đang có mặt tại khu cách ly đều biết giờ làm giỗ, hầu hết đều có mặt, chiếc cốc nhựa đựng cát sạch dùng để cặm chân nhang (do hình sự Nguyễn văn Linh tìm nhang bên khu nữ) khi tàn, tôi đếm là 22 gốc nhang.
Anh em từng người bái nhang, lâm râm khấn vái, lòng biết chắc là hôm sau sẽ to chuyện.
Ngày hôm sau Thiếu tá Lâm an ninh trại ra lệnh tập trung toàn bộ tù ra từ A 20, lên hội trường họp.
Buổi họp được gọi là buổi kiểm xét đột xuất và sự việc cúng giỗ ông Hoàng cơ Minh và đoàn quân xâm nhập từ Thái Lan 1987 đươc ông Lâm lên lớp tuyên giáo. Tôi yên lặng quan sát thái độ từng người vì biết chắc ông ta sẽ gọi một số người tiêu biểu (đã có ý quy thuận quyền lực nhà tù). Trù liệu của tôi xảy ra đúng y xì. Ông Phạm đức Khâm, ông Michel Nguyễn Muôn bị mời đích danh phát biểu. Khá bất ngờ là cả hai ông đều nói rằng việc đó là việc đạo nghĩa cá nhân của mỗi người, các ông không ý kiến. Tất cả những người cứng rắn đều ở tư thế chuẩn bị phát biểu, không khí bắt đầu căng thẳng...
Có lẽ chỉ muốn cho xong việc vì đây là thừa lệnh của cấp trên, nên thiếu tá Lâm sớm nói lời kết thúc. Khi nói lời kết thúc, miệng ông có khuynh hướng dòm vào chiếc túi áo ông ta… và tôi hiểu là ông ta nói cốt cho cái micro đang ẩn trong ấy nghe rõ.
Tôi nhìn anh Bàn. Anh Bàn chớp mắt nhẹ lắc đầu. Nhìn qua Trung, Trung đưa mắt sang anh Bàn. Tôi hiểu là không nên dồn Lâm vào đường bí nên im lặng không phát biểu.
Buổi họp kiểm xét xong, về buồng, hai sĩ quan cai tù vào tận chỗ Thố đề nghị Thố đi làm việc. Buổi chiều, mấy người hình sự được lệnh gói hết đồ đạc của Thố niêm phong lại và cho đem vào khu cùm duy nhất một chiếc chiếu đơn đã rách tơi hẳn một góc.
Đợt cùm này khởi đầu cho nguyên một mùa cùm của chúng tôi, Đỗ Bạch Thố, Nguyễn văn Trung lai, Trương văn Sương, Phạm văn Thành, Phạm Anh Dũng, Nguyễn Ngọc Đăng, Vũ Đình Thụy, Hoàng Xuân Chinh và người tù Fulro luôn có ánh nhìn căm thù tất cả mọi dạng người Kinh. Mùa gặt cùm này tôi bị kéo dài 7 tháng cùng với cái chết cô độc của Kstum!
* * *
Vì sự nhạy cảm của đội tù chính trị miền Nam đang có măt tại trại Lam Sơn, nhà tù phải cho các đội hình sự đánh xe bò để chở đá lớn từ ngoài trại, đem vào tận khu cách ly để tù chính trị lao động đập thành đá rải đường cung cấp cho bên công lộ.
Các anh tù miền Nam ra từ A 20 chuẩn bị chỗ ngồi đập đá của mỗi người thành như những bộ ghế dành cho các sơn vương xa xưa thường ngồi ngự. Thái độ bất cần quyền lực của kẻ cầm quyền thể hiện rất rõ ràng. Phiá giám thị cũng chỉ coi việc đập đá của nhóm tù miền nam là việc hình thức để giữ thể diện nên không có chuyện gay gắt bắt phải chỉ tiêu này chỉ tiêu kia...
Thời gian này có một sự lạ, đó là sự xuất hiện của một ông quản giáo đã đứng tuổi thay cho Nghị. Nghi là thiếu tá, tuổi ngang với tuổi tôi (sanh khoảng 1960). Người quản giáo đứng tuổi cư xử rất nhẹ nhàng với nhóm tù miền Nam. Điều lạ là ông ta gọi khoảng một nửa số tù từ miền Nam đang có măt tại trại 5 Lam Sơn. Từng người một để “làm việc”. Ông ta kê hai cái ghế ở góc một khoảng đất mà anh em đang trồng rau. Nội dung các câu hỏi xoáy quanh lý do “phạm tộ” của người được hỏi. Thời gian xảy ra vụ án và số người bị lĩnh án. Các anh đa phần sau khi “làm việc” đều thông báo chi tiết các nội dung cho tôi qua hai cầu nối là anh Bùi thúc Nhu và anh Trần Nam Phương. Nhóm tham mưu gồm Hoàng xuân Chinh, Trần minh Tuấn,Trần nam Phương, Nguyễn văn Trung, Nguyễn văn Bảo, Phan văn Bàn, Dương văn Sĩ, Lê thiện Quang, Lê ngọc Vàng, Phạm anh Dũng và tôi mỗi 4 ngày đều có một buổi trưa bàn thảo từng câu hỏi đã được đặt ra. Sau hai tuần, chúng tôi đều chung một nhận định rằng sự kiện tù A 20 là một sự kiện đã gây sự ngạc nhiên lớn lao cho tầng lớp quân cán chính tại toàn vùng Thanh Hoá. Ông Nguyễn văn Bảo nói.
- Ngựa đã sang sông! Ít nhất chúng ta đã làm được một nhiệm vụ. Đó là đánh tiếng cồng tranh đấu vang vọng vào tâm trí đồng bào của chúng ta ngay nơi vùng đất đã đẻ ra chế độ! Người có ý thức của miền bắc sẽ được hiểu là cuộc tranh đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản chưa bao giờ dừng lại tại miền nam, dù đã phải trả những cái giá cực kỳ thảm khốc!
Ông Bảo là người nhỏ con nhất trong đoàn tù từ nam ra bắc năm 1995. Thân mình nhỏ nhưng cái đầu của vị giáo sư trung học VNCH này là cực kỳ cứng rắn và sắc bén.
Người quản giáo đứng tuổi đến với đội tù A 20 được chừng hơn một tháng thì xảy ra chuyện.
Hôm ấy tôi và Nguyễn văn Trung đi cùng người quản giáo này để mượn hai tấm ky khênh đá (bện bằng tre nứa đã đập dập luồn vào hai đòn cáng, dùng để hai người khênh đất hoặc đá cho xây dựng hoăc đào ao). Ky là mượn của đội “quá đà” - tức đội của Đào bá Kế. Không biết Trung đi lấy ky thế nào mà tên quản giáo của đội Đào bá Kế văng tục gián tiếp với Trung. Y đối đáp với viên quản giáo của đội chúng tôi đại khái là “ĐM, giã nhừ chúng nó ra, viêc đ... gì phải nhân nhượng”! Trung vác tấm ky lên chỗ tôi và mấy anh em đứng đợi, mặt tái đi. Trung là người mang hai dòng máu Pháp Việt, cao mét tám da trắng mũi cao đặc thù. Làn da trắng này khi giận là biến thành như xanh tái. Tôi đến gần ý muốn hỏi chuyện gì. Anh nói ngay.
- Không xong rồi! Thà là nó nói hẳn sau lưng mình! Chứ nó nói cố ý cho mình nghe … thì không xong!
Tôi đỡ một đầu tấm ky, nói với Trung.
- Ra đội đã anh Trung! Gì cũng phải bàn bạc nhau cái đã …
Từ bìa trại ra đến khu vực đội làm rau tự túc của nhóm tù từ nam ra trại 5 chỉ chừng 15 phút. Đội nằm bên một cái ao rộng, có ba bốn cây mít cổ thụ gốc hàng hai người ôm. Bờ giếng sạch và nước rất trong mát. Một hàng dừa khoảng 30 cây chạy chung quanh bờ ao sát vời cánh đồng cấy lúa quanh năm, được dẫn nước từ con đập mà tù đã đắp suốt nhiều năm để ngăn chuyển dòng nước sông Cầu Chày.
Bên những gốc dừa vừa được kê đá thành các chỗ ngồi để đập đá lớn thành đá dăm nhỏ. Quyết định đòi phải có sự đối mặt vơí quản giáo đội “quá đà” để hỏi rõ nội dung câu nói “gĩa nhừ” là nhắm vào ai? Nếu là nhắm vào đội tù từ A 20 thì nguyên cớ từ đâu?
- Nó là đòn nắn gân! Ta không phản ứng thì trưóc sau chúng cũng sẽ xếp ta ngang hàng với bên đội “quá đà”, tức là chúng mặc nhiên coi chúng ta là “phỉ”. Hoạt động phỉ!
Chinh nói dõng dạc và Tuấn đóng đinh đề tài bàn luận.
- Ngay sau đây, anh Vàng đại diện đội nói rõ ràng ý kiến của anh em với quản giáo, rằng chúng ta không chấp nhận câu nói ấy của một quản giáo nhà trại. Chúng ta cần sự minh bạch của câu nói đó! Để tỏ thái độ, bắt đầu từ chiều nay chúng ta sẽ phản đối việc lao động cưỡng bức. Đồng loạt không đi làm!
Vàng nhìn một lượt, thấy sắc mặt mọi người đều đanh lại hoăc cười nửa miệng, anh biết là không thể bàn lùi được. Vàng xoay người, đập đập chiếc mũ vải trên tay bước đi về phiá nhà lô (tức là nhà trực của quản giáo và bảo vệ vũ trang của mỗi đội tù).
Chừng 10 phút sau, người quản giáo đứng tuổi xuống tận gốc dừa nơi anh em đang ngồi uông trà. Ông muốn câu chuyện được chấm hết ở đây và ông nhấn mạnh rằng câu nói đó chỉ là một sự ngộ nhận. Nửa giờ đồng hồ nói chuyện qua lại, hai bên không có được điểm đồng thuận. Đội giữ nguyên quyết định chiều sẽ không xuất trại lao động.
Buổi trưa, một cuộc bàn thảo diễn ra dưới giàn khổ qua, quyết định sẽ xếp hàng trong sân khu cách ly. Đúng khi quản giáo và trực trại mở cổng để xuất khu, một ngươì sẽ đứng ra xác định thái độ bất tuân quyền lực nhà trại về việc lao động để bày tỏ sự phản đối thái độ của quản giáo đội “quá đà”. Yêu cầu tiến hành cuộc đối mặt công khai giữa đội tù từ A 20 và quản giáo đội quá đà! Người đứng ra xác định quan điểm ấy là tôi.
13 giờ, dưới cái nắng gay gắt. Khi quản giáo và quản chế vũ trang mở cổng, không khí khác thường thấy rõ. Bên cạnh viên quản giáo là hai người thượng tá phó giám thị. Quản chế súng dài bốn hay năm người đứng chắn ngang ngoài cổng khu. Đội đứng im sau khi anh Vàng báo danh số người hiện diện. Tôi tách hàng hai mét. Nói đủ lớn để tất cả mọi người đủ nghe từng câu từng chữ. Nội dung xác định việc bất đồng quan điểm đối vơí thái độ phát ngôn của viên đại úy quản giáo đội quá đà, đồng thời yêu cầu phải trực tiếp đối mặt với viên đại úy đó để làm rõ ràng về nội dung lời đã phát biểu!
Dứt lời, tôi bước ngang hẳn bốn mét rời khỏi hàng chính thức của đội và yêu cầu những anh em nào đồng ý vơí sự phát biểu phản đối lao động mà tôi vừa đại diện trình bày, thì bước hẳn sang hàng phiá trái (tức hàng tôi đang đứng), anh em nào không đồng ý vơí sự phát biểu của tôi thì đứng nguyên hàng và xuất trại đi lao động bình thường.
Không khí đấu tranh quyết liệt hiện lên rất rõ ràng. Ba phần tư tách hàng đứng về phía bên trái. Viên phó giám thị mặt lạnh như tiền, bảo những anh em đồng ý xuất trại lao động xuất cổng. Cổng đóng lại sau khi các anh em đồng ý xuất trại bước hết ra sân ngoài.
Những người giám thị và quản giáo, trực trại, an ninh, giáo dục … không ai nói gì, quay đấu hướng về lầu giám thị. Anh em vừa tách hàng đứng ra bên trái tách nhanh, ai về tụm ấy. Ai cũng hiểu cái giá sẽ giáng xuống anh em sẽ xảy ra trong vài giờ tới.
15 h Hoàng xuân Chinh bị mời ra lầu giám thị làm việc.
16 h Vũ đình Thụy được mời đi.
17h30 Nhóm tù hình sự được lệnh gói tư trang của anh Thụy và anh Chinh niêm phong.
18h30 BÁO ĐIỂM DANH NHẬP BUỒNG. THỤY VÀ CHINH KHÔNG THẤY ÁP GIẢI VÀO KHU CÙM. Nghĩa là đi đâu không biết!
Không khí có vẻ khó thở, vì bản thân chúng tôi không có ai biết rành rẽ từng phân trại ở đây, chỉ mơ hồ nghe về Khu C, được gọi là K Chết, tức là khu trại gốc của thời Lý Bá Sơ, nằm hẳn sát vào bìa núi phía sau hẳn hai cánh đồng mà đội chúng tôi hằng ngày đập đá bên cạnh.
Buổi tổi tôi trao đồi với anh Dũng.
- Trận này sẽ rất căng. Ta cần người không bị dính gì đến qui chế kỷ luật để thông tin ra bên ngoài nên anh cần phải đối lập vơí em …
Dũng gật đầu, bảo anh biết rồi!
Quay sang Thố, tôi định nhờ Thố chuẩn bị một túi cói cho tôi, trong đó có những thứ thiết thân là bàn chải đánh răng và thuốc phong thấp. Tôi chưa nói thì Thố đã bảo “xong hết rồi”. Thố vừa ra buồng cùm sau 2 lệnh, người như một con cá cơm khô đét!
2. Tháng 11 trời đất Bắc đã rét ngọt, tôi bước ra sân điểm danh với hai bộ quần áo trại mặc chồng lên nhau, dự phòng khi họ đưa vào buồng cùm thì với hai lớp quần áo, dù là áo trại mỏng lét, vẫn còn hơn là một bộ sơ sài.
Giờ điểm danh 6h sáng không khí trĩu nặng. Màn sương mù làm mọi thứ như càng trĩu nặng hơn. Việc hôm qua họ đưa Chinh và Thụy đi biệt tích là một sự việc nằm ngoài trù liệu của tất cả chúng tôi. Với suy nghĩ rằng họ rất ngại phân tán chúng tôi ra các trại hoặc phân trại khác, vì sợ dân chúng chung quanh sẽ ngày càng biết về sự hiện diện của đoàn tù miền Nam chúng tôi, vốn dĩ chính là hình ảnh phản kháng quyết liệt của miền nam đối vơí điều mà họ thường rêu rao là thống nhất bắc nam trong hạnh phúc và mơ ước của dân chúng miền nam. Điều này, trong tất cả những cuộc thăm gặp thân nhân, những buổi áp giải ra đội lao động và qua sự nghiêm ngặt cấm triệt để mọi hình thức tiếp xúc của các tù nhân hình sự khác… cho chúng tôi hiểu rõ sự sợ hãi này của họ.
Việc « ông » quản giáo đứng tuổi được đưa vào quản đội, mà qua chỉ một vài câu hỏi với quản giáo Nghị cùng sĩ quan an ninh, giáo dục … chúng tôi hiểu ngay được là một sự việc bất thường. Thứ nhất là vị ấy đã cao tuổi. Thứ hai là thái độ nhã nhặn đăc biệt và thứ ba la thái độ khoảng cách đăc biệt của những sĩ quan cấp tá vừa lên bậc (tuổi ngang ngửa với tôi đang nắm an ninh, giáo dục, trực trại, quản giáo … của trại này). Khoảng cách ấy cho chúng tôi hiểu là người quản giáo già KHÔNG PHẢI NGƯỜI CỦA TRẠI NÀY.
Thái độ hỏi han, tình tiết hỏi han của ông ta lại càng chứng tỏ không phải là của công an quản giáo chuyên nghiệp. Quản giáo chuyên nghiệp họ biết rõ họ được hỏi người tù chính trị về những điều gì và những phạm trù nào họ không được đụng đến hoặc tránh hẳn không muốn đụng đến.
Bằng cách dọ hỏi gián tiếp thêm qua 8 đưá hình sự ở chung (đều là nhân lực được gởi gấm của đội ngũ giám thị) chúng tôi lại được biết vị quản giáo này MÀY TAO với giám thị trưởng Phạm Ninh. Với tôi thế là đáp án đã được mở, khi liên hệ lại hành trạng khác thường của giám thị Ninh lúc tôi mới đến trại.
Lần gặp gỡ bất thường ấy chỉ có tôi và ông ta trong khu cách ly (điều này hoàn toàn không bình thường và trái nguyên tắc, vì theo thông lệ, luôn luôn có hai sĩ quan bảo vệ đi kèm giám thị trưởng khi giám thị trưởng bước vào không gian sinh hoạt của phạm nhân, nhất là là những phạm nhân được đánh giá là đăc biệt nguy hiểm).
Lần ấy sau khi ông nhắc đến việc ông từng có mặt tại chiến trường Khe Sanh và An Lộc thời 1967 / 75 ông trầm giọng nói vơí tôi câu nói đặc biệt « Tôi xuất thân là một người lính và đến chết vẫn là một người lính. Hãy nhìn tôi là một người lính ». Lần ấy ông kín đáo ghi âm trọn vẹn buổi nói chuyện đã diễn ra. Tại sao ông đã phải gặp tôi như vậy thay vì gặp ngoài nhà làm việc (mà các phòng đều có hệ thống ghi âm)?
Những câu trao đổi qua lại cũng nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của một giám thị trưởng. Những câu hỏi đều dẫn đến mục đích để biết tận tường rằng tôi có thật sự là Phạm văn Thành hay không, với những tình tiết nhân thân đăc biệt mà nếu không đúng là tôi (với giai đoạn tuổi thơ đăc biệt), sẽ không ai trả lời được.
Qua những câu hỏi đó, tôi hiểu được là phiá giám thị Ninh đã có những thông tin riêng về hoàn cảnh gia đình của tôi mà chắc chắn đã phải có người tiếp xúc đến tận làng quê của tôi, với những thân nhân còn sót lại và với cả những đứa bạn thân tôi thủa niên thiếu. Những đứa bạn tôi đã bằng mọi cách dấu biệt các sự liên hệ khi quyết định lao vào cuộc chơi sinh tử với nhà cầm quyền cộng sản. Những sự điều tra về nhân thân, chắc chắn phiá an ninh chính trị điều tra bên A15, A16 và A24 đã làm chi tiết, nhưng phiá V26 thì chắc chắn không thể có được những tình tiết ấy nếu không có một « đường chuyển » đặc biệt.
Những điều vị quản giáo già quan tâm dò hỏi các anh của những vụ trọng án đang sống trong khu cách ly đều xoáy vào một chủ đích: Tìm ra nguyên nhân, thời gian và nhân lực đã tiến hành các vụ bạo kháng. Điều này nằm ngoài hẳn chức năng và quyền hạn của một quản giáo trại tù. Tất cả các câu hỏi đều được hỏi giữa … vườn rau, nơi không thể có một thiết bị nghe nhìn nào có thể cài cắm!
Điểm danh được chừng 30 phút, Trần minh Tuấn marathon đụng đầu tôi vòng thứ nhất, nói vừa đủ tôi nghe: « Đợt này anh đi một mình, tôi ở ngoài … ». Lời nói ngắn cụt ngủn nhưng đủ để tôi hiểu rằng Tuấn e ngại việc thông tin không ra khỏi trại được nên quyết định ở vòng ngoài cốt để tìm cách chẻ thông tin về cho gia đình, thân nhân. Một cảm giác ngậm ngùi lan tỏa trong tôi, vì tôi biết, sở trường này không phải của các anh, nơi xứ sở hoàn toàn lạ lẫm và cô độc này. Chọn lựa của Tuấn chắc chắn phải là một chọn lựa không hề dễ dàng, khi hầu hết những người đứng tách hàng hôm qua đều là những người đã từng sát cánh với anh trong tất cả những cuộc « hành trình cùm kẹp », từ ngày có vụ làm tờ báo Hợp Đoàn của A20 do ông Vũ Ánh khởi xướng thời thập niên 1980. Sáng hôm qua, khi anh đứng nguyên bên “hàng thuần phục” chờ xuất trại, tinh mắt sẽ nhận thấy hai đầu gối của anh có những lúc như run rẩy. Trạng thái này không qua mắt được Hoàng xuân Chinh, vốn xuất thân từ một gia đình chuyên bắt mạch, bốc và sắc thuốc Nam.
Tôi bước Marathon vòng thứ ba thì ông Sơn chặn tôi lại. Ông Lê văn Sơn đã gần 70, là một nhân sĩ Phật Giáo Hòa Hảo. Ông hỏi ngay.
- Liệu chịu được không Thành? Chắc chắn sẽ rất lâu đấy!
Tôi đáp là tôi nghĩ đủ sức chịu đựng. Ông cầm lấy bàn tay tôi bảo xòe ra rồi đặt vào vỉ thuốc Bi Profenid. Vỉ thuốc tôi mới chia ra đưa cho ông hai tuần trước, khi thấy đầu gối của ông sưng to không đi được. Vỉ thuốc còn 8 viên, nghĩa là ông uống thấy bớt đau nên giữ lại để dành. Tôi cau mày nói với ông là uống thuốc như vậy không hạ đau được bao lâu. Thuốc tôi đưa là để ông uống 7 ngày liên tiếp. Đây là thuốc tôi phải nhịn nhục nài nỉ họ (giám thị trại tù) mới chịu đưa. Họ cũng biết là tôi lấy để chia cho anh em chứ chẳng phải giữ cho riêng mình làm gì. Tôi nói ông Sơn nhận lại mà ông nhất định không nhận. Tôi đổ quạu sau khi nói rằng tôi vẫn còn đủ cho tôi. Tôi nói.
- Họ không thể để em chết! Anh phải biết là như vậy! Các anh có thể chết nhưng em họ không thể để cho em chết!
Thấy tôi quạu, ông Sơn bãn lẽn cầm vỉ thuốc nhét vào túi chiếc áo nâu đà đã bạc phếch. Đôi mắt già nua chớp chớp nhìn lên trời …
7h đội xếp hàng chờ xuất cổng. Vẫn hai hàng cách biệt. 2 phía 2 thái độ chống đối và an phận đã hiển lộ tỏ tường.
Cổng khu cách ly mở. Tiếng sợi dây xích vừa được bổ xung thêm đêm qua được cố ý kéo qua các thanh sắt nghe rất khó chịu. Khoảng 6 người bước ra cổng, trong đó có Lê ngọc Vàng là đội trưởng và sát ngay Vàng là Trần minh Tuấn. Mặt Tuấn lạnh lùng không cảm xúc.
Cổng đóng lại với những vòng xích sáng loáng.
Khoảng 9h Trương văn Sương được gọi đi làm việc. Anh đi ra khỏi cổng, giọng cười ặc ặc cố hữu khi bước ngang cửa buồng tôi. Anh đi chân đất, tướng pháp lềnh khênh với mái tóc muối tiêu hớt carré cứng cỏi.
Khoảng 10 h, tư trang của anh Sương được niêm phong. An ninh và hai người thi đua (5) áp giải anh vào khu cùm cuối trại, sát phần chuồng heo và nhà bếp, ngăn cách với nhà 4 nữ, kế cận « giếng tiên » (6) .
Khoảng hơn 10 h, Nguyễn văn Trung (Trung lai) được mời đi ra lầu giám thị. Trung đi rồi tôi nói với cư sĩ Trần nam Phương: "Ta tiến hành chuyện bộ lòng thôi!". Phương thảng thốt nhìn tôi, ý như không muốn nghe rõ. Tôi lập lại lần thứ hai: "Ta chuẩn bị thôi anh!". Phương ngần ngừ, hai tay xoắn xoắn vào nhau. Tôi cứng giọng, từng tiếng một "Em có làm sao sẽ đều là do khâu sát trùng…". Phương ù ừ rồi đi nhanh ra phiá sau, nơi gốc mướp có anh Phan văn Bàn đang quạt bếp than nấu trà.
Việc này chúng tôi đã bàn rất kỹ. Anh Kim Long đã chỉ dẫn tôi rất chi tiết thủ thuật rạch bụng moi ruột ra mà không chết. Con dao làm từ chiếc liềm cụt nhặt ngoài đội đã đưọc anh Bàn đàn qua lửa than đá thành một ngọn dao lá cực sắc và cất dấu ở đâu đó. Nơi tôi mổ bụng sẽ là chỗ nằm của tôi, sát bên chỗ nằm của tu sĩ Mai đắc Chương và Trần nam Phương. Điều kiện thiết yếu là nền đá phải cực sạch. Đìều này Phương phải chịu trách nhiệm. Lần thử sau cùng bằng mực hạt mồng tơi, tôi đã làm rất nhanh và chính xác. Lần ấy anh Long nói.
- Đây là việc đối đế mà chỉ có Thành làm được. Anh em nội địa mà làm thì chúng sẽ để cho chết luôn. Chúng sẽ không tận lực đưa đi bệnh viện khẩn cấp. Từ đây ra bệnh xá Sao Vàng chừng nửa tiếng. Đến đó được là sống. Từ đó chúng sẽ đưa ra bệnh viện huyện Thiệu Yên rồi sau đó ra Thanh Hoá. Điều cần yếu là phải giữ thật sạch bộ lòng của Thành!
Lần thực tập « giả đò» đó, anh Bảo là người phản đối. Anh vốn người hiền lành nhân đức, từ bé đến già chưa từng chặt chân hay cắt tiết một con gà. Anh nói.
- Mấy cha bạo lực quá! Anh không đồng ý đâu!..
Anh Long nói rất cứng: « Tôi bảo đảm hắn không chết! Một là hắn rất tỉnh táo, không run tay. Hai là …tử vi hắn còn sống lâu »!
- Chuyện tử vi thì anh không bàn. Nhưng chuyện máu me thì anh không muốn! Rồi còn thày Chương nữa. Máu me lênh láng ra chỗ ổng nằm, ám ảnh người ta suốt đời…
- Tôi là tôi không chịu! Nhất lại là máu anh em mình!
Anh Bảo kết câu chuyện bằng thái độ vùng vằng rồi bỏ đi, ra tận góc thật khuất của mấy luống khoai môn Tuấn trồng, ngồi một mình.
Anh em ba người tiếp tục bàn thực hiện ý định còn Trần nam Phương, anh Long và tôi. Phương nhặt được một chiếc liềm cụt -dấu trong háng- mang được vào buồng đưa anh Bàn, bảo anh Bàn lấy nó làm con dao thật bén vì Thành nó cần. Việc này anh Bàn chỉ biết đến vậy. Con dao cũng được dấu riêng biệt và hàng tuần được Phương nhắc để anh Bàn kín đáo đem ra nướng than lại. Một cái chậu nhôm cũ đã được Phương mua lại của ai đó rồi đánh cát đánh tro cực kỳ cẩn thận treo trên giàn mướp. Có mấy lần anh Sương lấy chậu ấy đựng rau, bị anh Phương la như tát nước! Chả ai hiểu cái chậu ấy có điều gì quái gở mà Phương không cho bất kỳ ai đụng đến, thậm chí cả anh Bàn. Chỗ nằm của tôi bên thày Chương và anh Phương được Phương nhúng nước sạch lau bóng mỗi buổi trưa. Thày Chương thấy lạ mấy ngày đầu nhưng rồi cũng quen đi …
Giờ là lúc thực hiện. Phương bần thần xách nước vào chỗ nằm của tôi, lau rửa cực kỳ cẩn thận. Cái chậu nhôm được mang vào. Thày Chương ngồi trên võng, tay cầm cỗ tràng hạt …
Có tiếng gõ cổng sắt khá lớn, tôi nhìn ra không thấy cán bộ nào cả. Chỉ thấy ông Quý với Kiên hình sự đang đứng sát cổng. Ông Qúy ngoài 70, người Cao Đài, nguyên võ sư, hay cầm đá đứng gần cổng sắt, gặp cán bộ đi ngang ông ném thẳng cánh. Đá chưa bao giờ trúng đích vì các chấn song của sắt thường làm lệch mục tiêu.
Chừng 10 phút sau cổng khu cách ly mở. Kiên thoát ra ngoài. Cũng chừng 10 phút sau Huy giáo dục đi vào buồng tôi hai ba vòng rồi đi ra. Huy ra rồi trực trại vào hỏi tôi ở đâu. Tôi đang ngồi chiếu sau hè với anh Long.
Huy yêu cầu tôi ra ngoài nhà cơ quan làm việc. Lúc này đã gần trưa. Việc này bất thường. Khi tôi ra khỏi cổng khu cũng là lúc Trung được dẫn vào sân trại, men theo tường bên khu nữ để vào nhà cùm. Hình như họ cố ý cho tôi nhìn thấy Trung bước hẳn vào nhà cùm.
Tôi được dẫn lên lầu trực trại thay vì ra ngoài khu nhà cơ quan. Thiếu tá Hùng ngồi chờ tôi sẵn. Đây là trưởng giáo dục toàn phân trại, đồng cấp với một người cũng tên Hùng nhưng mang họ Lê Khả. Lê Khả Hùng cao ráo trắng trẻo mặt sáng, khác với ông Hùng này, xạm đen và lời nói thoát ra từ hai hàm răng lúc nào cũng như muốn khít chặt.
Hùng kêu tôi ngồi ghế đối diện. Mặt Hùng như phảng phất một làn sát khí. Tôi ngồi xuống ghế, lòng nghĩ thầm "rõ thật là dở hơi ".
Hùng chằc hơn tôi một hai tuổi, thái độ của người lúc nào cũng thấy mình là quan trọng. Kiểu cách nói luôn như muốn lên gân để chứng tỏ quan điểm và vị trí. Ông hỏi ngay khi tôi đã ngồi hẳn xuống ghế.
- Nghe chừng như là anh lại muốn làm loạn?
Tôi khá ngạc nhiên, không nghĩ là mình sẽ phải nghe câu hỏi này với thái độ này. Với tôi, Hùng không là gì cả. Ở trại này tôi chỉ nể giám thị trưởng Phạm Ninh. Nể không phải vì tài cán hay quyền lực mà nể vì cái tính lính tráng của ông ta. Từ ngày vào trại, tôi biết rất rõ ngay đến giám thị cũng không có quyền hạch sách điều tra tôi, vì tất cả các cuộc "làm việc" từ ngày tôi ra đây, toàn do từ “trung uơng” về làm, và người khét lẹt nhất là đại tá mật vụ La văn Tiếp, khi làm việc cùng tôi cũng không dấu được nét e ngại. Vậy hà cớ gì ông thiếu tá này xử dụng thái độ quyền lực với tôi, một thái độ mà cánh trung ương đã có kinh nghiệm và hiểu rất rõ sẽ là vô giá trị đối với tôi, từ ngày còn ở A20 Xuân Phước!
Tôi bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt Hùng. Ông ta cường liệt đối mắt lại. Trong vài giây như vậy, tôi hiểu được là ông ta thực sự đang nghĩ mình là người mang chính nghĩa. Đây là đởm lược chỉ những người đang nghĩ mình đích thực là chính nghĩa mới mang được tia mắt ấy. Tôi nhẹ giọng.
- Ông nghĩ thế nào là làm loạn?
- Chúng tôi nuôi các anh không thiếu thứ gì. Ở đây các anh có tất cả. Các anh còn đòi gì nữa?
- Danh dự! Các ông có thể tước đoạt quyền tự do của chúng tôi nhưng các ông không tước đoạt danh dự chúng tôi được nếu chúng tôi cương quyết gìn giữ! Chúng tôi cũng không cần các ông nuôi. Các ông không hiểu gì về công pháp quốc tế về quyền dân chủ chính trị nên các ông bắt bừa chúng tôi vào tù …
- Anh biết thế nào là dân chủ? - Hùng ngắt lời tôi, sẵng giọng, lưng hơi dựng thẳng lên thoát khỏi lưng ghế.
Tôi cố giữ giọng nhẹ nhàng.
- Dân chủ là người dân có quyền nói lên tiếng nói của họ. Người làm chính quyền nếu không được lòng dân, phải bị bãi nhiệm …
- Các anh nói các anh có thể bãi nhiệm được chúng tôi à? Anh điên khùng hay ảo tưởng? Dân ở Việt Nam đều là của chúng tôi. Tất cả đều cần chúng tôi... Các anh là một lũ ất ơ, tháo chạy ra khỏi nước rồi giờ về đòi chúng tôi chia quyền. Đừng mơ! Hiaz! Đừng mơ mộng hão huyền …
Tôi thấy không thể nói chuyện tiếp tục với tay Thiếu tá này. Cái đầu này đã đóng đinh vào những giáo điều và càng nói, sẽ chỉ càng gây tức giận thêm cho cả hai người. Tôi quyết định chọn thái độ im lặng.
Ông Hùng nói khá nhiều về dân chủ và hai ba lần hỏi hằn học lại tôi rằng "…các anh nghĩ chúng tôi sẽ cho các anh chia quyền à …". Thấy tôi không phản ứng gì, cũng không lên tiếng phản bác, ông chuyển sang một câu hỏi khá « ngoài luồng ».
- Anh nghĩ thế nào về bác Hồ?
Tôi khá bất ngờ vì câu chuyện bị quẹo cua quá gấp.
Dựa hẳn lưng vào ghế, tôi từ tốn đáp.
- Ông chắc có đọc Ngục Trung Nhật Ký?
- Đọc chứ sao lại không?
- Ông chắc hẳn có đọc Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện?
- Đọc! – Hùng có vẻ khó chịu khi tôi hỏi thay vì trả lời. Ông dằn cốc nước trà trên mặt bàn gỗ lim bóng loáng. Tôi nhìn theo cái đà dằn của đáy cốc để tìm xem nội lực hàm chứa của Hùng đến đâu. Thấy cũng tầm thường nên tôi hỏi tiếp.
- Chắc cán bộ biết nhà văn Trần Dân Tiên?
- Biết!
- Chắc cụ Trần Dân Tiên có nhiều tác phẩm giá trị?
- Ừ, tôi nghĩ vậy!
- Cán bộ có biết bác Hồ có người con gái ở Pháp không?
- … Anh định láo toét với tôi đấy à?
Tôi vẫn bình tĩnh hỏi tiếp, chậm rãi.
- Cán bộ có biết ông Hồ Học Lãm không?
- Không! Chỉ nghe qua thôi!
- Bác Hồ là một nhân vật lịch sử còn bị bao trùm bởi nhiều điều huyển bí …
- Các anh chỉ là những người ăn càn nói bậy! Các anh xúm nhau đi bôi bác bác Hồ, lại còn nhận mình là người yêu nước. Nói tóm lại cho các anh hiểu nhá. Chỉ có bác Hồ là người yêu nước! Chỉ có bác Hồ mới có thẩm quyền nói đến bốn chữ “danh dự dân tộc”! Còn thì các anh nhá... Quên đi!
Tôi lại ngồi thinh lặng, mắt thỉnh thoảng nhìn thẳng vào mắt Hùng. Hùng không bao giờ né tránh ánh mắt tôi nên có thể nói hai người những năm sáu lần “đấu võ mắt” với nhau. Lần nào tôi cũng là người làm hoà trước, nghĩa là hướng tia nhìn ra khỏi tầm sát phạt trực tiếp. Tôi không sợ, nhưng biết là thắng thua không ích gì, chỉ thử lửa với nhau để hiểu nhiệt tâm của của nhau đến đâu mà thôi.
Có tiếng mở cửa. Tôi không quay lại. Hùng đứng lên, khom người chào người mới vào. Tên ông là Vân. Hùng gọi là Ban Vân. Ông Vân mang hàm Thượng tá, người cao ngang ngửa tôi, tướng pháp sang cả, trắng hồng, không có bụng như đa phần đám thượng tá đại tá từ trung ương vào. Ông chào tôi rồi kéo ghế ngồi.
Ông Hùng hỏi lại câu nói ban nãy.
- Anh định làm loạn nữa phải không?
Tôi đã thấy cần phải cứng rắn, nên nhìn trực diện vào con ngươi Hùng.
- Loạn hay không, tùy các ông thôi!
- Anh nghĩ là ở đây, trại 5 này … mà anh có thể đứng giữa sân quát tháo đòi tự do đòi nhân quyền cho các anh như ở Xuân Phước được à! Gô cổ anh lại ngay chứ lỵ …!
Tôi không nói gì, vẫn điềm nhiên bám sát con ngươi của Hùng, Hùng đứng lên, vung tay áo như làm cho dãn xương cốt. Ông Vân vẫn không nói gì.
Khoảng ba bốn phút sau lại có tiếng gõ cửa rồi tiếng Lâm an ninh bảo “đã xong rồi “!. Ông Vân đứng lên bước ra ngoài phòng.
Lâm cầm tờ giấy có dấu đỏ nói với tôi.
- Anh Thành. Ban giám thị quyết định kỷ luật anh vì lý do anh có ý đồ tổ chức gây rối loạn sinh hoạt trại. Giờ mời anh theo chúng tôi!
Tôi bình thản đứng lên, đẩy ghế lại dưới bàn và nhìn Hùng.
- Chào cán bộ!
Hùng chắc có phần ngạc nhiên vì thái độ nhẹ nhàng của tôi, lại thấy tôi không hề có phản ứng gì khi biết mình bị kỷ luật (nghĩa là bị cùm chân như giam một con mãnh thú). Ông bật ra một câu gần như vô nghĩa “… con gái tôi nó học tiếng Pháp, năm nay là đầu trường đấy …”. Tôi bất chợt nghe chùng lòng xuống. À thì ra, đám đàn ông chúng ta đều có chung một cảm xúc, đó là đều rất thương yêu con gái mình, thường là thương hơn những thằng con trai, lo lắng hơn, hãnh diện cũng hơn … Ở Thiệu Yên Thanh hoá mà học tiếng Pháp, gần như là một điều gì đó có thể được hiểu là văn hoá văn minh, hơi khác với chỉ học Anh ngữ hoăc Hoa ngữ. Tôi nhẹ giọng.
- Vâng, con cái, nhất là con gái … chúng là cả cuộc đời của chúng ta!
Giọng tôi có lẽ có một thang âm bất thường nào đó nên trên khuôn mạnh luôn cố làm ra lạnh lùng quyền lực của người sĩ quan giáo dục bỗng thoáng hiện một nụ cười chất phác. Trong câu nói như khoe ban nãy, có lẽ ông cũng hiểu là gần như sẽ không có cơ hội gặp và trao đổi đối thoại với tôi lần nữa, mà tôi lại là người ở xứ Pháp xa xôi lần về. Ông khoe con gái học tiếng Pháp, gần như là một sự vô tình, đối với một người từng ở Pháp nhiều năm... phản ứng như vậy là phản ứng của một con người rất người, còn cái gốc nhân bản từ trong vô thức …
Tại sao chúng ta lại là kẻ thù của nhau nhỉ?!
Tôi đi theo Lâm, lòng miên man nghĩ về người nào đó là con gái của Hùng. Chắc phải là một thiếu nữ sang và đẹp. Bởi không, chắc sẽ không chọn ngôn ngữ Pháp làm hành trình sự nghiệp ở cái xứ sở cực nhọc vốn đang bật dậy tìm cách thoát nghèo này …
Hai người tù thi đua và sĩ quan trực trại đi bên tôi qua hết chiều dài sân trung tâm (cỡ bằng một sân bóng) rồi vào khu cùm. Từ cổng của nhà cách ly, anh em lố nhố đứng đầy chiếc cổng hẹp, đưa tay vẫy vẫy. Tôi nhướng mắt nhìn vào trong nhà, các ô cửa sổ gần phía sân trung tâm dầy đặc những cái đầu của anh em ra từ A20 Xuân Phước. Tôi nắm hai tay kiểu chào của Việt Võ Đạo lạy chào lại anh em. Cảm giác của tôi là sẽ phải xa các anh mãi.
Khu cùm xây cao hẳn lên trên một bệ bê tông cao gần đầu người. Khoảng 10 buồng đều quay hướng bắc, nghĩa là nhìn chòng chọc vào khu nhà 4 B Nữ. Bờ giếng rất rộng của khu nữ nằm chỉ cách “lầu cùm” khoảng 8 thước. Đám tù lưu cữu gọi cái giếng này là giếng tiên. Vì trại này, 1995 đổ về về trước, nam nữ hầu như tắm đều cởi truồng, vì đa phần đều nghèo khó.
Bước vào hẳn khu cùm, Thiếu tá Lâm yêu cầu tôi đứng nghiêm để nghe đọc lệnh kỷ luật. Người ký lệnh kỷ luật là Thượng tá Vân (họ gì tôi đã quên rồi).
Lệnh đọc xong Lâm lùi ra ngoài khu cùm. Sĩ quan trực trại cùng hai tù thi đua kè tôi lên những bậc thang. Khi đã đứng hẳn trên thềm hành lang tôi đưa mắt nhìn toàn cảnh để nhận rõ vị trí của mình. Mắt tôi đụng phải khoảng 10 tấm lưng trần đang ngồi xúm vào nhau quay lưng về phía tôi và người cán bộ. Họ đều không mặc quần áo và đang xối nước tắm, có những tấm lưng trắng hồng.
Trực trại dẫn tôi vào buồng số 5. Cánh cửa gỗ lim dày làm tôi có cảm giác dễ chịu khi liên tưởng lại tất cả các buồng cùm ở B34 và A20, vốn đều làm bằng sắt và gờ tường cũng là sắt thép. Âm thanh của sắt thép va đập mạnh gây rất khó chịu cho người cùm ở bên trong, vốn chỉ có một lỗ thông hơi chừng 15, 20 phân vuông.
Vào hẳn buồng, tù thi đua yêu cầu tôi lột hết quần áo. Hai ngươì nặn kỹ cả chim cò và nắn cả vào hạ môn. Tôi nói nhỏ "không có gì đâu mấy anh, bất ngờ thế sao mà chuẩn bị gì được…". Hai người, người nhỏ con tính tình láu cá rất liếng thoắng nhưng người to lớn thì cư xử rất chừng mực với tôi.
Cuối cùng tôi được mang một bộ quần áo trại. Sàn bê tông không có chiếu. Một người tù thi đua chạy vòng ra phiá sau tường hậu của khu cùm để đút đầu cây suốt dài khoảng 3 mét rưỡi chọc ngang qua bệ cùm bên trái để xuyên qua bệ cùm bên phải là chỗ tôi nằm. Người tù thi đua lớn con nâng tầm móng cùm cho chính xác với đầu cây suốt thép tròn to khoảng gần nửa cổ tay rồi hô lớn “đóng vào “. Đầu cây suốt phi qua lỗ sắt của bệ cùm, xuyên qua được một cái cùm bên chân trái của tôi. Đầu suốt được rút lại một chút rồi bất ngờ thục mạnh lần thứ hai, lần này đầu suốt đâm qua khoen cùm chân thứ hai, chui tọt qua lỗ thép xuyên tường để thòi đầu khoá ra bên ngoài hành lang. Tiêng suốt cùm xuyên qua các lỗ thép nghe gai người, tiện thể lấy mất của tôi một mảng da trắng ởn ở cổ chân phải. Tiếng người tù bự con la rất lớn “ĐM mày làm ăn kiểu gì thế …”. Phiá sau tường hậu không thấy đáp lại … tôi bảo không việc gì, dù rằng cú trượt cùm ấy làm tôi đau đớn muốn tái dại người đi.
Cùm được chốt lại. Khoá cùm được đóng bập từ bên ngoài. Cánh cửa gỗ lim ầm một tiếng mạnh sau khi người sĩ quan đại úy trực trại bước chân hẳn vào buồng cầm chiếc dùi cui điện gõ gõ vào cây suốt cùm vừa được thọc chui qua hai bức tường.
Bóng tối trần ngập, một mùi khai ùa vào khứu giác và tiếng muỗi bay hỗn độn. Phiá ngoài cửa, nối tiếp với âm thanh những đế giày và chìa khoá của ba người đàn ông đi khuất là những tiếng í éo của bầy phụ nữ, những tiếng càu nhàu bảo kỳ cọ chỗ này gãi chà chỗ kia, cả tiếng những bàn tay vỗ bèn bẹt trên da thịt và những tiếng cười ngặt nghẽo. Tôi ngồi cúi áp sát mặt vào thanh cùm, ánh sáng luồn từ đáy khe cửa hắt le lói vào nền buồng, mang theo cả những âm thanh của tiếng vỗ nước đặc thù chỉ phát ra từ một số điểm đặc thù của cơ thể người nữ. Những âm thanh mà chỉ có những người quen tắm sông tắm suối mới nghe nhận ra được! Tôi lẩm bẩm “ Bỏ mẹ con rồi “!
Khoảng 4 chiều tiếng cổng sắt khu cùm loảng xoảng mở rồi tiếng người trực trại tra chìa khoá vào từng buồng cùm. Trong mấy giờ vừa qua tôi đã biết được Trung nhốt ở buồng số 1 đầu tiên, rồi đến một ngươì tù về từ Thái Lan trong nhóm ông Hoàng cơ Minh đợt xâm nhập thứ ba -Đông Tiến 3 - đợt xâm nhập mà tôi đặt vô vàn nghi vấn từ khi biết sự có mặt của họ tại trại này và trại Thanh Liệt Hà Nội. Buồng thứ ba là Trương văn Sương, buồng bốn trống và đến buống tôi, buồng 6 trống, buồng 7 có một hình sự nữ không cùm. Các buồng nói với nhau vô cùng khó nghe vì trần cao kín mít chỉ có một lỗ gió rộng chừng 10 cm dài chừng 30 cm lấy gió vào từ phiá … chuồng heo sát khu bếp.
Các cửa buồng mở, mỗi buồng được tù thi đua đặt vào sàn cùm một nắm cơm và một chén nước (bằng nhựa). Khoảng 10 phút là xong công việc phát cơm như vậy cho tất cả các buồng. Tôi yên lặng không nói gì.
Đêm chập xuống, muỗi vô vàn là muỗi. Muỗi ở đây không hề hiền, chúng như những mũi tên, bay veo véo từ trên cao phóng phập xuống da thịt và cắm ngay đầu kim hút máu liền. Rất côn đồ thảo khấu. Tôi luôn tay đập muỗi mà chúng thì như bọn thiêu thân, không buồn né khi bị đập. Đâu ra thứ muỗi lạ lùng! Chừng 1 giờ đồng hồ như vậy thì chúng biến đi đâu mất hầu hết, chỉ còn lại mấy con vo ve như loại muỗi thường thấy. Nghĩ đến chiều chập tối ngày mai tôi rùng mình ớn lạnh. Đèn vàng vọt đã sáng lên trong buồng mờ nhạt, bàn tay tôi hiện rõ đỏ loe màu máu!
5h30 sáng kẻng báo thức, cổng khu cùm mở, tất cả các cửa buồng lần lượt được mở ra, trực trại thò đầu vào sau khi tù nhân lên tiếng báo cáo hiện diện. Tôi im lặng ngồi (đương nhiên là duỗi thẳng chân) không lên tiếng. Trực trại hỏi tôi.
- Khoẻ chứ anh Thành?
Tôi đáp “cám ơn các ông “, không thêm tiếng nào nữa. Có lẽ người tù thi đua hiểu thâm ý của tôi nên nói giả lả ngay “Sao lại là các ông, anh Thành?“.
Thâm ý của tôi quả đúng là đã bị ngươì tù thi đua nhận sớm ra. Nguyên vì các trại phiá bắc, tù nhân bất kỳ già trẻ lớn bé đều phải gọi cán bộ bằng ÔNG và xưng CON hoặc Cháu. Riêng với giám thị thì phải gọi bằng BAN xưng con hoạc cháu. Tù ở Nam ra tuyệt đối không ai xưng hô kiểu này và việc tôi đáp bốn chữ “ cám ơn các ông “ là hành vi cố ý coi người sĩ quan trực trại cũng ngang hàng bằng vai với hai người tù thi đua đang đi mở các cửa buồng điểm danh.
Khoảng 10 sáng cổng khu cùm lại mở. Lách cách tiếng những bát cơm bằng nhựa va vào nhau. Các cửa buồng được mở, tù thi đua đưa chén nước và nắm cơm vào rồi khoá cửa lại, từng buồng luôn có sự giám sát của sĩ quan trực trại. Bàn tay người tù thi đua to con ngần ngừ khi đặt nắm cơm lên bệ xi măng sát ụ cùm của tôi. Nắm cơm mới đặt cạnh nắm cơm cũ. Bát nước thì đã hết nước nên người tù thi đua đưa chén nước mới vào. Viên sĩ quan trực theo sát mọi hành vi của người tù tự giác mắt như tránh nhìn vào chố tôi đang ngồi duỗi thẳng đôi chân gắn với hai cổ cùm. Cửa đóng lại.
Buổi chiếu khoảng 4 giờ thủ tục đưa cơm lấy bát lại bắt đầu được lập lại. Bên gờ bệ cùm của tôi ba nắm cơm đã xếp bằng nhau. Chiều hôm nay tôi được đi đổ bô. Bô chẳng có phân nhưng tôi vẫn cầm đi ra. Chân đã có phần tê dại nên bước đi đã có vẻ chập choạng. Một tay lần theo tường để đi về phiá sau buồng cùm số 8 để đổ. Tôi đi chậm, tay cầm bô giơ ra bên phần đùi phải, cố ý cho mấy ô cửa sổ bên khu nữ nhìn rõ cảnh trạng “không mấy gì là đẹp đẽ“ này.
Đến sáng ngày cùm thứ ba thì sĩ quan y sĩ vào buồng tôi, sau khi nắm cơm thứ 4 đã xếp ngay ngắn trước bệ cùm. Chiều qua tôi nghe loáng thoáng tiếng ngươì tù thi đua nói với ai đó, giọng rất khúm núm “ dạ … anh ấy không hề sờ vào. Cháu để sao thì lần sau vẫn y như vậy …”.
Viên y sĩ đứng ngay đầu bệ cùm, hỏi tôi sao không ăn cơm. Tôi nói đã quen ăn cơm có mâm có bàn tử tế. Việc cho tù ăn như thế này là xúc phạm người tù. Dù là tù tội, chúng tôi vẫn là những con người VÀ LÀ NHỮNG CON NGƯỜI CHƯA MẤT NHÂN TÍNH. Tôi nói vừa đủ nghe, nhưng nói chậm từng câu từng chữ …
Cửa đóng lại. Chừng 15 phút sau có tiếng bàn gỗ được đem vào khu cùm. Tiếng ghế gỗ va chạm với thành tường xi măng. Tôi được sĩ quan trực mở cửa và người tù thi đua mở cùm, nhã nhặn nói với tôi rằng, bàn ăn của tôi đã có ở đầu tường khu cùm. Tôi chậm rãi bước ra. Ngồi vào bàn. Trên bàn là một chén cơm (bằng nhựa dĩ nhiên) và một chén rau muống. Tôi ngồi ngay ngắn, đưa tay làm tín dấu công giáo rồi cầm đũa ăn ngon lành. Tôi đã rất đói. Viên sĩ quan trực trại gọi đội trưởng đội bếp đem ra hai cái ghế dựa, một cho ông ta ngồi ngoài sân chung hướng mặt vào cổng khu cùm, một cho người tù thi đua ngồi cạnh tôi chừng 4 mét, trong khu cùm cổng khoá.
Chừng 15 phút, không ai giục giã, nhưng tôi biết giấc này là giấc rất bộn bề của sĩ quan trực trại. Tôi đứng lên chậm rãi đi về buồng cùm. Khi người sĩ quan vào kiểm tra chế độ cùm, tôi nói với ông ta rằng “ở đây tất cả chúng tôi đều là con người như mọi con người khác. Ngày mai tôi sẽ tiếp tục không ăn nếu anh em của tôi vẫn bị đối xử như những con mãnh thú …”.
Bắt đầu từ ngày cùm thứ tư, họ dọn cho anh Trung ăn trước, đến anh Sương rồi đến tôi, mỗi người từ 15 đến 20 phút. Người anh em bên nhóm Đông Tiến 3 đã ra cùm, ngươì tù nữ cũng hưởng qui chế kiên giam.
Tình trạng sinh hoạt khu cùm trại A của tôi kéo sang lệnh thứ hai. Ngày thứ 7 của lệnh 1 giám thị mời tôi ra ngoài nhà cơ quan. Người làm việc từ Hà nội vào, không xưng tên, tuổi hơn tôi cỡ ba bốn tuổi. Nội dung tổng quát họ muốn biết tôi muốn điều gì.
Tôi xác định 3 điêù.
- Thứ nhất là chúng tôi không chấp nhận hành vi “địt mẹ địt cha” chúng tôi một cách bừa bãi.
- Thứ hai, chúng tôi sẵn sàng đương đầu với bất kỳ ai công khai phát biểu muốn “gĩa nhừ“ đoàn tù A20 chúng tôi.
- Thứ ba, bản thân tôi không chấp nhận việc đưa anh Hoàng xuân Chinh và anh Vũ đình Thụy đi mất tích.
Họ ghi nhận và nói chuyện đưa anh Hoàng xuân Chinh đi đâu anh Vũ đình Thụy đi đâu … là thuộc thẩm quyền nhà trại. Tôi đặt vấn đề như vậy là vượt giới hạn. Tôi xác định là tôi sẽ chống đối đến cùng nếu như tôi không biết anh Hoàng xuân Chinh và anh Vũ đình Thụy ở đâu!
Buổi làm việc coi như không giải quyết được gì cụ thể.
Tôi về buồng cùm, nhận lệnh cùm thứ 2 thì anh Trung đã rời nhà cùm, không biết đi đâu. Anh Trương văn Sương cũng đã bị đưa đi ra khỏi buồng cùm. Rất hoang mang, tôi quyết định không ăn, tuy nhiên, rút kinh nghiệm vụ tuyệt thực ở A20, tôi không tuyên bố gì hết, cứ lẳng lặng thực hiện việc không ăn.
Ngày thứ ba của lệnh 2, ông Phạm Ninh vào tận buồng, khuyên tôi nên ăn cơm, chuyện đâu còn có đó. Tôi nói lời cám ơn, không hứa gì cả. Sang ngày thứ 5 thì vấn đề xảy ra.
Qua ngày thứ 5 của lệnh cùm 2, đêm lạnh đã bắt đầu thấm vào hai đầu vai và vùng xương chậu. Những cơn đau thấp khớp tôi cố vượt qua vì biết chắc họ không chuyển thuốc để tôi xử dụng. Những giờ tập khí công đã bị nhập nhoạng nửa mê nửa tỉnh vì không có tư thế ngồi hoàn chỉnh, nằm thì khí lạnh của đá ngấm buốt vào nội phủ. Tôi không ăn 3 ngày của lệnh 1 và 5 ngày của lệnh 2. Vì không tuyên bố tuyên bọ gì sất nên họ vẫn cấp nước ngày một bát nên chuyện hụt nước không đến nỗi trầm trọng lắm tuy vẫn bị thiếu nước uống. Vấn đề trầm trọng ở đây là muỗi ban đêm, và ban ngày thì những tiếng éo nhéo của đàn phụ nữ hơi quá đa tình. Họ không hề biết là tôi không ăn, đang phải tranh đấu cật lực vơí cái sự đói … nên có ý trêu rất dai. Những sự trêu đùa ấy vô tình phá nát vấn đề gắng tĩnh thần tịnh khí của tôi. Đêm thứ 4 của lệnh 2, khoảng giấc gần sáng tôi chìm vào mê man không cưỡng lại được …
3. Đến khi TÔI THẤY TÔI ĐƯỢC DÌU TỪ TRONG BUỒNG CÙM ĐI RA, đầu gục xuống ngực, hai bên là hai ngươì tù thi đua, phía trước phiá sau năm bảy người sĩ quan lúp xúp trong áo mưa. Trời chưa sáng. TÔI THẤY HỌ ĐƯA TÔI VÀO KHU BỆNH XÁ. Ở đó ông Ninh đứng chờ sẵn, nghe được ông ta hỏi “kim tiêm của nó đâu“. Viên sĩ quan y sĩ ú ớ nói là hết rồi. Tiếng ông Ninh quát “ … khi nó ra trại này hang 4, 5 trăm mũi kim riêng “. “ Dạ! đã hết rồi, anh ấy cho hết rồi … “. Có tiếng đàn bà, là bà bác sĩ của trại, nghe đồn là bồ nhí của cục trưởng V.26 -đại tá Đỗ Năm. Tiếng bà giục đem nhanh kim tiêm ra. Viên Trung úy y sĩ nói chỉ còn kim trại. “ Mài kim!! Nấu nước! “ tiếng giám thị Phạm Ninh như gào lên. Căn phòng cấp cứu trạm xá người chạy ra kẻ chạy vào lốn nhốn, đồ tù lẫn đồ công an trộn lẫn vào nhau. Tiếng ông Ninh “ĐM, nó mà làm sao, tao rút chúng mày hai bậc…"
Tôi mơ màng nhận diện được sự vật, chẳng biết đã bao nhiêu giờ trôi qua, chỉ biết là đèn điện sáng chung quanh. Linh Nghệ An đỡ tôi ngồi lên nhưng tôi không cách chi ngồi được, tất cả đều nghiêng hẳn về một phiá như chuẩn bị đổ ập. Nhà nghiêng, giường nghiêng làm tay tôi bấu chặt với bất kỳ thứ gì có thể bấu được!
Họ đưa tôi sang trạm xá, nằm chung với khoảng bốn năm chục người bệnh lao đợi chết. Chỗ nằm của tôi là trong góc trong cùng, có Linh đặc cách từ khu cách ly sang nằm cạnh, hai người nằm trên ba chiếc chiếu. Linh nấu cháo đậu xanh đút cho tôi từng thìa.
Mấy người tù hình sự bệnh nặng có người nói “ … ông này tù gì mà lạ thế này …”.
Tiếng Linh đối đáp “ĐM! Làm ơn yên ắng, ngậm cái mồm bớt lại! Ban Ninh còn phải sợ ông này …”.
Thằng bé không hiểu sự tình nên phun bừa ra câu ông Ninh cũng phải sợ tôi! Biết là nó nói trật lất nhưng lưỡi tôi đơ đơ, không lên tiếng được …
Linh người Công Giáo Nghệ An. Tôi không như những anh em A20 khác, thường hay coi Linh như kẻ nguy hiểm. Chỉ bảo được Linh điều gì là tôi chỉ bảo tận tình. Trong hoàn cảnh nhiễu nhương tù tội, từ vô thức, nó coi tôi như một người anh lớn lúc nào không hay. Cách mớm cháo của nó, tôi hiểu nó thương tôi thật lòng. Chứ tù với tù, lại là những thứ đàn ông ngang bướng vốn đời nhiều lần vào sinh ra tử…không dễ gì mà ân cần cho nhau từng thìa cháo như thế. Nó biết tôi hận nhiều thứ nhưng cố kìm nén nên đã nói với tôi những câu mà người ta thường nói khi nghĩ rằng người thân yêu của mình đang có thể sắp sửa chết “ Anh cố nuốt!..Còn mẹ anh! Còn con anh nữa …”.
Nó vụng về, nói lắp ba lắp bắp, nhưng tôi biết là nó nói với tâm thành, dù là tôi không ngồi dậy được, dù là mọi thứ nghiêng và xoay liên hồi … tôi vẫn loé lên được ý chí là mình phải sống, từ những lời sách tấn tinh thần vụng về nhưng chân thành của một đứa tù hình sự bị bắt buộc phải theo dõi tôi từng li từng tí!
… Ngày thứ tư từ ngày sang bệnh xá, tôi lẫm chẫm đi được. Luống hoa thược dược nở đầy những bông tím xanh trắng vàng, tôi cố định thần nhìn theo những cành hoa ấy mà đi. Ngã xuống lại lồm cồm bò lên. Linh lúc nào cũng bên tôi, dìu từng bước, đỡ từng cái té sấp vô vô phương hướng của tôi…
Ngày thứ sáu, tôi đã đi được một mình. Lâm vào gọi tôi ra khu cấp cứu. Đọc lệnh kiên giam. Tôi không nói gì. Nhìn Linh lần cuối rồi đi theo Lâm. Lâm thấy tôi muốn ngã nên đứng lại, bước đến sát bên tôi, cầm tay phải của tôi khoác lên vai Lâm. Rất chậm, hai chúng tôi đi như thế ra lầu trung tâm. Dù đoạn đường đi chỉ có chừng 250 mét, nhưng đã vô tình hằn sâu vào tâm hồn tôi một ý thức khó tả. Tôi là đứa ương bướng, chưa từng bao giờ nghĩ mình phải bấu bám vai một người công an mật vụ hay quản tù … để bước đi những bước chân chập chững.
Lâm có thể không biết, nhưng trong khoảng khắc ấy, tôi đã là một con người với rất nhiều thay đổi.
Sau này, tôi biết là từ những giờ phút ấy, tôi đã trở thành NGƯƠÌ ĐẤU TRANH KHÔNG THÙ HẬN.
Chiếc xe U Oát đậu sát thềm lầu hội trường. Tư trang của tôi đã xếp gọn gàng trong xe. Người tài xế nổ máy chờ sẵn. Lâm dìu tôi ngồi xuống ghế bên cạnh tài xế. mở hộp còng số 8 loại mi ni bập vào hai ngón tay cái của tôi. Bộ còng lớn bập vào gọng sắt ghế ngồi và cổ tay trái. Tôi chầm chậm đưa mắt nhìn một lượt bốn chung quanh, nghĩ rằng mình sẽ không còn có dịp quay về nơi đây. Cổng khu tù chính trị khuất hẳn tầm nhìn của tôi. Tôi bình thản thả trôi mạng sống cho số phận. Giờ này chẳng còn phản ứng gì được nữa, đứng còn không vững lấy gì lý luận với phản kháng.
Xe qua cổng chính. Bốn người trên xe gồm tài xế, Lâm an ninh và một bảo vệ súng dài. Tôi cảm giác rằng sẽ đi không xa nơi đây, vì chỉ có một bảo vệ và Lâm không mặc đồ lễ mũ vành.
Xe chạy qua đội tù chính trị miền Nam, dáng Nguyễn đình Oai gánh đôi thùng tưới đi thoăn thoắt trên những luốn rau cải xanh ngắt. Dáng TRung cao lòng khòng và Trần Minh Tuấn giữa vườn rau. Bóng anh Vàng tất tưởi chạy ra ven lộ đưa tay vẫy vẫy rồi bóng cả đội đập đá đứng nhốn nháo hết cả lên khi xe bất ngờ chạy ngang, rõ nhất là Đỗ bạch Thố đứng bên ông Bùi Gia Liêm với mái tóc bạc trắng và hàm râu nghệ sĩ. Tôi muốn đưa tay vẫy chào anh em thân yêu mà không được, vì tay tôi dính với thành ghế rồi!
Mới gặp lại nhau chưa đầy 10 tháng, giờ lại chia tay. Lần này đường đi chỉ mình tôi! Nỗi luyến lưu bất chợt dâng lên đong đầy hai con mắt. Tôi để mặc những giọt nước mắt ưá ra lăn qua má rớt tuỉ nhục lên đôi còng thép bạc.
4. Biệt giam K.C!
Xe chạy ngang qua cánh đồng trại 5. Phân trại A nhìn từ con đường xuyên ngang cánh đồng trông thật thâm u vì không thấy được các mái nhà tầng ở bên trong. Tường đá ong xây cao như một cổ thành thời Trung Cổ. Ba chòi canh nghễu nghện với những hàng dây điện trông như một gã phù thủy đứng bất động tụng kinh. Các thửa ruộng hai bên lổ chỗ thửa đang gặt thửa vừa mới cấy. Rải rác khắp cánh đồng là những bóng người cúi lưng vục mặt xuống các mặt ruộng. Chân núi uốn lượn vòng vèo.
Xe qua một cổng trại, tôi biết đó là phân trại B. Tường phân trại B không nghễu nghện đá ong như phân trại A, không có nhà cao tầng, trông rõ là kém bề thế rất nhiều so vơí phân trại A.
Qua cổng phân trại B, xe ôm cua tay mặt, đường đi bây giờ là sạn đạo, một bên là vách núi một bên là cánh đồng nước bạc nhấp nhô xen lẫn những thảm lúa xanh. Giữa khoảng nước bạc nhấp nhô là một sân đất nện nổi lên trông thật lạ lùng.
Tôi hỏi ông Lâm:
- Sân gì vậy cán bộ?
- Sân phơi thóc, cộ thóc? Lâm đáp, có vẻ tự hào.
- Sao mà lớn vậy!
- Sông còn chặn được thì cái sân có nghĩa lý gì …
Bất giác tôi rùng mình, liên tưởng lại những điều mô tả trong cuốn tự truyện Trại Đầm Đùn (7). Đầu tôi lùng nhùng âm thanh bốn chữ “nước sông công tù”! Bao nhiêu người đã nằm xuống cho cái sân phơi hoành tráng giữa đồng kia? Bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu đòn roi, bao nhiêu nước mắt của thân nhân họ khi biền biệt năm tháng không thấy người thân trở về …
Tôi bỗng bật ra câu hỏi với Lâm, gần như từ vô thức:
- Cán bộ có bao giờ nghe bài hát Ông Lái Đò (8) không?
Lâm đáp nhanh, gật gù, tự nhiên, thanh thản
- ”Có chứ! Bài ấy hay …”
Tôi kín đáo nghiêng người nhìn về tay mặt bên sườn núi, nhưng là để thẩm định lại cho rõ thái độ của Lâm. Lâm vô tư nhìn theo hướng nhìn của tôi. Tôi biết là Lâm không biết lịch sử của ca khúc đau đớn ấy nên mới trả lời tôi như vậy. Đó là ca khúc đã ra đời từ những giòng sông dẫn vào trại ngày nay, xưa gọi là các trại Lý Bá Sơ. Thời 1950 đã bao người Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt đã bị bắt đưa vào các trại Lý Bá Sơ, người đưa đò chuyển họ qua sông với dây thừng cột dính thành từng chùm nhóm. Những chuyến đò không bao giờ được trả tiền công và cũng không bao giờ thấy ”khách” quay về, đến cả khi người chèo đò già yếu và chết đi, vẫn không thấy ai quay về …Giờ đây, tôi đang cận mặt với những gì họ đã trút máu xương xây thành. Đầm Đùn, Lý Bá Sơ năm xưa, giờ là trại 5 công nghiệp tù!
Xe gật gù men theo đường sạn đạo, mắt tôi đụng phải một mái ngói xám chênh vênh giữa chân núi, đầu đao cong lên như thế nhảy của một con nghê bị trói bụng. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng! Xe chạy gần hơn cho tôi nhận ra đó là một ngôi miếu loại hoành tráng, nửa miếu nửa đền! Tôi bật miệng hỏi:
- Miếu ai đây?
- Đền chứ miếu gì? Đền Lê Lai đấy! Ông ấy chết ngay tại đây! Trên kia là hang Lê Lợi …
Viên sĩ quan tài xế vừa nói vừa chỉ tay lên phiá núi. Tai tôi cơ hồ như ù đi. Lê Lai! Người anh hùng lịch sử mà tôi kính trọng nhất, hơn tất cả những vua chúa của các dân tộc Kinh Mường Nùng Chàm Thái, Hoa, Miên. Ở ông, từ thủa thiếu thời, tôi đã ám ảnh cách chọn cái chết vô cầu phi thường của ông, lòng đã từng nghĩ có ngày phải tìm đến đền ông mà bái lạy. Giờ là đền ông ngay bên cạnh tôi, và tôi chân tay cùm xích…
Xe chạy qua đền, chắc chắn cả Lâm lẫn người tài xế và tay súng bảo vệ đều chẳng biết lòng tôi vừa đụng phải một tia chớp giật cực mạnh.
Xe vào hẳn trong cổng. Cánh cổng sắt đồ sộ. Đây chính là phân trại C. Hướng núi và vòng xe di chuyển cho tôi biết chắc đây là phân trại C. Trại gốc của một vùng huyền ảo Lý Bá Sơ năm nào. Sân trại phẳng tắp không cây cối, nền sân đất đá nện rất chắc chắn. Xe de đít vào ngay góc cổng trại. Một khu vực tường xây cao 2 mét biết lập hẳn vơí khu tù chung. Như vậy, khu kỷ luật của phân trại C là ngay đầu trại. “Ngay đầu trại thì sinh khí hơn”! Tôi lẩm bẩm và bước xuống xe theo đà của cánh cửa, sau khi còng được mở.
Đồ đạc tư trang của tôi được mang ngay vào buồng đầu tiên của khu cùm. Khu cùm từ tường vây đến tường nhà tường sân …đều xây bằng đá nâu. Tất cả đều cao nghễu nghện! Dao cạo râu, thuốc uống (tất cả các loại thuốc –dược phẩm) đều bị lưu ký. Quyển tự điển Hán Việt và quyển Pháp Việt, Anh Việt được lật kiểm từng trang. Bất kỳ bút chì bút bi hay thỏi chì … đều bị thu giữ. Thư gia đình thì tù được quyền giữ, nhưng giấy trắng thì bị thu sạch.
Về đồ ăn, tôi là đứa vô sản nên không có gì, viên trực trại khu C hỏi tôi có đồ ăn khô gì không? Tôi bảo không. Ông ta chỉ vào một gói giấy hỏi cái gì đây rồi mở ra. Đó là bọc gói bên trong có xếp 10 gói mì Miliket loại có bao bì bằng giấy cũ vàng y như là giấy bao xi măng, tức là loại mì ăn liền rẻ tiền nhất ở Việt Nam thời bấy giờ. Tôi cố dấu sự mừng rỡ, vì biết đây là thủ thuật do Thố đã lo lắng cho tôi.
Thố bị cùm đã nhiều trận, kiên giam cũng đã nhiều lần kinh qua nên biết cái gì cần thiết cho người cùm kiên giam. 10 gói mì này tôi có thể ăn được 30 ngày. Tôi tính toán và hình dung ngay tức khắc sẽ bẻ làm ba mỗi gói và sẽ là ba ngày cho một gói mì. Một hạnh phúc tầm thường đối với những người thường bên ngoài xã hội, nhưng với người kiên giam là cả một sự rất qúi báu. Thố đã khôn ngoan gói lại và đặt trong thùng gỗ đựng sách vở và thuốc của tôi cốt để phiá cán bộ sẽ phải mở ra khi đã lỡ làng đặt trước mặt tôi khi khám tư trang tù như thủ tục. Với tôi, việc lấy lại 10 gói mì sẽ là việc gây khó khăn cho hầu hết cán bộ của các phân trại này. Vì thùng thuốc tây của tôi, tôi không từ chối chia sớt với ai bao giờ. Các thuốc tây ấy là do các anh chị của nhóm ông bà Nguyễn quốc Nam từ Pháp gởi cho gia đình tôi (sau khi ra tù hàng chục năm sau tôi mới biết chi tiết này!) và gia đình hàng tháng gởi vào cho tôi. Khi nhìn thấy số thuốc và kim tiêm cá nhân của tôi khi tôi bị chuyển từ A20 ra Trại 5, chính bà Đại úy bác sĩ trại tù này còn phải thốt lên ”cơ số thuốc của anh còn hơn cơ số thuốc của bệnh xá trại 5 …”
Giúp ai được điều gì thì tôi chân thành giúp, anh em tù cũng vậy, phiá cán bộ cũng vậy. Với tôi, con bệnh không phân biệt quan điểm chính trị!
Giờ đây số thuốc của tôi chỉ còn lèo tèo mấy chục vỉ của tất cả các loại. “Trung ương” yêu cầu thu giữ lưu ký hết, kể cả thuốc thiết thân là thuốc thấp khớp của tôi.
- ”Khi lên cơn đau, bác sĩ trại sẽ khám và cấp thuốc”! Viên trực trại nói với tôi rằng quyết định “ở trên” là như vậy.
Tôi có đươc chiếc chăn trại. Một tấm chiếu. Tất cả những thứ được đem vào buồng cùm kiên giam được xếp gọn vào chiếc thùng gỗ mà Thố đã đóng cho tôi từ lúc còn ở A20 Xuân Phước Phú Yên. Dao cạo râu, kem đánh răng, bàn chải …không được mang vào.
Tôi vơ ngay lấy chiếc bàn chải và hộp kem, nặn ngay kem ra và tức khắc đánh răng, vừa đánh răng vừa chầm chậm vào buồng. Thật là sảng khoái khi người tù thi đua trại C đưa cho tôi ca nước bằng nhựa để hoàn tất công việc đánh răng. Từ ngày bị đưa vào buồng cùm và ra trạm cấp cứu đến nay đã ba tuần, tôi chưa hề đươc đánh răng! Râu ria tua tủa thật khó chịu (tôi có hàm râu chả đẹp đẽ gì, mọc bừa bộn thô lậu).
Lâm chào tôi. Lần đầu tiên Lâm đưa tay ra bắt tay tôi. Lâm là sĩ quan an ninh của trại 5 nhưng tướng pháp khác hẳn Lâm an ninh A20. Tướng Lâm A20 nhong nhỏng cao, mặt trắng nhợt nhạt, môi luôn như mím lại, trái với Lâm an ninh trại 5. Tướng đi ngang tang dềnh dàng, ngươì tầm thước đậm đà, miệng lúc nào cũng như muốn cười, mặt vuông vức … nhìn tướng đi của Lâm, tôi cảm giác là Lâm đã chọn lầm nghề. Tướng pháp như Lâm không thể nào hiểm độc hay thích tàn ác vơí tha nhân, điều trái ngược hẳn vơí nghề nghiệp công an - an ninh trại tù.
Ở Lâm tôi mờ mờ nhận ra đâu đó bóng dáng của một thằng bạn rất thân của tôi thủa thiếu thời 1978/80 là Đào Hậu. Hậu là đứa hết long vì bạn, ruột để ngoài da, luôn thương người thấp kém hơn mình, rất anh hùng mã thượng trong mọi hoàn cảnh. Hai tướng đi và hai ánh mắt của hai người này rất giống nhau.
An ninh, giáo dục, trực trại của phân trại C đừng chộn rộn trong ô sân cùm. Tất cả đều như mang một chút ngạc nhiên khi thấy Lâm đưa tay bắt tay tôi, thái độ thân ái như hai người bạn khi xa nhau. Lâm quay mình bước ra cổng sân buồng cùm, không quay lại. Sân buồng còn lại hai người đại úy bảo tôi vào ô cùm.
Ô cùm kiên giam ngang chừng 2m50 rộng cũng chừng ấy. Cửa ra vào khoảng cao 1m60. Cửa sắt và gờ cừa cũng là sắt dầy. Cửa sắt kín từ dưới lên khoảng 1m20. 40 centimet trên cùng là sắt tròn hàn thành các ô vuông 10 centimet để lấy ánh sang và không khí vào cho gian cùm. Bệ cùm chân cùm đã được phá đi, xây chồng lên là một lớp đá dầy. Tường vôi mới quét bốn chung quanh. Một ô vuông tường khuất hằn có lối đi vào là bể nước và WC bàn cầu ngồi. Cấu trúc này với tôi thật là lạ lùng. Cửa sắt đóng lại. Hai người đại úy lúi húi cùng cầm cùng xoay xoay nắn ổ khoá … Ra là họ không cùm tôi!
Sảng khoái, tôi chầm chậm ngồi xuống bệ nằm bằng đá. Tiếng bước chân hai người sĩ quan đi ra cửa sân rồi tiếng lách cách khoá cổng sân, cuối cùng là tiếng cánh cổng sắt khu kiên giam uỳnh uỳnh đóng lại. Tôi từ từ ngả lưng nằm dài xuống nền đá … nhưng vội gượng ngồi ngay dậy khi cảm thấy cả khu cùm bắt đầu quay mòng mòng! Tôi đã rất sợ cảm giác mọi thứ cứ quay lộn tùng phèo hết cả lên, không biết nắm vào đâu để giữ thăng bằng …
- Út ơi!
Tôi chới với đứng ngay dậy. Lờ quờ bước ba bốn bước ghé mặt sát các song cửa! Tiếng ai như tiếng anh Sương vừa gọi tôi!
Không nghe gì nữa cả! Tôi bẹo mạnh vào bắp tay để chắc chắn biết là mình hoàn toàn tỉnh táo! Một cảm giác thảng thốt len nhanh qua tâm trí «… không lẽ Sương … không còn! » Tôi quyết định lên tiếng và nghĩ nếu là Sương đã chết thì chắc chắn Sương đã về với tôi. Tôi nói lớn, nghiêm giọng:
- Phải anh Sương không?
- Sương đây Út ơi!
Tiếng anh Sương lập tức đáp lại, như từ một vách núi nào xa lắm! Tôi bán tín bán nghi bèn vào trong ô buồng WC, tường WC là giáp tường bên buồng số 2. Nếu Sương bên buồng 2 thì Sương phải nghe tiếng tôi dộng tay vào tường. Tôi dộng mạnh năm sáu phát liền. Có năm sáu phát dộng lại, cũng như xa lắm! Vậy là Sương ở bên kia! Tôi mừng muốn khụyu chân xuống.
Tôi ra cửa, nói lớn, chậm rãi vì biết âm thanh bên anh Sương khó thoát ra
- « Em đây anh Sương? Anh sao rồi ».
- Khỏe Thành ơi! - Vẫn tiếng rất xa.
- Sao anh nói khó nghe quá!
-Anh ở xa cửa!
Tôi bần thần. Như vậy là Sương bị cùm!
-Anh bị cùm à?
- Ừa! Mà bộ tụi nó không cùm em à?
- Bên này không có bệ cùm!
- Có mà!
- Quái lạ! Là thực hay là mơ đây? Tôi định thần lại một lần nữa. Nhìn chung quanh buồng. Quả là vết bê tông ụ nằm lát đá còn rất mới!
- Mà thôi đừng nói nữa! Để mấy bữa nữa đi! Chớ nói nữa họ chuyển xa nhau là chết ngắc!...
Tôi không đáp, lòng bấn loạn nghĩ đến Chinh và Thụy nên hỏi lớn.
- Anh biết Chinh Thụy đi đâu không?
- Bên số 5!
Tôi bàng hoàng, hỏi lớn.
- 5 nào?
- Anh số 2. Út số 1. Chinh số 5. Dũng số 6. Thụy 11, Đăng 12 đàng sau …
Tôi rú lên, đập cửa thình thình. Tiếng sắt thép va vào nhau rổn rảng, là tiếng đập cùm của anh Sương vọng sang!
*******
Tôi đứng khum khum nhìn ra khoảnh sân trước buồng cùm. Sân lát gạch nung vuông 30cm, bề ngang sân 5 mét, bề dài khoảng 7 mét là đến cửa cổng. Vách tường đá nâu cao ngất ngưởng khoảng 4 mét, trên 4 mét ấy mơí xây thêm 1 mét gạch thường. Như vậy, ô sân trở thành một cái giếng. Âm thanh từ buồng cùm vọng ra đã khó, trèo qua được bước tường cao này thì biến dạng là phải.
Mắt tôi quan sát bên trên các bức tường đá. Rêu đã có khá nhiều, chứng tỏ căn buồng cùm này không mấy khi có người ở. Sát mép buồng cùm, lênh khênh trên một gờ đá ong có một thân cây giống cây me mọc bám chắc đã lâu ngày, cây cao chừng 30 cm bám chênh vênh giữa khoảng tường đá, thân cây cằn cỗi khẳng khiu cỡ bằng nửa chiếc đũa. ”Chắc con chim nào đã ị hạt giống vào đây”. Tôi ngẫm nghĩ nhìn gốc cây lạ lùng vô danh tí hon rồi đưa mắt soi cẩn thận xuống nền gạch của sân. Giữa sân, sát tường bên tay trái có một bệ đá xây như bàn ngồi ăn cơm và ghế đá. Tất cả đều là mới làm xong cỡ năm ba ngày. Chính giữa sân, thẳng tắp từ cửa buồng cùm đi thẳng ra cửa sân, hàng gạch nung bị vạt sâu hõm xuống thành một đường rãnh hõm rất đều nhau. Tại sao có đường rãnh này? Câu hỏi rất nhanh xẹt qua đầu và tức khắc đưa ra câu trả lời khốc liệt: Những người bị xiềng chân lưu cữu!
Bất giác tôi thấy mình như lớn hẳn lên vì thảng thốt nhận ra một dấu tích, tuy nhỏ nhặt bé mọn nhưng là một sự nối kết vô hình của một giai đoạn lịch sử tàn khốc, của nửa thế kỷ kéo dài dính chặt đến hôm nay, những con người mang một ý thức công bằng dân sinh, độc lập dân tộc, tự do tư tưởng … vẫn còn phải trả giá bằng những sự thù hận man dã từ chính những người đồng chủng chung một tổ tiên chung một nền văn hoá.
Những bước tường như thời Trung cổ Âu châu đang vây chung quanh tôi đây, đã ít nhất hơn 50 năm chứng kiến bao cảnh một đàn gà chung một Mẹ già tận lực xé xác lẫn nhau! Tôi cả nửa đời lang bạt kỳ hồ, lòng chưa bao giờ hình dung đến sẽ phải (hay được) đứng trong một dãy hầm cùm đã được xây dựng từ 50 năm trước, khi đất nước vừa được người Nhật trao trả quyền độc lập sau các biến động Thế Chiến và bị thế lực cộng sản quốc tế thừa cơ chiếm đoạt, gây nên bao cảnh hãi hùng khởi từ những tấm lòng cuồng nhiệt cực độ mà ngu ngơ cũng cực độ … dẫn đất nước vào hai cuộc chiến tranh triền miên máu, nước mắt và đói khát hèn hạ.
50 năm trước, khi dân còn cơ cầu đói khát lơ láo với món quà độc lập từ trên trời rơi xuống… thì những trại tù hùng vĩ thế này được cất lên! Ai đã xây những bức tường này? Ai đã đập đá giã vôi? Ai đã ngào hồ trộn vữa… để cơ ngơi trùng trùng những nhà tù hôm nay trở thành như một nền công nghiệp trên giải đất Lam Sơn lịch sử 10 năm nằm gai nềm mật kháng chiến chống quân Hán Minh 500 năm về trước! Căn cứ nghĩa quân! Sân tập trận! Bãi thao trường …là nơi giờ đây tôi đang đứng chân lên trên, trong một căn hầm dành cho loài mãnh thú, với án danh là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cho an ninh quốc gia!!!
Nhìn các vách tường đá lưu cữu, nhìn bầu trời trong xanh đã bị bó hẹp lại trên đỉnh những gờ đá, nhìn xa xa là vách núi dựng đứng, nơi có dấu chấm được gọi là miệng hang Lê Lợi lúc ẩn lúc hiện giữa những làn mây treo lơ lửng… khiến cảm xúc trong tôi tôi như sóng vỗ xô bờ
Có bóng người thấp thoáng đi qua đi lại trước khu cửa sân buồng số 1, là người tù thi đua ban nãy đã phụ đem chiếc hòm gỗ của tôi vào buồng. Như vậy là họ đã để túc trực một người tù thi đua ngay trong khu kỷ luật cách ly này. Chả trách anh Chinh và anh Dũng không lên tiếng với tôi, vì chắc chắn sẽ phải gào rất lớn tôi mới nghe được, trong khi khu nhà trực trại là sát ngay tường phiá bên ngoài khu biệt giam, chỉ cách con đường chính dẫn vào cổng trại.
Người tù thi đua này có vẻ chân phương, không « gai góc sắc sảo » như hai người tù thi đua ngoài trại A. Anh ta có vẻ muốn gần gũi tôi, nhưng xa quá, chỉ nhìn thoáng thấy tia mắt của nhau từ cửa sắt buồng cùm vơí của sắt để dẫn ra cổng khu cách ly.
Khoảng 4 giờ chiều có tiếng lỉnh kỉnh mở cổng khu kỷ luật, rồi ngay sau đó là mở cửa sân buồng tôi. Hai người đại úy đi vào cửa buồng, cùng lúi húi tra chìa khoá vào ổ để mở khoá. Khoá mở xong thì một người cầm ổ khoá trên tay gọi tôi bước ra sân. Trong sân có ba người là hai đại úy và người tù thi đua. Viên đại úy cao ngang ngửa vơí tôi lên tiếng.
- Tôi là trực trại, ông … (tôi quên tên) đây là trách nhiệm giáo dục. Qui chế sinh hoạt của anh cho tuần này là không cùm. Anh có hai lần mỗi ngày, chúng tôi mở cửa buồng để anh ra bàn ăn cơm. 11 giờ sáng và 4 giờ chiều. Mỗi lần ra sân anh có 30 phút.
Nhìn chung quanh một lượt ông nói tiếp, giọng người Mường Thanh hoá đặc thù.
- Đây là phân trại C. Anh chắc đã nhận thấy sự khác biệt của buồng anh vơí các buồng khác. Chúng tôi mong anh an tâm sinh hoạt, không để xảy ra những chuyện đáng tiếc … vì chắc chắn là anh chỉ sẽ thiệt hại mà thôi…
Tôi không nói gì, đứng yên lắng nghe. Thái độ của cả hai là thái độ nhã nhặn, tuyệt không thấy sự thù hằn nào hiện lên trên hai khuôn mặt này.
Ông ta chỉ người tù thi đua.
-Đây là anh … (tôi quên tên rồi) là người bên cạnh các anh. Có điều gì cần gặp chúng tôi, anh cứ nói vơí anh ta. Nước nôi sinh hoạt của buồng anh … sẽ hàng ngày châm cho đầy cái bể trong nhà met (WC). Cơm anh ta cũng là người nấu trực tiếp cho các anh, không chung nồi với trại chung …
Nói xong ông ta ra hiệu cho người tù thi đua mang cơm vào. Người tù thi đua bê một chồng 4 cái mâm vào đặt trên bàn đá rồi thứ tự lấy mâm trên cao nhất đặt xuống mặt bàn, lấy mâm cao thứ ba đặt lên cái mâm thứ nhất dưới mặt bàn và chuyền chiếc mâm áp chót của hàng mâm lúc đem vào, đặt lên thành tầng thứ ba của ba mâm. Như vậy. Mâm cuối cùng là mâm của tôi. Thủ tục này suốt hai tháng trời là như thế.
Ba mâm của các anh Dũng, Sương, Chinh bằng nhau, bát cơm đầy hơn một chút so với bát cơm mâm của tôi, bát canh rau muống giống nhau và đăc biệt mỗi bát cơm của các anh có một nủa con cá khô, bằng chừng gần ngón tay út.
-“Miếng ăn trong tù to lớn vô cùng”! Vào trong hoàn cảnh này tôi mới thật sự hiểu được giá trị của câu nói ấy.
Thủ tục này tôi hiểu là hoàn toàn không phát sinh từ giám thị trại này. Vì “tiêu chuẩn” ăn của tôi, ngay đến giám thị Lường (phân trại C) cũng có lần bày tỏ sự bất bình trước mặt tôi.”Sao lại đối xử với các anh như thế này nhỉ …” câu nói ấy theo tôi mãi đến ngày hôm nay, từ một người thượng tá gốc Mường đơn sơ đôn hậu.
Tôi ăn cơm xong (chỉ 5 phút) bèn tận dụng giờ được tản bộ trong sân tôi mon men ra cánh cửa sắt, hy vọng tìm thấy hình bóng hay âm thanh nào đó của Chinh và Dũng … nhưng không thò đầu ra song cửa sắt được. Gờ tường quá dầy nên tầm mắt nhìn nghiêng qua buồng 1 và 2, chỉ thấy ba, bốn mét lối đi. Có lẽ các anh sợ bị chuyển xa nhau nên không lên tiếng lớn, chỉ húng hắng ho để tôi nhận biết là các anh đã biết tôi ở buồng này. Tôi to mồm gọi chào anh Dũng anh Chinh. Đăng và Thụy ở bên kia, phẩn tường đàng sau thì không cách chi bắn tiếng cho nhau được. Tuy nhiên, biết các anh cả ở đây là yên tâm rồi. Có điều anh Dũng và Đăng tại sao bị bắt vào cùm thì tôi chưa biết lý do. Vơí anh Dũng, tôi đã dặn kỹ trước khi xảy ra chuyện đối đầu là anh cần đứng ngoài, không dính chùm vào với tôi… vậy hà cớ gì anh lại bị cùm vào đây! Đăng tôi cũng không hiểu vì sao!
Người tù thi đua luôn ẩn hiện. Một lần tôi ”chộp” được anh ta.
- Này anh bạn!
- Dạ …
Anh ta có vẻ lúng túng.
- Quê anh ở đâu?
- Ở tỉnh này anh ạ!
Nghe giọng nói và cung cách, tôi không dấu đươc ngạc nhiên.
- Sao ông lại … vào đây nhỉ? - Tôi vừa hỏi vừa lắc lắc cái đầu, không ngờ cảm giác lộn tùng phèo ập ngay đến. Tôi vội ngồi thụp xuống tựa lưng vào thành cửa sắt, dán chạt lựng vào tấm cửa, hai chân dạng rộng ra để khỏi mất thăng bằng mà đâm đầu xuống nền đá. Tiếng người tù thi đua í ới chạy ra cổng khu gọi ”ông ơi ông ơi” bài hãi!
Phải nói là tôi đã rất sợ cảm giác lộn tùng phèo tất tần tật tất cả mọi thứ lên. Nhớ mấy hôm còn bên bệnh xá trại A, những lúc ngã đâm đầu xuống cạnh luống hoa thược dược mà không có Linh, mặt mũi tôi bê bết đất cát khi đứng lên được! Tôi sợ trời đất quay mòng mòng. Sợ cảm giác sụp đổ. Sợ thân mình bị chổng ngược lơ lửng giữa đất trời và những mái tầng nhà tù.
May mà tình trạng đảo lộn chỉ thoáng qua chừng 3, 4 phút. Tôi bắt đầu co chân lại để vịn tường đứng lên thì cửa mở. Viên đại úy trực trại ào vào vực nách tôi dìu vào buồng. Cả hai đều cao lớn nên cùng phải khom khom mới lọt qua được cánh cửa sắt. mà vơí tôi, việc cúi đầu xuống là việc đã trở thành tối kỵ… nên trôi phải khụy gối xuống, nửa bước nửa qùy để vào bệ cùm, ngồi tựa lưng ngay ngắn vào vách tường.
Viên sĩ quan trực trại có vẻ rất ái ngại khi phải khoá cửa buồng để tôi lại một mình. Ông lần khân lần khan vẻ như không biét xử trí ra sao.
Tôi nói
- Tôi quen rồi. Không sao đâu cán bộ..
Ông ta tần ngần cùng người tù thi đua đi ra khỏi buồng, lách cách đóng khoá. Lần này thì tôi biết chắc rằng cái ổ khoá là loại khoá hai chìa!
- Tôi lẩm bẩm “… mấy ông bị lừa rồi! Tôi có là con khỉ khô gì đâu mà mấy ông phải nhìn tôi là quan trọng một cách quái gở thế này …”.
Khoảng 2 tiếng sau, bóng đêm ập xuống, ánh đèn vàng vọt từ một cái lỗ như lỗ thông hơi trên cửa ra vào sát với trần buồng hắt le lói vào đúng vị trí bệ cùm tôi nằm. Những tiếng tạch xè tạch xè quen thuộc của một thủa ấu thơ dội về, tôi rảo mắt chầm chậm nhìn lên hướng đền vàng vọt và thấy những cánh bay của những chú cào cào bay qua bay lại trước cửa buồng. Lòng tôi mừng húm! Vì những con cào cào sẽ là những dấu chỉ của cuộc sống đang sinh động diễn ra, thứ nữa là tôi có thể … ăn được những chú mà tôi có thể vồ được. Tôi sẽ ăn các chú cào cào, vì nếu không ăn, tôi e rằng mình khó có thể sống mà không bị suy kiệt dinh dưỡng, đầu óc vì thế sẽ trở thành mông muội, sẽ thành đất cát mất … vả lại, tôi không ăn các chú thì các chú cũng chết, vì các chú sẽ chẳng biết lối đâu mà bay ra. Phần tôi, chắc chắn sẽ không đuổi theo các chú được, với cái đầu giờ cứ phải như người máy thế này. Đầu quay đi đâu là cả thân người phải quay theo thế ấy, không dám nhìn xuống, không dám nhìn lên. Tôi cần phải sống các bạn ạ.
Tôi ngồi như vậy với những đường bay của các chú cào cào, cả mấy mẹ thiêu thân cũng cắm đầu ra cắm đầu vào cái bóng đèn, có hai ba chú lọt vào buồng và quả nhiên là bay đâm loạn xà ngầu vào các ngách tường. Tôi chả dại gì mà đừng lên, nhất nữa là đuổi theo các chú. Đúng lúc tôi quan sát một chú cào cào đang bò trên tường thì phát hiện suy đoàn kiến lửa đang xa luân chiến cái mớ quà qúi báu mà Thố đã khôn khéo gói cho tôi: Túi mì gói Mikilét (hình như tên nguyên dạng là Mì Liên Kết).
Này thì không xong rồi. Ở cái đất này, hình như các loại sinh vật đều rất dễ nảy sinh hành vi thảo khấu. Đến mấy con muỗi cũng cư xử như thảo khấu và giờ là binh đoàn kiến vàng. Liên tưởng đến những gói mì bao bằng giấy bị hàng vạn những cái gọng hàm nghênh ngang kia liên thủ đục khoét thì … chẳng mấy chốc mà nát bét. Tôi bám tường cố đứng lên, chậm rãi bước đến cái nóc hòm gỗ. Giời ạ! Đúng là hàng sư đoàn! Mới chỉ có hai ba gói bị vỡ hàng rào phòng ngự. Tôi cầm chiếc túi có 10 gói mì, phì phì thổi thổi cho lũ kiến đang điên cuồng bới gặm phải rơi xuống nền buồng, nhưng rồi không biết phải để bọc mì khô ở đâu! Binh đoàn kiến thì đâu chúng cũng có thể mò tới mà tường thì không có mấu hay đinh, que, dây … gì để có thể treo. Cuối cùng thì miếng áo nhựa dùng để đi mưa đã được tôi nhớ ra, quấn 10 gói mì vào rồi tôi thả nổi nổi trên mặt cái bể nước trong nhà wc. 10 gói mì này sẽ là … sinh lực cho tôi hàng tháng hoặc có thể hơn cả tháng trời. Nó sẽ giúp tôi phấn đấu … Tôi đã ”ra chỉ tiêu” cứng rắn là mỗi ngày, 10 giờ tối tôi sẽ được tự ”thưởng” cho mình 1 phần 3 của lát mì gói Miliket kia.
Tôi về chỗ nằm, ngồi tựa vào tường. Bên anh Sương yên ắng như một khu nhà mồ …
Bỗng có tiếng dế gáy rõ to vang lên. Bỏ mẹ tôi rồi! Dế cơm Lam Sơn! Những con dế cơm không hề cơm tí nào! Chúng gáy hung dũng và to gấp năm sáu lần những con dế chiến của tôi thủa ấu thời. Làm sao mà bịt mồm con dế này được? Tôi tự hỏi trong đầu và từng bước đứng lên đi tìm cái ca đựng nước xối WC. Tôi múc một ca đầy, lò dò ngồi kiểu nước lụt rồi nhếch từng chút một tìm chỗ con dế ác liệt. Không thể nhân nhượng hay thơ ca lẩn thẩn gì được với trự dế cơm này. Tiếng gáy của y như muốn nong cả óc của tôi ra rồi.
Đây rồi, hai sợi râu của hắn thò hẳn ra một ngách đá ong sát chân tường, cao hơn măt nền buồng chừng 5cm! Này thì sao mà đổ nước vào cái ngách ấy! Chỉ còn nước là lấy cái ca đập vào miệng ngách hang bé tí cho hắn sợ mà”câm miệng” lại! Tôi đổ nước ra mép cửa, gõ gõ chiếc ca nhựa vào miệng hang! Thật đúng là thứ du côn! Hắn im được chưa tới 5 phút đã lại gáy tướng lên. Tôi lại mò đến miệng ngách hang, lại gõ gõ. Lần này hắn không thèm im luôn! Tôi gõ cứ gõ! Hắn gáy cứ gáy! Thậm chí còn có phần gay cấn hơn!
Tôi trở lại chỗ nằm. Kiểu này anh chàng dế chắc đã thành tinh, hắn chắc thèm một đối tác cộng sinh để giải tỏa nhu cầu ca hát. Vậy thì ta chỉ còn cách là lơ luôn hắn đi. Tôi định thần ngồi yên, bắt đầu khép chân bán già để tập tịnh tâm. Chàng dế không buông tha tôi. Hắn gáy một mình có vẻ không đã tai nên tỏ rõ thái độ nửa cám dỗ nửa khiêu khích. Hắn lẫm chẫm bò ra hẳn ngách, đứng oai phong sát tường và nền nhà, nhổng cái đít lên, khuỳnh hai cái càng đen đủi gớm ghiếc ra mà gáy, đầu hướng về phiá tôi ngồi. Giời ạ, dế gì đâu mà du côn quá trời! Hắn đen trùi nhũi, to bằng cả ngón tay cái của tôi! Khi tôi mới ra trại 5, ở khu cách ly bên khu nữ đã thấy một con ẩn trong ngách đá gần bờ giếng. Lúc ấy tôi đã rất ngạc nhiên vì cái sự ”cơm” của loài dế này. Nhưng con ấy so với con này coi bộ chỉ là hàng em út! Con này chắc đã thành tinh rồi!
“Đất không chịu giời thì giời phải chịu đất thôi”! Tôi ngẫm nghĩ và tìm cách nương theo âm thanh của cu dế này mà gieo các nhịp thở. Khốn nỗi cu chàng gáy chả theo một thứ tự hay âm giai hợp lý nào cả. Lúc thì hùng dũng sang trọng kiểu giao hưởng Beethoven, lúc lại như kiểu rèng rẹc ghẹ mái. Thật là quá quắt! Chừng hơn 1 giờ như thế, hắn bỗng im bặt, lần mò thu xếp kèn loa rồi chui vào cái khe ngách ấm yên của hắn. Trả lại cho căn buồng sự tĩnh mịch thật là héo hắt.
Tôi cố giữ nhịp nhàng cho các hơi thở, lược dần những sự suy nghĩ ra khỏi đầu, dù rất nhiều thứ đang thúc dục tôi phải nhớ lại từng sự việc để suy ra bản chất những điều đã đến với anh em chúng tôi trong ba tuần vừa qua. Điều lo lắng lớn nhất của tôi là Chinh và Thụy thì đã được giải tỏa. Các ảnh ở đây, cùng vơí tôi trong khu cùm kỷ luật này. Mà chuyện cùm kẹp đối mấy ổng thì chẳng có gì phải lo lắng. Họ đều là những cội đại thụ của A20 trong chuyện cùm kẹp!
Đúng lúc tôi bắt đầu có sự yên ắng nhẹ nhàng của các nhịp thở thì những âm thanh đập cùm ầm ầm vọng sang từ buồng sát vách buồng tôi, phiá dãy sau. Tiếng va đập cùm phải là của một người nào đó rất khỏe và rất lỳ đòn. Tiếng va cùm kiểu ấy, ngay như tôi cũng không dám làm, vì chắc chắn sẽ bật máu cổ chân!
Tiếng đập cùm cứ năm ba phút lại vang lên, dộng như nện vào đầu tôi sự công phá nặng trình trịch. Cán bộ không ai vào dù những tiếng chửi thề độc địa đã bật ra không còn đâu là giới hạn. Từ quản giáo đến giám thị, đều bị anh chàng lôi ra chửi không tiếc hơi sức. Gần 1 giờ liên tục như vậy. Nghỉ chừng 15 phút lại ”tăng ca”! Thật là thảm hại cho tôi nếu cứ phải chịu cảnh này. Hết thằng dế cơm ngổ ngáo lại đến anh chàng tù kỷ luật lên cơn điên. Kiểu này là không xong rồi! Sẽ không tập trung zô ga zô ghiếc gì được trong bối cảnh quái gở này. Tôi quyết định ”làm chủ tình thế”. Tôi gồng người nói lớn, chậm để âm thanh có thể dẫn truyền trọn vẹn sang cho ngươì đồng cảnh bất đắc dĩ.
- Này …anh…bạn…gì…ấy…ơi…!
Im ắng lạ lùng.Tôi gọi lại lần thứ hai y như vậy, thì có tiếng trả lời.
- Anh …gì …là …Việt…kiều… phải không?
- Ừ, Việt kiều Pháp đây!
Tôi đáp to từng tiếng và dặn anh ta cũng phải nói như vậy, nếu không thì lõm bõm rất khó nghe.
Tôi hỏi anh ta muốn gì? Anh ta bảo là chỉ muốn ra trại chung thôi, chứ ở đây chịu không nổi nữa rồi. Tôi hỏi chịu không nổi là sao? Anh ta bảo.
- Thèm tiếng người! Giờ chúng nó chửi em, em cũng thích nghe!
Một cảm giác thương tâm bật lên trong lòng tôi. Chỉ một câu ngắn ngủi với âm giọng lõm bõm nhưng là thể hiện một nhu cầu thật là hết sức con người.
Tôi nhớ lại thời kỳ bị biệt giam ở B34, những tháng chờ ra tòa thật là đằng đẵng. Khi ấy tôi cũng có cảm giác thật thèm được nghe tiếng người. Cảm giác ấy, mấy mươi năm đầu của cuộc đời, tôi không bao giờ nghĩ là nó có trên cõi đời này! Đêm nay, một người tù xa lạ, cách tôi một bức tường đá dày hàng nửa thước, chân bị kẹp trong suốt cùm, dùng chính cái móng cùm đang thắt chặt ở cổ chân mà đập lấy đập để vào trụ cùm, mong đòi được nghe tiếng con người! Được sống bình thường như một con người tù bình thường ở trại chung...
Một ý nghĩ thoáng qua đầu và tôi lớn giọng gào tiếp tục.
- Này … Anh…Bạn…Bên…Kia… ơi!
Tiếng đáp ”em đây” rõ mồn một!
- Anh có muốn ra ngoài trại chung không?
Tiếng đáp ”C…ó …” rất to.
- Anh có sợ không?
- Em chả sợ gì sất!
Vậy tôi hét câu nào, anh lập lại câu ấy nhá! Lập lại giống y như tôi nhá …
Tiếng anh ta ”vâng ạ” lớn. Tôi lập lại.
- Hét giống y như tôi nhá!
- Vâng!
- Thề đi!
-Thề! Em Xin Thề!
Tôi đứng hẳn lên. Khom người chu mỏ ra ô cửa sắt, gào cật lực từng câu từng chữ.
- Đ. M. Hồ …chí… Minh…!
….!
Không tiếng đáp lại! Tôi gào lại lần nữa!
- Đ.M. Hồ… chí… Minh..!
- …
Tôi hoàn toàn không nghe bất cứ âm thanh gì thêm nữa. Hỏi với sang: ”Anh Gì Đâu Rồi …” chỉ là tiếng mấy con cào cào tạch xè bay qua bay lại trên đầu tôi, phiá cái bóng đèn mờ mờ nhợt nhạt.
Chừng 15 phút sau tiếng cổng cánh cửa sắt khu kỷ luật bật mở. Tôi cười thầm, ”giải thoát được cho ông rồi nhá”!
Tiếng cửa buồng phiá sau bật mở rất nhanh, tiếng lách cách tháo khoá và tiếng suốt cùm roèn roẹt kéo qua trụ sắt.
Từ đó, tôi không bao giờ gập lại người tù kỷ luật ấy nữa, một người đã thoát được khu cùm kỷ luật kinh hoàng mà đám hình sự gọi là khu cùm K Chết!
Tôi thiếp đi trong những âm thanh hỗn độn của tiếng người tru tréo, tiếng than thở, tiếng van cầu … và những người đàn ông đàn bà không quần áo đứng ngoài cửa buồng nhìn vào!
Đêm hầm cùm đầu tiên của khu kỷ luật Lam Sơn C trôi qua với nhiều những âm vang vọng lại đến cả suốt 20 năm sau của đời tôi.
Phạm Văn Thành
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
04-08-2019
|
#66
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Một trà, một rượu, một đàn bà
Một trà, một rượu, một đàn bà
Trong đời sống con người, nhất là nam giới thường mắc phải vài thói hư tật xấu. Tứ đổ tường thường dính phải một, hai. Có nhiều người còn tự hào về những thói hư tật xấu của mình.
Xin đọc câu chuyện vui sau đây:“Một người đàn ông đi làm việc về thấy một gã lạ mặt, quần áo rách rưới đứng trước sân nhà, liền hỏi:- Ông là ai mà đứng trước nhà tôi?
Gã lạ mặt trả lời:- Thưa ông, tôi lỡ đường, lại đói quá, xin ông vui lòng giúp tôi ít tiền để tôi có được buổi ăn chiều.Người đàn ông từ chối:
- Tôi có thể giúp anh nhưng tôi biết cho anh tiền anh sẽ đi uống rượu hoặc đánh bạc.
Gã lạ trả lời:
- Tôi thề với ông, đời tôi chẳng biết tứ đổ tường là gì, thì khi nào tôi lại đi uống rượu hay đánh bạc.
Mắt người đàn ông sáng lên, vui vẻ nói:
- Vậy thì mời anh bước vào nhà uống miếng nước rồi tôi giúp anh chút tiền ăn cơm chiều
Gã lạ mặt ngạc nhiên:
- Sao lại phải bước vào nhà, áo quần tôi rách rưới, dơ bẩn.
Người đàn ông nói:
- Tôi chỉ muốn vợ tôi nhìn thấy một người không có thói hư tật xấu nó như thế nào. Vậy thôi!
***
Như ông Tú Vị Xuyên:
“Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ. Rượu chè, trai gái đủ tam khoanh.”
Thế mà ông Tú chẳng ngại miệng đời, ngông nghênh làm thơ nói ra cho thiên hạ biết đời người có tứ khoái: Ăn, ngủ, ấy, ể.
Những cái khoái của ông Tú là:
“Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ nấy
Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.”
Vậy ta hãy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui:
1- MỘT TRÀ:
Chẳng được bao lâu. Một lần sau buổi cơm chiều, bà vợ đang rửa chén sau nhà thì nghe chồng gọi: “Bà nó ơi! Vào xơi chè với tôi.”
Trà là thức uống thanh nhã của người Á đông. Trà, tiếng miền Bắc gọi là chè.
Có cặp vợ chồng, chồng Bắc, vợ Nam , cưới nhau
Bà vợ ngạc nhiên la lên: “Mới ăn cơm xong no muốn chết, bụng dạ đâu ăn chè cho nổi.” Ba miền Bắc, Trung , Nam có nhiều tiếng khiến dân ba miền hiểu lầm nhau. Có lần người viết bài nầy đến thăm cô bạn gái người Huế, thuộc dạng hoàng tộc, cũng là người trong giới cầm bút. Vừa mở cổng, có hai con chó chạy ào ra sủa toáng lên làm tôi sợ hãi. Lúc đó, người bạn từ trong nhà chạy ra vừa xua đuổi hai con chó vừa trấn an tôi: “Không răng mô! Không răng mô!” Tôi vừa sợ vừa giận, nói lớn: “Chó nhà em răng chơm chởm thế kia, sao bảo không răng?”
Trở lại chuyện uống trà. Uống trà tinh thần sảng khoái, quên cả mệt nhọc.Trong trà có chất thebaine, giống như chất cafeine có tác dụng giúp cho tỉnh ngủ. Thuở xưa các dân du mục bên Tàu, mỗi lần đi săn hay chinh chiến về, thấy loài ngựa mệt nhọc, thường hay tìm một thứ lá cây để ăn. Ăn xong loài ngựa như khoẻ ra. Loài người thấy vậy bèn lấy lá nấu nước, uống thử, thấy nước có vị hơi đắng và chát nhưng hậu ngọt. Uống vào một lát sau thấy người khoẻ khoắn. Từ đó người ta tìm ra được một thức uống mới và mỗi ngày một cố gắng cải tiến để trà uống được ngon hơn.
Trà uống có nhiều cách. Có người tính tình giản dị, đun nước cho sôi, bỏ trà vào bình rồi châm nước vào đợi một lúc cho ra trà, rót vào chén lớn uống ừng ực đến đã thì thôi. Uống như vậy gọi là “ngưu ẩm.”
Có nhiều người cách uống cầu kỳ. Họ không nấu trà bằng nước mưa mà bằng nước giếng khơi ở trên núi hoặc bằng nước suối. Các cụ bảo: “Tuyền dĩ trà vi hữu.” Suối là bạn của trà. Còn nước giếng thì phải trong, ngọt và không có phèn.
Bậc vua chúa uống trà còn cầu kỳ hơn nữa. Mỗi sáng các cung phi ra vườn, hứng những giọt sương đêm đọng trên lá sen rồi đem đước đun sôi trên cái lò than nhỏ. Than phải đốt đến lúc đỏ rực để không còn khói mới bắc ấm nước lên. Nước sôi, châm nước vào cái bình bằng đất nung màu đồng vỏ cua để tráng ấm. Rồi mới châm nước vào trà. Nước đầu tiên cốt để rửa trà cho sạch, gọi là nước Khất Cái. Kế đó châm nước lần thứ hai, đậy nắp bình lại giữ nóng cho ra trà. Nước nầy gọi là nước Hoàng đế. Xong đổ ra chén tống rồi chuyển sang chén quân, mới uống.
Loại bình trà tốt có màu như gan gà. Thứ nhứt Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần.
Uống trà phải uống thong thả để tận hưởng hương vị trà. Nhiều người chỉ uống một mình vào buổi sáng tinh mơ, vừa uống vừa suy nghĩ chuyện đời.
Uống như vậy gọi là độc ẩm. Nếu có thêm một tri kỷ ngồi uống với mình gọi là đối ẩm.
Trà có nhiều loại không sao biết hết. Loại trà Bạch Mao Hầu, trà Thiết Quan Âm, trà Trảm M. thường thấy ở Việt Nam . Vùng Thái Hồ, huyện Bích La bên Tàu có trà Bích La Xuân nước trà màu xanh biếc, rất thơm có vị đắng nhưng hậu ngọt. Vùng Vân Nam có thứ sơn trà danh tiếng được mệnh danh là Điền Trà, màu vàng sậm. đắt tiền nhất là trà Mạn Đà. Trà nầy chỉ có bậc vua chúa hoặc rất giàu có mới dùng nổi. Ngoài ra còn trà Mạn Nguyệt, trà Hồng Trang Tố Lữ, trà Thập Bát Học Sĩ có mười tám bông màu sắc đều khác nhau. Trà Phong Trấn Tam Hiệp có ba bông. Trà Nhị Kiều có hai bông và còn nhiều nữa.
Người Tàu và người Việt Nam , không ai không biết uống trà. Miếng trà đậm đà câu chuyện. Có lẽ vì vậy, mỗi lần khách đến, chủ nhà vội vàng nấu nước pha trà ngay. Có một ông khách đến thăm ngay lúc nhà bà bạn đang sửa ống nước. Ống nước chính dẫn vào nhà bị khoá. Trong nhà không còn nước để nấu trà. Bà chủ hoảng quá, chạy vội vào phòng tắm vét hết số nước còn lại trong một cái xô” đem nấu trà đãi khách. Khi khách uống, bỗng thấy ở cổ vương vướng một vật gì, cố gắng khạc ra thì là một sợi lông. Ông khách là người thiếu tế nhị, đưa sợi lông ra hỏi: “Sao trong trà lại có lông?” Bà chủ nhà đỏ mặt, ấp úng đáp: “Thưa, đó là trà Ô Long.” Ông khách thầm nghĩ Ô Long là con rồng đen đâu phải sợi lông đen nhưng ông khách im lặng. Lúc ra về ông ghé qua khắp các tiệm trà trong phố, hỏi xem thì không có loại trà nào là Ô Lông cả..
Còn một thứ trà rất rẻ tiền, người nghèo cũng có thể uống được. Hương trà rất thơm ngon, tên là trà Thái Đức. Uống vào thức đái suốt đêm.
II- MỘT RƯỢU:
Rượu chữ nho gọi là tửu. “ Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Cờ không gặp gió, lá cờ rũ xuống, xem chẳng oai hùng chút nào đàn ông thiếu rượu, giống như lá cờ rũ, kim đồng hồ thường chỉ sáu giờ, trông phát nản.
Rượu cất bằng gạo nếp, nấu xong, dùng men ủ, vài ngày sau mới đem ra cất. Rượu ngon hay dở còn tuỳ vào bí quyết và kinh nghiệm nấu. Rượu là lộc Trời cho.
Bậc vua chúa ngày xưa, đã biết dùng rượu để di dưỡng thiên hạ, dùng vào việc tế Trời, lễ đất, cầu phúc, cầu lợi. Vô tửu bất thành lễ.
Các bậc thánh nhân ngày xưa không ai không uống rượu. Lưu Bang Hán Cao Tổ nhân lúc rượu say, cầm gươm chém rắn bạch, khởi nghĩa, lập nên cơ đồ nhà Hán. Phàn Khoái dự tiệc Hồng Môn Phàn, lấy cao cắt thịt, uống rượu, thi đua múa gươm, mưu đồ đại sự. Khổng Tử lúc hứng uống cả ngàn chung. Tử Lộ uống như hũ chìm. Lã Bạch càng uống, làm thơ càng hay. Nhiều người không quen mùi rượu, đọc xong thơ của Lã Bạch cũng lăn quay ra say khước. Một lần Kinh Kha rượu đã ngà ngà, uống thêm một chén rượu tiễn đưa, rút gươm chỉ xuống dòng sông Dịch chửi thề: - Mẹ kiếp! Chuyến nầy không thành công thì ông đíu thèm qua sông nầy nữa.
Và lần đó Kinh Kha đã hát bài nhạc Pháp “Aller Sans Retour,” mua tấm vé tàu suốt rong chơi miền tiên cảnh.
Người tài hoa phải biết đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, nhưng chưa sành sọi về rượu thì chưa trọn vẹn. Người sành rượu không phải chỉ biết vị, biết hương của rượu mà còn phải nhập vào linh hồn của rượu nữa.
Rượu giúp con người thêm can đảm. Nếu không say rượu thì có cho kẹo, Lưu Bang cũng không khi nào dám chơi dại cầm gươm chém rắn. Chỉ nhờ lúc có rượu làm liều mà dựng nên sự nghiệp. Rượu gây thêm hào hứng cho kẻ anh hùng đàn ông có rượu vào, khí thế oai minh, thái độ hùng dũng như cờ gặp gió, như lân gặp pháo.
Thứ nhất rượu đã ngà ngà,
Thứ nhì chàng ở phương xa mới về.
Chàng ở phương xa mới về thì phải biết đá liên tu bất tận nhưng nói nào ngay đá chẳng được bền. Còn rượu đã ngà ngà thì không thể chê vào đâu được đá mạnh, đá bền bĩ, đá đến lúc các bà ngả nón chào thua mới thôi.
Lờ rằng lờ chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu ấy dai đau lờ.
Đấy, thằng say rượu nó hung hăng đến như thế. Vì vậy các bà có kinh nghiệm sống lại thích có một ông chồng say.
Thấy chồng đôi ba ngày không uống rượu thì tìm cách làm thức ăn ngon bày ra trước mắt. Dân nhậu thấy thức ăn ngon thì chém chết cũng đòi rượu mà đòi rượu coi như sụp bẫy các bà.
Đốt than nướng cá cho vàng
Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi.
Dân nhậu có tính thảo ăn. Có thức ăn ngon thì nghĩ ngay đến bạn hiền. Nếu trong lòng tâm sự đa mang, có được người bạn hiền để chén chú, chén anh, nỉ non tâm sự thì còn gì bằng:
Một ly nhâm nhi tình bạn
Hai ly uống cạn lòng sầu
Ba ly mũi chảy tới râu
Bốn ly ngồi đâu gục đó
Năm ly cho chó ăn chè
Sáu ly vợ đè cạo gió.
Giai thoại về rượu rất nhiều, không sao kể xiết. Mỗi quốc gia có vài thứ rượu đặc biệt. Rượu Pháp nổi tiếng nhất thế giới như rượu vang Champagne . Ai cũng biết Champange là loại rượu sủi bọt (Sparkling wine) thường dùng trong các cuộc vui như đám cưới, sinh nhật v...v... Napoléon, Hoàng đế nước Pháp đã nói một câu để đời về rượu Champange:
- Khi thắng trận ta uống Champange để mừng chiến thắng.
- Khi bại trận ta càng cần phải uống Champange để giải sầu.
Nho để làm rượu Champange phải là loại Chardonnay (chát trắng) và loại Pinot noir (chát đỏ) của vùng Bourgonge mới số dzách. Mở Champagne cũng là một nghệ thuật. Mở thế nào cho rượu nổ một tiếng pop khá lớn mà rượu không vọt ra ngoài do áp suất của khí carbonique trong chai. Lan man về Champange đã hơi nhiều, người viết xin nói tiếp về rượu Pháp. Ngoài Champange còn rượu khai vị như Cointreau, Grand Marnier, rượu mạnh có Martell, Hennessy, Courvoisier, Remy Martin, thứ nào cũng hết xảy nhưng phải loại XO mới tuyệt cú mèo. Đó là rượu Tây.
Người Tàu coi trọng vấn đề ăn uống. Gặp nhau câu hỏi đầu tiên là: - Lứ chía pừng bị? hay Nị xực phàn m.? hoặc Nị sứ phán mĩ dầu? có nghĩa là Anh ăn cơm chưa? Vì quí trọng miếng ăn nên người Tàu chủ trương miếng ăn, thức uống phải ngon và bổ nên người Tàu nghĩ ra rượu thuốc như: Nhứt dạ lục giao sinh ngũ quỷ. Một đêm lâm trận với sáu bà sinh ra năm thằng quỷ sống, hoặc nhứt long quần ngũ hổ, một con rồng quần với năm chị cọp cái.
Ngoài ra còn Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì. Thứ nào cũng cường dương, cũng số dzách.
Nhật bản có Sa-kê. Nga có Vodka, Việt Nam có Whiskyson. Nói lái hai âm ky-song là công xi Rượu công xi Bạc Liêu thì hết xảy. Rượu đế Phước Long rất nổi tiếng. Chất rượu trong như nước mưa, rót ra, bọt nổi vòng quanh miệng ly, uống vào nóng muốn cháy cổ. Thở ra nếu ngồi gần vách lá có thể làm cháy nhà như chơi. Ngoài ra còn rượu Bình tây, rượu nếp than. Sau năm 1975 , Việt Cộng mang vào Nam loại rượu cà-phê, rượu chanh, uống như đồ bỏ.
Tôi có một người bạn là Công tử Bạc Liêu, tự pha chế một loại rượu thuốc và đặt tên là Phu ẩm phụ hoà hài tửu. có nghĩa là rượu chồng uống vợ khen. Nếu có văn thi hữu nào viếng nhà Công tử Bạc-liêu, nếm thử vài chung xem đức phu nhân có khen không cho biết.
Rượu ngon, thức nhấm ngon, chỗ ngồi nhậu thoải mái, lại có thêm bạn hiền thì uống ngàn chung cũng còn quá ít.
“Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua là tại không tiền không mua.”
III- MỘT ĐÀN BÀ:
Như trên đã nói, thời tiết có bốn mùa, con người có tứ khoái. Người ta thắc mắc không hiểu tại sao cái khoái thứ ba thường làm người ta điên đảo thần hồn, khốn khổ đến chết lên chết xuống mà vẫn muốn tìm hưởng cho bằng được lại bị xếp vào hàng thứ ba, sau ăn và ngủ? Thật ra cũng chẳng khó khăn gì để thắt mắc. Ca dao có câu:
Còn ăn, còn ngủ, còn gân,
Hết ăn, hết ngủ, có mần được chi?
Ăn không được, ngủ không được làm gì có xí quách mà hưởng cái khoái thứ ba. Ăn không được thì thác, ngủ không được cũng đi đong. Không hưởng được cái khoái thứ ba tuy có buồn nhưng vẫn sống phây phây, lại không bị đau lưng nhức mỏi. Con người vốn yếu đuối, thường làm nô lệ cho thói quen. Nghiện rượu, nghiện trà muốn bỏ không phải chuyện dễ nhưng theo cụ Tú Xương nghiện rượu, trà gì cũng có thể bỏ được, còn món đàn bà thì vô phương: Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. Thế mới biết món đàn bà khó mà thiếu được.
Trà, rượu là sản phẩm của con người. Đàn bà là tác phẩm của Thượng Đế: Giê-hô-va, Đức Chúa Trời làm cho Adam ngủ mê bèn lấy xương sườn rồi lắp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Adam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Adam. (Sáng Thế K. 2: 21, 22.)
Từ lúc Adam có thêm bà Eve để đêm đêm đem gà ra chọi chơi cho đỡ buồn thì bao nhiêu chuyện khốn nạn xảy ra cho Adam và cũng từ đó bọn đàn ông thất điên bát đảo luôn cho tới bây giờ. Thế mà cũng không ai tởn.
Nhìn lại đời xưa, nụ cười của Đắc Kỷ làm sụp đổ nhà Thương, Bao Tự làm tiêu tan nhà Chu , Dương Quí Phi chỉ mỉm cười cũng đủ làm Đường Huyền Tôn són đái đó là chuyện xưa.
Còn ngày nay, xếp Edward Kennedy cũng vì nàng Mary Jo mà thân bại danh liệt. Chú nhỏ Gary Hart cũng vì cái “ lima ” của chị Donna Rice mà tiêu tùng sự nghiệp. Cả đến các bậc tu hành Jim Baker, Oral Robert, Marvin Gorman và Jimmy Swaggart cũng vì “cái sự đời” mà sự nghiệp tiêu ma. Thế mới biết, cổ nhân ngày xưa đã nói: Sắc bất ba đào dị nịch nhân. Nhan sắc đàn bà không có sóng mà đánh chìm được con người.
Nhưng cứ đem đàn bà ra tố khổ là điều bất công. Đàn bà cũng trăm thứ đàn bà. Đàn bà của cụ Tú Xương thuộc loại:
“Đàn bà lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non” nên Tú Xương không bỏ được, lại còn được sống trong chế độ ba nuôi:
Nhỏ cha mẹ nuôi, lớn vợ nuôi, già con nuôi.
“Nhỏ thì nhờ mẹ nhờ cha,
Lớn lên nhờ vợ về già nhờ con.”
Đàn bà như vậy ngu sao mà bỏ. Cái đau là gặp phải loại đàn bà cột tìm trâu, tối ngày mò tới đàn ông, chằn ăn, trăn quấn:
“Chữ trinh đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu vụng nhớ thầm
Họp chợ trên bụng có trăm con người.”
Gặp loại đàn bà như vậy mà vẫn không sao bỏ được mới là tai hoạ. Đời sống tị nạn gặp phải cảnh gái thiếu trai thừa, cộng thêm cái hoạ là phong tục xứ người nữ trọng nam khinh. Lộ trình của các ông cứ dần dần đi xuống cực tiểu, trong khi lộ trình của các bà thênh thang như xa lộ không đèn.
Nếu may mắn chớp được một bà dù đẹp, dù xấu, dù hư, dù nên chắc cũng phải khư khư giữ lấy và cũng bắt chước cụ Tú Xương mà ngâm nga:
Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.
QUÁCH TỐ VƯƠNG
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
04-08-2019
|
#67
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Nhà hàng khỏa thân ở Paris đóng cửa vì thiếu khách hàng
Nhà hàng khỏa thân ở Paris đóng cửa vì thiếu khách hàng
Hơn một năm sau khi khai trương, nhà hàng khỏa thân đầu tiên của Paris sẽ chuẩn bị đóng cửa vào tháng 2 do thiếu kinh doanh.
O’Naturel khai trương vào tháng 11 năm 2017 tại thành phố ánh sáng, một minh chứng cho sự phổ biến ngày càng tăng của chủ nghĩa tự nhiên ở Pháp.
Nhưng thật không may, nó đã không chứng minh được sự phổ biến như mong đợi, vì các chủ nhà hàng vừa công bố ngày cuối cùng sẽ vào tháng tới.
"Thật tiếc nuối khi chúng tôi tuyên bố đóng cửa nhà hàng O'Naturel vào thứ Bảy, ngày 16 tháng 2 năm 2019", chủ nhà hàng 42 tuổi Mike và Stephane Saada, tuyên bố, trên The Local.
"Cảm ơn bạn đã tham gia vào cuộc phiêu lưu này bằng cách đến dùng bữa tại O'Naturel. Chúng tôi sẽ chỉ nhớ những khoảng thời gian tốt đẹp, gặp gỡ những người đẹp và khách hàng đã vui mừng chia sẻ những khoảnh khắc đặc biệt."
Khách sạn 40 chỗ ngồi trong phòng kiểm tra quần áo trước khi được mang đến bàn của họ. Ở đó, họ có thể dùng bữa với giá cao cấp của Pháp, bao gồm vịt foie gras và escargot, hoàn toàn khỏa thân.
Tuy nhiên, nhân viên phục vụ và nhân viên nhà bếp vẫn mặc quần áo vì lý do vệ sinh, cùng với bất kỳ thanh thiếu niên nào, phải có người lớn đi kèm.
Michelle Gant - BM
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
04-11-2019
|
#68
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
30 THÁNG 4 NĂM 1975: NHỮNG KHUÔN MẶT MỸ KHÓ QUÊN
"Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong, bởi vì ... cái giá phải trả cho loại hòa bình đó là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ về sau." (TT Ronald Reagan)
Cứ mỗi lần 30/4 về trên đất tha phương là mỗi lần lòng tôi cũng như bao nhiêu người khác ngậm ngùi thương tiếc những năm tháng cũ ở quê nhà.
Những người trẻ chỉ nghe chỉ biết ngày 30/4/75 là ngày đau thương khóc hận của người dân Việt Nam. Nhưng cũng có những người trẻ đã sống với chế độ cộng sản trong những năm qua thì không mấy quan tâm đến ngày đau thương khóc hận này. Trong lúc đó một số Việt gian hay VC nằm vùng thì tìm mọi cách xoá bỏ ngày Quốc Hận này theo chỉ thị của đảng csVN.
AI ĐÃ GÂY RA CHIẾN TRANH VN?
Ngày 4/10/1957 Nga sô loan báo sự thành công khi phóng vệ tinh Sputnick lên quỹ đạo, dẫn đầu trong cuộc chạy đua vũ trang với hỏa tiễn Liên lục địa có kéo theo đầu đạn nguyên tử đã làm các nhà chính trị ở Hoa Kỳ và tinh báo Mỹ rất quan tâm. Sự thắng thế của Nga trên kỹ thuật đầu đạn nguyên tử đã làm cho Nga mang ước vọng bá chủ hoàn cầu. Muốn thống lãnh toàn cõi thế giới, Nga cần phải kiễm soát hết vùng Đông Nam Á để từ đó Nga đi lần vào Úc thực thi mộng bá chủ Hoàn Cầu.
HCM bây giờ là chủ tịch đảng CSVN tại Bắc Việt. Đồng thời HCM cũng là một tên tay sai của Cộng Sản Nga và lấy chỉ thị của Nga Sô mở chiến tranh tại Nam VN hầu thực thi mộng bá chủ hoàn cầu của Nga.
Người Mỹ biết được vai trò tay sai của HCM và dã tâm thôn tính VN và vùng Đông Nam Á của Nga sô nên quyết định đem quân vào bảo vệ Ðông Nam Á hầu ngăn cản mộng bá chủ hoàn cầu của Nga theo vết dầu loang.
Toàn dân VN ai ai cũng biết chính HCM đã gây ra cuộc chiến VN, đã biến quê hương VN làm chiến trường trên sự tranh dành ảnh hưởng bá chủ toàn cầu giữa chiến tranh lạnh của Mỹ và Nga Xô.
SỰ ĐỌ SỨC GIỮA NGA SÔ VÀ HOA KY QUA SIÊU KỸ THUẬT VŨ TRANG.
Song song với chiến trường đẫm máu tại VN, chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Nga Sô cũng tăng dần nhiệt độ. Mọi người sống trong bối cảnh chính trị lúc bấy giờ, phần đông đều có dự đoán về sự kết thúc của chiến tranh lạnh sẽ phải trãi qua một cuộc chiến tranh nguyên tử, có thể đưa đến sự diệt vong của nhân loại !
Nhưng không, Hoa Kỳ một mặt hổ trợ chiến trường Nam Việt Nam (Cửa ngõ của Ðông Nam Á [ÐNA] ), một mặt phải chạy đua trên siêu kỹ thuật vũ trang để cuối cùng Mỹ đã thắng Nga và Nga đã phải chấp nhận thua mà Mỹ không cần đến một cuộc chiến tranh tàn khốc.
TIỀM THỦY ĐỈNH K129: NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN SỰ THẤT BẠI CỦA NGA SÔ TRONG CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH.
Ngày 24-2-1968 (Cái năm này CSVN cho Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân). Chiếc tiềm thủy đỉnh của Nga mang số K129 có mang đầu đạn hoả tiễn nguyên tử, phát xuất từ Hải Sâm Uy (Vladivostok) ở miền cực đông Nga sô, trực chỉ về hướng đông của Thái Bình Dương. Nhiệm vụ của K129 là phải đạt được mục tiêu, tiến gần đến Mỹ chừng nào tốt chừng đó, nhất là ở Hạ Uy Di để Nga sô có thể uy hiếp Hoa Kỳ bằng hỏa tiễn nguyên tử. Cho dù Hoa Kỳ có muốn bảo vệ hoà binh thì cũng không dám tấn công Nga. Chiếc tiềm thủy đỉnh nguyên tử K129 có 98 thủy thủ Nga Sô. Khi chiếc tiềm thủy đỉnh K129 của Nga tiến dần vào mục tiêu của Thái Bình Dương, cả nước Mỹ báo động, tình báo Hoa Kỳ báo động. Nhưng trước lòng biển cả mênh mông Hoa Kỳ có đi tìm chiếc tầu ngầm K129 đã lặn sâu dưới biển cũng lại là một vấn đề.
Biển mênh mông và xa vắng. Lệnh báo động đã được ban hành. Toàn bộ Ngũ Giác Ðài và Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ chuẩn bị ứng chiến để tiêu diệt K129. Họ chăm chú vào biển cả theo dõi bất cứ một động tịnh nào.
12 ngày sau khi xuất phát, K129 tiến dần đến cách bờ biển Hoa Kỳ khỏang 1200 dặm về phía Tây Bắc Hạ Uy Di thì gặp tai nạn.
Một tiếng nỗ làm lũng sườn tàu và chiếc K129 chìm rất nhanh, đâm thẳng ở độ sâu 4 dặm. Vì chìm quá nhanh, nên K129 đã không kịp báo động hay kêu cứụ Bộ Tư Lệnh tối cao Nga Sô đã không biết việc gì đã xảy ra cho K129. Người Mỹ thì giữ hoàn toàn im lặng. Im lặng của biển sâu. Họ làm như hoàn toàn không biết chuyện gì xảy ra. Trong khi đó Nga Sô không có tin tức rõ ràng về việc K129 đã bị tấn công như thế nào !!!
Nga Sô mòn mỏi chờ đợi nhiều ngày, nhưng vẫn chỉ là một sự im lặng không hồi âm... Sau đó Nga Sô ra lệnh cho Ðô Ðốc Nga ông Valentin Betz, chỉ huy một hạm đội gồm 11 chiến hạm nhẹ chạy theo hướng ra đi không trở về của K129. Sau 6 tuần lễ tìm kiếm K129 vẫn biệt vô âm tín. Hạm đội Nga đã trở về tay không. Nga bảo vệ bí mật tầu ngầm và hỏa tiển của họ rất chu đáo. Nhưng trong thâm tâm Nga tin rằng Mỹ đã ra tay, dù Mỹ có làm ra vẽ không biết một điều gì... Nga cũng đã thấm thía trọn vẹn sự thất bại của mình. Nga vẫn mang nỗi hoài nghi về Mỹ qua chiếc tiềm thủy đĩnh K129 . Bởi trong chiến tranh lạnh cũng cần nói đến chiến tranh kỹ thuật. Ai nắm được kỹ thuật của ai về vấn đề nguyên tử hay tầu ngầm tức là kẻ đó đã thắng. (The Amazing Story Of K129). Năm 1989 khi Nga thả Tiềm Thủy Ðĩnh K129 là để trắc nghiệm thử coi Mỹ có nghiên cứu và nắm vững kỹ thuật nguyên tử tàu ngầm của Nga không? Nga đã vỡ lẽ ra đã thua canh xì phé ở cuộc chiến VN và K219 đã bị Mỹ theo dõi ngay từ khi xuất phát, Kỹ thuật của Mỹ cũng đã quan sát được những sinh hoạt trong chiếc tầu K219 . Cuốn phim The Hunt For Red October có diễn tả sự kiện này. Gorbachev và Yeltsin đã phải chấp nhận thua Mỹ trong cuộc chiến tranh Lạnh.
Mỹ biết chính xác nơi chiếc tàu ngầm K129 bị chìm, và một khoảng thời gian sau đó đã âm thầm cho tàu trục vớt mang nó về Mỹ để nghiên cứu mọi kỹ thuật về tàu ngầm, về hỏa tiển mang đầu đạn hạt nhân của Nga và toàn bộ mật mã điều khiển các hỏa tiển này
VIỆT NAM CỘNG HOÀ TRONG CANH BẠC GIỮA NGA VÀ MỸ
Ðầu tuần tháng 3/1968. Nga thấm thía nỗi mất mát Tiềm Thủy Ðĩnh K129 trong khi đó ngày 20/3/1968 Tổng Thổng Johnson cử Ðại tướng Wheeler đi thăm chiến trường VN. Ngày 31/2/1968 tổng tấn công tết Mậu Thân của VC hoàn toàn bị tiêu diệt. Quân đội đồng minh Mỹ và VNCH chiếm lại thành phố Huế sau 30 ngày thất thủ. Tuy vậy, TT Johnson đã đọc một bài diễn văn tuyên bố chấm dứt oanh tạc Bắc Việt vô điều kiện. Tổng Thống Johnson kêu gọi Anh Nga can thiệp để mở cuộc hoà đàm nhưng Nga vẫn không chịu. Nga nghĩ rằng Mỹ đã vồ được K129 nên giả vờ hàng ở VN để rãnh taỵ
Mỹ đã đọc được sự suy nghĩ của Nga nên đã dàn dựng không biết bao nhiêu chiến thuật như những tài liệu của Ngũ Giác Ðài tuyên bố thua phải rút quân. Ưu đãi CSVN rất nhiều điều kiện như việc Ðinh Bá Thi và phái đoàn CSVN vào LHQ quan sát... Nga vẫn bán tin, bán nghi về Mỹ nên nhất quyết không cho CSVN ngồi vào bàn Hoà Ðàm Ba Lê.
Trong khi Mỹ năn nỉ ỉ ôi Trung Cộng giúp đỡ cho Mỹ thoát khỏi bãi sa lầy tại Nam VN. Cũng cùng lúc đó Mỹ đã nhận thức sự chiến đấu anh dũng của quân lực VNCH nên đã dùng thủ đoạn bó tay người lính VNCH trên chiến trường trực diện bằng cách cắt bỏ viện trợ không tiếp tế súng đạn để đồng minh VNCH ra chiến trường bằng những vũ khí xa xưa trong thời đệ nhị thế chiến để đối đầu lại với sức mạnh vũ bảo của những vũ khí tối tân của Nga Sô và Trung Cộng.
Khi người Mỹ đã được ngồi vào bàn Hoà Đàm Ba Lê để rút chân ra khỏi Nam VN trong danh dự thì họ quên ngay người bạn đồng minh đã từng sánh vai sát cánh bên nhau bảo vệ tự do cho Đông Nam Á.
Ngày ký Hoà Đàm Ba Lê chưa ráo mực thì VC bất chấp mọi ký kết đem quân xâm lăng Nam VN trước sự phủi tay trắng trợn của Đồng Minh.
Trong những ngày gần đến 30 thang 4 dân chúng miền Trung chạy loạn vào Nam tìm đường trốn VC. Những chiếc ghe bé bỏng ngoài biển khơi Đà Nẳng, những chiếc phà bên bến Sơn Chà là những nơi con dân miền Trung chết thê thảm trên đường trốn chạy.
Từ Đà Nẵng tháng 3 sông nước ngậm ngùi dân chúng tìm đường chạy vào Saigon, Nha trang. Người dân bồng bế nhau tìm đường sống cố thoát ra khỏi mọi tăm tối mà VC sắp vào. VC nhã súng đạn vào người dân. Những con đường mang đầy thân xác người dân Nam VN nằm ngỗn ngang trên đường phố. VC vào, nhà tan cửa nát . Không biết bao nhiêu cảnh thương tâm xảy ra trong một ngày mất nước. Cha mẹ con cái lìa xa nhau không biết bao giờ gặp lại. Người dân bỏ nước ra đi trên những thuyền bè bé nhỏ cho dù đã biết có ra đi cũng sẽ chết. Biển đêm đêm vọng về lời than khóc ai oán cho những thân xác bỏ mình trong biển sâu. Trời cũng khóc, đất cũng than cho sự tàn ác của VC . Sống và chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Khăn tang và hương khói ngút ngàn trong ngày mất nước. Cả nước Nam VN khóc, hận, đoạn, lìa, chia cắt. Một ngày mà cả nước cùng khóc cùng hận trên sự tham tàn của bọn rừng rú răng hô mã tấu giết người. MỘT NGÀY QUỐC HẬN. MỘT NGÀY 30/4/1975.
Đã vậy cũng chưa hết. Khi những người VN tỵ nạn đến Mỹ qua Đạo luật hổ trợ người di cư và tị nạn Đông Dương, được thông qua vào ngày 23 tháng 5 năm 1975, dưới thời Tổng thống Gerald Ford, như là một hành động đền bù đối với sự sụp đổ của Sài Gòn và chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Đợt đầu hơn 700,000 người đã đến tỵ nạn tại Hoa Kỳ sau khi Mỹ bỏ rơi Nam VN, thì … cũng vào lúc đó người tỵ nạn Việt Nam vào Mỹ bị Đảng Dân Chủ ra tay ngăn chận.
Thống Đốc Dân Chủ Jerry Brown là người đã chống phá việc Người VN vào Mỹ tỵ nạn. Ông cấm không cho người tỵ nạn Nam VN vào tiểu bang California trong thời gian đầu tiên ông làm Thống Đốc tại đây. Ông ngăn cấm người Việt tỵ nạn vào đây trong khi ông im lặng trước sự xâm nhập của dân Trung Mỹ , Nam Mỹ hay từ Mexico. Trong khi đó Jerry Brown đã ra sức ngăn cản máy bay chở người Việt tỵ nạn xuống căn cứ không quân Travis gần Sacramento.
Ngoài Jerry Brown còn có Thượng Nghị Sĩ Joe Biden đã phàn nàn chính quyền Ford tại sao lại cho dân tỵ nạn VN vào định cư ở Mỹ. Cả hai ông đảng Dân Chủ Jerry Brown và Joe Biden đã từng tuyên bố là : “Một cách tốt hơn hết là để người VN ở lại VN".
Những người trong đảng dân chủ không muốn cho dân tỵ nạn VN vào Mỹ và người Tỵ nạn VN cũng nhớ rất rõ ràng về sự việc này. Hôm nay Joe Biden ra tranh cử vào nhiệm kỳ 2020, liệu ông ta có còn nhớ lại hành vi tàn bạo bất nhân của ông ta khi từ chối dân tỵ nạn VN do Mỹ bán đứng cho Cọng Sản giết và cầm tù được vào Mỹ hay không ?
Còn người Việt Nam Tỵ Nạn cộng sản chắc chắn sẽ không bao giờ quên sự đau thương về nhà tan cửa nát, về sự tráo trở của Đồng Minh và nhất là về sự tủi nhục bị hất hủi từ chối của TNS Joe Biden, Jerry Brown của đảng Dân Chủ./.
Tôn Nữ Hoàng Hoa
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
|
|
|
04-19-2019
|
#69
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Đời Cải Tạo: Cái Khó Ló Cái Khôn
Tôi bị nhốt tám năm trong ngục tù Cộng Sản, được mệnh danh một cách mỹ miều là Trại Cải Tạo. Trong tám năm đó, ngoài sự hành hạ của đám cai tù, chúng tôi còn bị thời tiết khắc nghiệt và những con vật và ký sinh đáng ghê sợ hành hạ để bổ túc thêm nỗi đoạn trường cay đắng mà con người trong chốn lao tù này phải chịu đựng, chẳng thua gì một con vật.
Trong phạm vi bài này, tôi chỉ trình bày giới hạn một vài khía cạnh 'khôi hài đau ruột' về sự vật lộn, tranh sống giữa người và vật để sinh tồn trong hoàn cảnh đói khát giống nhau. Lẽ tất nhiên con người phải hơn con vật, vì con người có đủ trí khôn để khống chế, đè bẹp những con vật nào muốn lợi dụng hoàn cảnh ngặt nghèo để uy hiếp, tấn công đối thủ với mục đích tàn phá cơ thể cũng như những gì con người sở hửu.
SỰ VẬT LỘN GIỮA NGƯỜI VÀ RỆP
Trong những ngày tháng đầu tiên, khi bước chân vào trại tù, chúng tôi đã rất khổ cực về thể xác lẫn tinh thần, phần vì suốt đêm trằn trọc lo nghĩ về thân phận, về gia đình, phần vì phải đối phó với lũ rệp đông đảo không thể tưởng tượng được. Hằng đêm, chúng tôi đã phải ngồi dậy bắt rệp, bằng cách bóp nát chúng giữa hai ngón tay và đưa lên mũi ngửi mùi máu tanh tưởi của chính mình, như là một hành động phản xạ một cách xót xa của lý trí, khí thấy từng giọt máu của mình bị con vật hút đi, thay vào đó là những mầm mống bệnh tật.
Trong thời kỳ đói kém của những năm đầu sau 75, C.S đã bắt chúng tôi lao động cật lực để tự túc, chứ không hề có một sự giúp đỡ nào từ bên ngoài. Suốt ngày, chúng tôi hết đào hố sắn từ đồi này qua đồi nọ, lại 'nên nuống trồng nang trồng nạc' (lên luống trồng lang trồng lạc), theo một chỉ tiêu của loài vật. Do đó, tối đến là chúng tôi rã rời thân xác, chỉ mong nằm xuống để chìm ngay vào giấc ngủ mệt nhoài, không còn sức lực nào để giết rệp như những ngày đầu mới nhập trại. Thế là, bọn tàu lặn, mặc sức tung hoành, nhậu nhẹt đến căng bụng những giọt máu vốn rất hiếm hoi của những người tù bất hạnh!
Những tên bò sát này rất khôn ngoan, cũng như những người lính biệt kích được huấn luyện rất tinh nhuệ. Chúng 'di tản chiến thuật' rất tài tình. Khi trời vừa sáng, trước khi tiếng kẻng đánh thức chúng tôi dậy lúc năm giờ, thì chúng đã kịp 'lặn' sâu vào vào những hang động, nơi địa hình hẻm hóc, nằm im chờ đến hôm sau lại bò ra 'nhậu' tiếp, chỉ còn vài ba tên cố bám, hoặc vì nhậu no quá không kịp đào thoát, còn bám trên mùng mền, nên bị chúng tôi hành quyết tại chỗ.
Chúng tôi biết chắc lũ rệp phải mất một thời gian để len lỏi từ điểm khởi hành đến nơi ăn nhậu. Chúng phải chui qua mùng, lội ngược lên chiếc chiếu, chiếc mền, rồi mới đến cơ thể của chúng tôi. Biết được lộ trình của địch, chúng tôi liền dựng lên chiến luỹ 'Magino' để ngăn bước tiến của quân thù, hoặc ít ra cũng kéo dài thời kỳ tiến quân của chúng cho đến sáng.
Miền Bắc mùa Đông trời rất rét, nên chúng tôi được phát mỗi người một tấm mền dày, cộng thêm của riêng của chúng tôi, gồm một vài tấm mền mỏng hoặc tấm ra, và một số bao cát, dùng làm vật chắn, thế là chúng tôi có đủ vật liệu để xây thành. Những chiếc mền này chỉ để xử dụng ngăn lũ rệp vào mùa hè, còn mùa rét thì dùng để đắp, vì rệp thường ngủ yên, không hành quân vào mùa này.
Công việc xây chiến luỹ cũng đơn giản thôi. Trước khi nằm xuống, chúng tôi cẩn thận nhét mùng thật sâu dưới chiếu, một cái mền được xếp rộng hơn, phủ lên chiếc chiếu làm tấm bia thứ nhì, chiếc mền thứ hai, rộng hơn nữa, phủ lên chiếc mền thứ nhất...sau hết, chúng tôi dùng những bao cát chận lên những chiếc mền, đến đây xem như chiến luỹ Magino hoàn tất. Kết quả thật không ngờ, chỉ còn mười phần trăm quân du kích lọt qua được chiến luỹ của chúng tôi mà thôi! Mà khi chúng vào lọt được rồi, thì trời cũng sắp sáng, chúng chưa kịp làm ăn gì thì đã bị chúng tôi phát hiện và giết gần sach, vì chúng thường bám lấm tấm trên mùng, nên rất dễ thấy.
Chúng tôi biết 10% tên này cũng đã phải vất vả, lội suối băng đèo suốt đêm mới tới đích, chắc chúng cũng đã mệt lả rồi! Thật đúng là một sáng kiến, mới nghe qua rất là khó tin, nhưng thật sự chúng tôi đã thành công tốt đẹp. Cái khó đã ló cái khôn, và cái khôn này đã tiết kiệm cho chúng tôi ít nhiều xương máu trong những ngày tháng dài đăng đẳng của kiếp tù đày. Chuyện rệp còn dài, nhưng chúng tôi xin tạm ngừng nơi đây, vì con ruồi đang chờ.
TRÁNH DƠ CHẢ XẤU MẶT NÀO
Ở Hoàng Liên Sơn, trong rừng sâu, có một loại ruồi, mà khứu giác của chúng, có thể nói là nhạy hơn loài chó săn. Chúng có màu nâu đen, nhỏ hơn ruồi xanh một tí, nhưng lại bay nhanh kinh khủng. Tôi mô tả đoạn này hơi khó khăn, vì phải bàn đến cái thứ mà ai nghe cũng nhăn mặt, bịt mũi. Nếu không được thơm, xin độc giả miễn thứ cho, vì đây là sự thật.
Khi lao động ngoài đồng, nếu có 'nhu cầu tống xuất' đòi hỏi, thì tù nhân chỉ việc vác cái cuốc đến gặp cán bộ quản giáo (chúng tôi còn gọi là cán bộ súng ngắn, trình độ tiểu học, lo về 'bát nháo dục'), hoặc cán bộ quản chế (cán bộ súng dài, lo về việc chế ngự tù vượt ngục), đứng thẳng người hô to: 'Báo cáo cán bộ, tôi đi ngoài'
- 'Được!', tên cán bộ đáp, nghe rất oai phong lẫm liệt!
Thế là người tù ung dung, thụ hưởng cái mà chúng tôi cho là một đặc quyền đặc lợi, không thể bị từ chối, dù lúc đó nhu cầu không đòi hỏi. Ai dại gì bỏ qua! Tại sao không hưởng thụ mươi mười lăm phút ngồi xả hơi trong bóng mát, không làm gì, hoặc làm một việc nhẹ nhàng, mà các 'chú' cho là một trong tứ khoái, thay vì phải cuốc lia cuốc lịa theo chỉ tiêu, dưới ánh nắng chảy mỡ, và dưới những cặp mắt cú vọ của những tên cai tù ngu dốt và hách dịch.
Nhưng khốn khổ thay, từ khi chúng tôi 'move' đến khu rừng này, thì một loài không tặc ở đâu bay đến cướp mất cái đặc quyền 'tự khoái' độc nhất của chúng tôi, biến những giây phút thần tiên thành địa ngục! Sự ung dung, thoải mái không còn nữa, mà trở thành vội vã và bất đắc dĩ! Vì, sau khi 'an toạ' hưởng nhàn một vài phút, để chuẩn bị 'thả bom' xuống cái hố nhỏ mới đào xong, thì bỗng nghe 'vù' một âm thanh, cùng một luồng gió chướng từ đâu bay đến: một sư đoàn Mig-19 ào ạt tấn công hố bom chúng tôi vừa thả, đồng thời chúng hạ cánh bừa lên chỗ phát xuất những trái bom!
Thế là anh phi công cứ phải nhỏm lên, nhỏm xuống, tay quơ lia lịa vì nhột nhạt và sợ bị dính bom! Thế thì còn gì là khoái lạc, là êm đềm, là thưởng thức, là thoải mái, là v.v...và v.v...? Thà lao động cực nhọc còn hơn!
Nhưng, một lần nữa, cái khó ló cái khôn, lại đến với chúng tôi. Để bảo vệ cái đặc lợi Trời cho, chúng tôi dùng một chiến thuật, gọi là 'điệu hổ ly sơn' để đối phó với lũ không tặc mất vệ sinh này: Chúng tôi đào hai hố bom! Các bạn hiểu rồi chứ? Sau khi quả bom cuối cùng được thả ra ở hố bom thứ nhất ( bom 'bo bo' chưa lột vỏ, nên 'đi' rất nhanh), chúng tôi 'di chuyển chiến thuật' qua hố bom thứ hai ngay. Tất cả lũ không tặc đều tập trung ở hố bom thứ nhất, để yên cho người phi công thưởng thức cái 'bất chiến tự nhiên thành' của mình, vừa hút gió vừa nhìn lũ tham ăn một cách khoái chí. Sau điệp vụ thả bom, cây cuốc được dùng đến để lấp cả hai hố bom, khiến một số đông phi đoàn Mig-19 bị vùi thây dưới hố vì mải lo nhậu nhẹt!
CHUỘT GẶM THỊT NGƯỜI, NGƯỜI NHẬU THỊT CHUỘT
Ngoài việc truyền bệnh dịch hạch ra, chuột còn phá phách, ăn vụng không biết bao nhiêu là quà cáp của tù nhân, trong những ngày đầu tiên, khi chúng tôi được nhân quà, sơ sài đựng trong bao nylon hoặc bao giấy.
Hai năm đầu tiên, khi chúng tôi chưa được gởi quà, thăm nuôi, thì không thấy bóng dáng chuột, chẳng hề bị phá phách quầy rầy gì cả, vì chẳng ai có gì để cho chúng phá! Vào mùa Đông, đi vào bất cứ một căn nhà nào ( thường được gọi là láng), vào ban đêm, bạn sẽ có cảm tưởng như đi vào nhà xác vậy. Hai dãy giường dưới và hai dãy giường trên, lối đi ở giữa, gồm toàn những tấm thân trùm mền kín mít, im lìm, bất động. Cái đói và cái rét cắt da đã biến chúng tôi thành những thây ma, suy tư rất nhiều, nhúc nhích rất ít. Người đói, chuột đói. Người lạnh, chuột lạnh, nên không ai đủ sức hại ai.
Nhưng đến khi những món quà ba kí, rồi mười kí, rồi cả tạ được gởi vào, thì bầu không khí cả trại tù bỗng sôi động hẳn lên, không còn vắng lặng, im lìm, chết chóc như xưa. Hoàn toàn thay đổi 180 độ. Thuốc lào kêu rét rét cả đêm, đó đây tụm ba tụm bảy, ngồi kể chuyện Tàu, chuyện tiếu lâm, ăn nhậu những thức ăn chế biến rất kỳ quái, nhưng lại ngon đáo để. Thỉnh thoảng lại bỗng vang lên những tiếng cười sảng khoái...Thật là 'có thực thì cà giựt cà tàng, không thực thì nằm đực một đống'!
Nhưng đây cũng là lúc lũ chuột ra tay hành động! Những gói quà đầu tiên đều là nạn nhân của chúng, mà từ lâu im lìm lặng lẽ, nay bỗng vùng dậy một cách mãnh liệt, vì những thức ăn quá hấp dẫn, thơm lừng, bỗng xuất hiện trong một vùng trời nghèo đói, thức ăn hằng ngày chỉ là muối rau, khoai sắn, con người không đủ ăn, đừng nói đến loài chuột!
Không có cách nào bảo vệ an toàn hơn những món quà yêu quý bằng cách là mang chúng vào ngủ chung trong mùng với mình, hoặc làm gối kê đầu, hoặc ôm vào lòng như ôm 'người tình trong mộng' vậy! Chỉ có cách đó mới thoát khỏi lũ chuột tinh quái, đã làm rách nát, vung vải và thất thoát 'nguồn sống' của chúng tôi trong những ngày đầu bất ngờ và chưa kinh nghiệm. Thế mà lũ chuột vẫn chưa chịu thua, chúng chờ đến nửa đêm, mò đến bên giường chúng tôi ngủ, khi thì cắn lộn ngón chân, khi thì gặm nhầm vành tai, cứ tưởng chúng là những miếng thịt 'dăm bông' hay là 'xúc xích' chưa đóng hộp! Ghê thay cho lũ chuột táo gan! Cũng vì đói và sự thèm khát con khô con thiều quá mạnh mẽ biến chúng thành những con vật liều mạng, không biết sợ hãi là gì!
Tuy nhiên, những gói quà kế tiếp không còn đựng trong trong bao bì nữa, tất cả những thức ăn đều được vô lon hết. Chúng tôi đã báo động cho thân nhân biết để dấy lên phong trào 'lon gô', một thứ lon đựng sữa bột 'guigoz' cho trẻ em, vô cùng thực dụng. Nó vừa nhẹ, vừa bền, rất tiện việc đựng thức ăn và làm nồi để nấu nướng, nóng rất nhanh, vì chất nhôm dẫn nhiệt rất lẹ. Nhà sản xuất lon 'gô' ở Pháp đâu có ngờ đã cho ra đời một sản phẩm vô cùng quý báu cho đám tù nhân chúng tôi! Xin chân thành cám ơn và hoan hô hãng sữa bột hiệu Guigoz! Những chiếc lon màu trắng bạc xinh xắn, nhẹ nhàng này đã khoá mõm lũ chuột thật sự có hiệu quả, vì hằng đêm chúng tôi vẫn nghe tiếng sột sột do lũ gặm nhấm cào cắn, nhưng lon gô đủ bền để chống lại những chiếc răng sắc nhọn của lũ chuột.
Khi chúng tôi có đầy đủ gia vị, thì phong trào bắt chuột lại được dấy lên, thứ nhất để tiêu diệt mầm mống bệnh dịch, thứ hai là ít ra chúng tôi cũng hấp thụ được ít nhiều chất 'protein' để bồi bổ cơ thể đang thiếu hụt chất thịt. Chuột gặm thịt người, người nhậu thịt chuột! Rõ là 'có qua có lại mới toại lòng nhau!'
SỤC BÙN VỚI ĐỈA
Hai chữ 'sục bùn' có vẽ lạ lẫm đối với người miền Nam, nhưng miền Bắc thì ai cũng biết, vì đây là công việc làm tốt cây lúa non, vô cùng lạc hậu và cực nhoc, chỉ có các nước C.S mới áp dụng cho người dân của họ: Khi cây lúa mọc cao khoảng một hai gang tay, gốc cây cần được vun xới và nhổ cỏ xung quanh gốc, thay vì dùng cào nhỏ để làm công việc này, thì cai tù lại bắt chúng tôi phải dùng hai tay để bóp nắn và nhổ cỏ từng gốc một, như thể làm 'massage', cho cây lúa được khoẻ mạnh chóng lớn! Muốn làm công việc này, thì chúng tôi phải sắp hàng ngang, bắt đầu từ bờ ruộng bên này, khom mình xuống, vừa đi tới vừa dùng hai tay, ôm từng gốc cây, cứ thế mà bóp và nhổ cỏ, sang bờ ruộng bên kia, mới được nghỉ một vài phút trước khi tiếp tục công việc hành hạ những tấm lưng còm rời rã, mỏi nhừ!
Việc sục bùn đã vất vã lắm rồi, lại cộng thêm nỗi ghê sợ đeo đuổi theo từng bước chân của người tù với những con đỉa to có, nhỏ có, tuôn ra khi nước bùn bị khuấy động, từ chỗ nước trong, từ hẻm hóc, bờ bụi hướng về mục tiêu di động để hút máu no nê, bụng căng phồng. Ngày đầu tiên, có những tù nhân ngại ngùng, ghê sợ, không dám bước xuống ruộng, thì đã có cán bộ súng ngắn súng dài quát tháo, ép buộc, doạ nạt : 'Này, mấy anh kia! muốn ở đây suốt đời hả? Lao động không tốt thì đừng mong về sớm nhá!' Thế là, không có cách nào khác, những người tù kia cũng đành nhắm mắt đưa cả chân cả tay cho lũ 'ma cà rồng' dưới nước thoả mãn nhu cầu của chúng.
Có anh tù nhân, vì quá ghê sợ con vật, liền lật đật lấy chiếc quần dài mặc vào, nhưng vì hơi lính quýnh, đưa cả hai chân vào một ống quần nên mất thăng bằng, té cái ùm xuống ruộng lúa, nước lúp xúp ngang ống chân, khiến các tên cán bộ cười ngặt nghẽo một cách khoái trá. Riêng chúng tôi, khi nhìn hoạt cảnh này, không ai cười nổi, ngược lại trong lòng cảm thấy một nỗi xót xa, cay đắng và căm hờn. Cách tốt nhất chúng tôi học được, để lôi cổ con đỉa ra khỏi da thịt chúng tôi, là dùng nước miếng nhổ vào bàn tay, bôi vào hai cái vòi của nó, và giật nó ra, nhờ chất nhờn của nước miếng, con đỉa không còn bám được vào da thịt nữa, tuy nhiên, máu đã thấy rỉ ra và con vật vẫn có đủ thời giờ để đánh chén một bụng no sau nhiều lần cố bám. Thật đúng, 'lao động là vinh quang' cho loài đỉa, biến những gốc lúa thành những củ khoai mì, bo bo cho tù nhân, và những bát cơm cho giới lãnh đạo, vì chúng tôi làm gì mà được ăn thứ xa xỉ này, mặc dù hạt gạo do chính đôi bàn tay chúng tôi làm nên!
Ngoại trừ những con vật đáng ghét như trên đã nêu, tôi chỉ đưa ra một con vật đáng thương nhất trong tù, đó là con trâu. Suốt đời bị đày đoạ làm việc nặng nhọc, nhất là vào mùa lúa, ngoài sự vất vả cày bừa hết ruộng này qua ruộng nọ, lặn hụp dưới bùn lầy, con trâu là một miếng mồi ngon vỗ béo cho lũ ký sinh hút máu. Không có gì đáng thương hơn khi nhìn chúng trên bờ ruộng, với dáng điệu hiền lành chịu đưng, trong khi dưới bụng chúng, lòng thòng năm ba con đỉa, to bằng ngón tay cái, dài khoảng nửa tấc, gọi là đỉa trâu, mà lần đầu trông thấy, ai cũng muốn nổi gai ốc! Tội nghiệp hơn ở chỗ con trâu đã không hề hay biết, hoặc có biết đi nữa thì cũng bất lực chịu đựng trước sự tấn công tàn nhẫn của những chiếc vòi, hút tỉa những giọt máu tươi quý giá nhất trong cơ thể của nó, vốn đã gầy còm! Cuối cùng, đau đớn thay, những con trâu này lúc về già, trở thành vô dụng, liền bị đem ra xẻ thịt làm thức ăn cho con người trong những ngày lễ lạc tết nhứt (ngoài Bắc ăn thịt bò là một thứ đại xa xỉ, chỉ dành riêng cho giới giàu có hoặc cán bộ cao cấp.
‘SÁNG TAI HỌ ĐIẾC TAI CÀY'
Tuy nhiên, điều tôi muốn nói ở đây, không phải là kiếp đoạ đày của con trâu ( thật ra sống trong ngục tù C.S, con người cũng chẳng khác gì con trâu), mà là cái khó đã ló cái khôn ở con trâu, mà con bò không có. Người ta nói ngu như bò, chứ không ai nói ngu như trâu! Tục ngữ ta có câu 'sáng tai họ, điếc tai cày', có làm việc chung với trâu, tôi mới thấy câu ngụ ngôn này sao mà đúng thê! Này nhé, khi điều khiển trâu để cày hay bừa một thửa ruộng, ta phải biết dùng ngôn ngữ của trâu để hướng dẫn nó đi cho đúng đường. Chẳng hạn như 'tắc' là đi, 'hò' là đứng lại.
Một điều mà tôi thấy rất rõ là con trâu khi nghe 'hò', thì nó đứng phắt lại ngay, không đợi đến tiếng thứ hai, nhưng khi nghe 'tắc', thì phải lập đi lập lại vài ba lần, nó mới chịu đi, nhất là khi mêt, nó đâm ra nghễnh ngãng, như bị lãng tai, phải dùng roi bổ túc cho lời nói, nó mới chịu nghe! Một điều lạ nữa, là khi nghe tiếng kẻng nghỉ giải lao, thì đố ai bảo nó được, dù bạn có hét lên ầm trời 'tắc...tắc...tắc' để nó cày cho xong nốt một đoạn đường ngắn mấy bước nữa, thì nó làm như điếc hẳn, không còn thính giác nữa! Ngay cả việc dùng roi quất mạnh vào mông, cũng chẳng ăn thua gì! Chắc nó cũng muốn hét lên 'give me a break!' nếu nó biết nói tiếng người! Chúng tôi đành chịu thua.
Kết Luận
Đã có nhiều tác giả viết về ngục tù C.S với những khía cạnh khác nhau, ở đây tôi chỉ đề cập một cách bi hài về những con vật đã làm tăng thêm nỗi thống khổ mà người tù đã chịu đựng. Trong hoàn cảnh đó, người tù đã nghĩ ra những biện pháp đơn sơ nhưng không kém hữu hiệu để làm giảm nhẹ bớt nỗi cơ cực hằng ngày.
Cái khó bó cái khôn, nhưng nhiều lúc cái khó cũng ló cái khôn để con người có thể vượt qua mọi trở lực để sinh tồn.
LẠC NHÂN
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
|
|
|
04-19-2019
|
#70
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Việt Cộng con và con của linh VNCH
Kính chuyển cho Quí Vị đọc để cùng hảnh diện tinh thần cao quí của những anh hùng Biệt Kích và tấm lòng vàng của các Chị "Vợ Cải Tạo" người miền Nam đối với người miền Bắc sau 1975 !
NTN
******************** **********
“VIỆT CỘNG CON”
NGUYỄN KHẮP NƠI.
Viết theo lời kể của một cô gái người Bắc.
Đương nhiên, tên của tôi không phải là “Việt Cộng Con” rồi.
Và tôi cũng không phải là Việt Cộng, xin bảo đảm một trăm phần trăm.
Tên tôi là Trinh, Trần Thị Ngọc Trinh. Tôi lấy chồng là một người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Con trai tôi tên là Nam, cháu nay đã được năm tuổi rồi. Mỗi lần về thăm nhà, cháu luôn luôn hãnh diện khoe với ông bà ngoại:
“Ông ơi, bà ơi, cháu là con của Lính Cộng Hòa đấy.”
Tức là, tôi không có dính dáng gì đến Việt Cộng cả. Vậy thì tại sao tôi lại có cái tên... “Việt Cộng Con”?
Theo lời bố tôi kể lại, bố mẹ tôi quê quán ở Phú Thọ, sau chuyển về Hà Giang. Đến năm 1979 thì mới về Hà Nội ở. Lúc đầu, gia đình tôi không có "hộ khẩu", phải sống tạm bợ ở gầm cầu. Hàng ngày, ba mẹ tôi đi ra chợ, bến xe hàng hay là bến xe lửa xuyên Việt đứng chờ công việc làm, ai nhờ việc gì thì làm việc nấy, thông thường là khuân vác, đẩy xe, cưa cây... Kiếm được việc làm không phải dễ, vì ba mẹ tôi là dân mới tới, thường bị đám người sống lâu năm ở chợ tranh dành đuổi đi đừng ở nơi xa chứ không cho đứng ở gần chợ.
Một hôm, có một đoàn người gồm đa số là đàn bà từ miền Nam vào, nhờ đẩy hàng đi Hà Giang. Hà Giang cách Hà Nội cả trăm cây số, đám đầu nậu không biết địa thế, hơn nữa, vì Hà Giang gần núi, có nhiều sơn lam chướng khí, nên không ai dám nhận đi hàng, bọn chúng mới gọi bố mẹ tôi đến mà bố thí cho việc làm. Tưởng đi đâu chứ Hà Giang thì bố mẹ tôi sống ở đó từ nhỏ, biết từng góc rừng, từng con đường mòn xuyên qua núi. Thì ra đó là những người vợ, con của Lính Cộng Hòa bị đi tù cải tạo. Từ Hà Nội đến Hà Giang thì có xe hàng, nhưng từ Hà Giang tới các trại tù thì phải gánh hàng đi bộ nhiều ngày mới tới.
Bố mẹ tôi chịu cực khổ đưa những người khách hàng đến tận nơi, chờ họ gặp người thân xong xuôi rồi lại đưa họ trở về ga Hàng Cỏ Hà Nội. Những người này cám ơn bố mẹ tôi và tặng tiền nhiều lắm. Sau chuyến đi đó, bọn đầu nậu đứng bến có vẻ nể nang bố mẹ tôi, không dám dành mối như trước nữa. Thực ra, cũng vì không có đứa nào biết đường đi nước bước ở Hà Giang và những vùng xa xôi có trại tù cải tạo, nên bố mẹ tôi hầu như được độc quyền đưa đón thân nhân những người tù cải tạo. Những người này vừa tử tế lịch sự, vừa cho tiền thưởng khá, vì thế, cuộc sống của gia đình tôi mới đỡ vất vả. Nhờ có ít tiền, bố mẹ tôi mới... mua được hộ khẩu ở Hà Nội và cho anh em chúng tôi đi học. Trong thời gian đưa đón những người Miền Nam này, bố mẹ tôi đã được họ tin tưởng, vui vẻ nói chuyện và còn chỉ dẫn cách nấu những món ăn ở Miền Nam, như là bánh xèo, bánh phồng tôm, chả giò... Đã có một lần, một nhóm người vì phải mang theo nhiều hàng, lại già yếu bệnh tật, nên đã nhờ bố mẹ tôi vào Nam để mang hàng từ đó ra ngoài Bắc cho họ. Nhân dịp này, họ đã đưa bố mẹ tôi đi chợ mua những món hàng cần thiết và đãi bố mẹ tôi ăn một bữa no say.
Đến khi những người đi thăm thân nhân tù cải tạo vơi đi dần, bố mẹ tôi liền giải nghệ mà mở một quán ăn nhỏ, chuyên bán những “Món Ngon Miền Nam”. Thời gian đó, bất cứ món hàng nào có xuất xứ "Miền Nam" đều được dân miền Bắc thèm muốn, mua bằng hết, từ cây kim sợi chỉ, nói chi tới những Món Ngon Miền Nam. Cửa hàng của bố mẹ tôi vì thế mà lúc nào cũng đông khách.
Học xong đại học, tôi xin đi làm cho chính phủ, thời gian rảnh thì phụ bố mẹ tôi trông coi công việc. Cửa hàng bán những món ăn Miền Nam của bố mẹ tôi càng ngày càng phát triển, không những chỉ bán hàng ăn, bố mẹ tôi còn mở công ty, mua nhiều loại hàng ở Miền Nam đem ra Bắc bán nữa.
Trong thời gian làm việc, tôi đã được tiếp xúc với một số bạn bè đi du học trở về, đa số đều nói ngoại ngữ rất khá, và đều vào Sàigòn làm việc, chứ không chịu ở lại ngoài Bắc, dù rằng Hà Nội mới là thủ đô. Tôi bắt chước bạn bè, xin bố mẹ tôi cho vào Nam làm việc, nhân tiện làm đầu cầu mua hàng trong Nam đem ra Bắc.
Vào tới Sàigòn rồi, đi làm một thời gian rồi, tôi mới thấy là giữa những người giữ chức vụ cao, được gọi là "lãnh đạo cơ quan" mặc dù là học thức kém, tầm mức hiểu biết về việc làm rất là hạn chế, nhưng lại là những người ngồi mát ăn bát vàng, hống hách với dân chúng nhiều nhất. Càng tỏ ra khó khăn, họ càng được hối lộ và lấy đuợc nhiều tiền trong công quỹ. Những người có bằng cấp, biết làm việc và phải tiếp xúc với dân chúng nhiều như chúng tôi thì lại bị đẩy cho làm việc thật là nhiều. Và cũng vì sự hống hách quan liêu của cấp trên, mà chúng tôi bị vạ lây, bị dân chúng miền Nam ghét bỏ. Thậm chí, chỉ nhìn thấy chúng tôi, hoặc chỉ cần nghe giọng nói của chúng tôi thôi, họ đã bỏ đi, không quên nói nhỏ với nhau: "Cái đồ Bắc Kỳ... thấy ghét"
Mặc dù những điều kiện mà chúng tôi giải thích, là do cấp trên đòi hỏi, chứ chúng tôi không hề muốn làm như vậy.
Một vài lần, tôi được dịp may tiếp xúc với những người ngoại quốc tới làm việc chung với chúng tôi, họ có kiến thức rất cao nhưng lại nói chuyện rất lịch sự. Cũng có những lần tôi được tiếp xúc với vài du khách đến nhờ làm thủ tục, tôi thấy họ nói chuyện cũng thật là hòa nhã và rất hiểu biết. Tầm mắt và kiến thức của tôi được mở rộng ra, tôi muốn được đi du học để mở mang trí tuệ, và cũng để có thể giúp cho công việc làm ăn của gia đình tôi được phát triển hơn. Tôi đem việc này ra bàn với bố mẹ tôi, cả hai đều đồng ý, nhất là ông bà nội của tôi. Chọn nơi học mới là điều khó khăn hơn cả. Đa số các bạn bè của tôi chọn đi học ở Mỹ (nhất là những đứa có cha mẹ có quốc tịch đảng), tôi lại thấy Úc là xứ sở hiền hòa có nhiền nét về văn hóa nghệ thuật, nên tôi đã chọn môn học về Tài chánh ở trường Đại Học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology), Melbourne, nước Úc.
Dù là đã có một ít vốn liếng tiếng Anh đã học ở trường học cũng như trường đời, nhưng ngày đầu tiên đến giảng đưởng nghe giảng bài, thú thực là tôi như con vịt nghe sấm, chẳng hiểu ông Giảng viên tóc vàng nói cái gì cả, vì giọng của ông hoàn toàn là giọng Úc, khác xa với những phát âm theo tiếng Mỹ mà tôi đã từng nghe ở Việt Nam. Môn học kế tiếp thì tôi lại còn thua nặng hơn nữa, vì Giảng viên này gốc ngưởi Ấn Độ, tiếng Anh của ông còn pha nhiều âm thanh R R R thật là khó nghe.
Hai năm trời trôi đi thật nhanh, ngoài giờ học, tôi xin đi làm thêm ở những nhà hàng ăn ở đường Victoria, khu vực Richmond. Những nhà hàng này tuy bán món ăn Việt Nam nhưng đa số khách hàng lại là người da trắng, nên nhờ đó mà tiếng Anh của tôi đã khá hơn trước và cách phát âm cũng vì thế mà đổi hoàn toàn theo giọng Úc.
Cuối cùng, tôi đã học xong cái bằng Master và sửa soạn khăn gói về nước. Bạn bè của tôi đa số xin ở lại Úc làm việc và sinh sống, tôi không có ý định ở lại, chỉ muốn về phụ giúp gia đình mà thôi.
Tôi mua vé máy bay về Sàigòn trước, nghỉ ở đó một ngày gặp bạn bè rồi mới về Hà Nội ở luôn. Ngồi bên cạnh tôi là một người đàn ông trung niên, ông không bắt chuyện với tôi mà chỉ ngồi im lặng, lâu lâu lại nhìn vào cái hộp sắt gắn kín đang cầm trên tay. Mãi khi xuống phi trường Changi để nghỉ hai tiếng, ông mới mở miệng nhờ tôi cầm dùm cái hộp sắt để đứng lên lấy hành lý để trên khoang xuống. Cái hộp tưởng là bằng sắt nhưng lại là hộp bằng nhôm rất nhẹ.
Ngồi trên ghế chờ đợi, ông mới cho tôi biết đó là cái hộp đựng tro của vợ ông. Vợ ông mới qua đời tuần trước, đã được hỏa táng và ông đem về Việt Nam để ở nhà mẹ vợ, theo lời trăn trối của vợ ông trước khi chết.
Tới phi trường Tân Sơn Nhất, ông chào và cám ơn tôi một lần nữa rồi ai về nhà nấy. Tôi không biết tên ông là gì và ông cũng chẳng bĩết tôi là ai?
Một năm sau, tôi quay trở lại Úc để dự lễ phát bằng cấp cho đứa em tôi. Đang đi trên đường Victoria, thật là ngạc nhiên, tôi đã gặp lại ông khách đi chung máy bay hồi nào. Ông cho tôi biết đã đem tro tàn của người vợ về xong xuôi rồi, đã đi làm trở lại. Tôi cũng cho ông hay là tôi đã xin được việc làm và đang làm việc ở Sàigòn, nhân dịp dự lễ phát bằng cấp cho đứa em, tôi xin nghỉ một tháng để đi thăm những thắng cảnh Úc mà trong suốt hai năm đi học tôi không có thì giờ đi đâu cả. Lần này ông cho tôi số điện thoại và nói nếu tôi muốn đi chơi thăm phong cảnh, ông sẽ xin nghỉ đưa tôi đi cho vui.
Thế là chúng tôi quen nhau. Ông tên Thanh, là Lính Cộng Hòa, ngày cuối cùng của cuộc chiến, ông là một Chuẩn Úy 18 tuổi mới ra trường, đánh trận đầu tiên và cũng là trận cuối cùng của đời lính. Ông có hai đứa con nhưng chúng nó đi làm ở Tiểu bang khác, lâu lâu mới về thăm nhà, còn tôi, tôi ba mươi lăm tuổi rồi, và chưa có ý định gì về tương lai cả.
Về lại Sàigòn, chúng tôi vẫn tiếp tục emails qua lại với nhau. Có một lần ông về Việt Nam thăm tro tàn của vợ và nhân dịp đó đi chơi uống cà phê với tôi. Qua năm sau, tôi muốn trở lại Úc một lần nữa để đi thăm Đảo San Hô ở Queensland, Thanh cũng xin nghỉ để đi chơi cùng với tôi.
Thanh đã ngỏ lời muốn cưới tôi làm vợ. Suy đi nghĩ lại, tôi tuy còn độc thân nhưng đã lớn tuổi rồi (so với Thanh thì tôi còn nhỏ lắm), nên đồng ý làm vợ Thanh.
Thanh làm bữa tiệc gia đình để ra mắt tôi với hai đứa con và bạn bè. Hai đứa con của Thanh nói toàn tiếng Anh, tụi nó không có ý kiến gì, miễn thấy ba nó vui là được rồi. Lần đầu tiên gặp những người bạn của Thanh, tôi vui miệng kể lại cuộc đi chơi ở Đảo San Hô:
“Thật là... hoành tráng chưa từng thấy. Đi xem đảo xong, chúng em đi phố mua hàng, chỗ nào cũng bán Khuyến mãi, thích ghê..”
Cả nhà đang ồn ào, tôi chợt thấy không khí có vẻ im lặng sau khi tôi nói chuyện, những người bạn của Thanh nhìn tôi có vẻ e dè lắm, họ vẫn nói chuyện, nhưng hình như không có nói chuyện với tôi. Một bà vợ của người bạnthân của Thanh đã hỏi thẳng tôi:
“Cô là... du học sinh hả? Lấy chồng già để... được ở lại Úc hả?”
Khi vào trong bếp lấy thêm đồ ăn, tôi thoáng nghe một người nào đó nói nhỏ với Thanh:
“Mày lấy... Việt Cộng Con đấy à?”
Tôi nghe Thanh trả lời:
“Đâu phải ai nói giọng Bắc cũng đều là Việt Cộng hết đâu!”
Tiệc cưới của chúng tôi mới là phiền phức, mặc dù chúng tôi chỉ tổ chức đơn giản thôi, nhưng bạn bè của Thanh nhận thiệp mời, họ đều có vẻ ngại ngùng, không muốn tham dự. Thanh nói với tôi:
“Ông Hội trưởng của anh họp cả hội lại để lấy quyết định... có dự tiệc cưới của anh hay không? Họ quyết định... đi với tư cách cá nhân mà thôi, vì dù sao cũng là bạn bè.”
Tôi ngần ngừ nói với Thanh:
“Anh ơi... nếu thấy khó khăn quá, hay là... mình đừng có lấy nhau nữa... Sao họ lại... kỳ thị với em như vậy? Em nói tiếng Bắc, vì em sinh đẻ ở ngoài Bắc, chứ em đâu có tội tình gì đâu?”
Thanh an ủi tôi:
“Em cũng phải hiểu cho họ, họ cũng như anh, đều là những người bị bọn Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm đất nước, bắt tù bắt tội sống chết đủ điều. Suốt ngày họ nghe cái giọng Bắc kỳ mạt sát họ, nó thấm vào đầu, nên không thể có cảm tình với cái giọng Bắc được. Anh hiểu em, nhưng họ chưa hiểu và chưa thông cảm cho em. Cứ để một thời gian, họ sẽ hiểu em đó mà.”
Tôi sinh đứa con trai đầu lòng, đặt tên cháu là Nam. Ngày thôi nôi, anh chị nó đến dự, vui vẻ thay phiên ẵm em, đứa con gái út của Thanh ẵm em vừa cười vừa nói:
“My... baby brother”
Những người bạn chúc mừng Thanh... “Đáo Mã Thành Công”.
Khi tôi tháo chiếc dây chuyền hộ mạng của tôi đeo vào cổ cho Nam, một bà ngạc nhiên nhìn sợi giây mà hỏi tôi:
“Cái gì vậy?”
“Dây chuyền hộ mạng của em đấy.”
“Đẹp quá nhỉ! Ai khắc mà đẹp quá, hình như là hai cái mặt chữ khắc trên gỗ đen thì phải.”
Chồng tôi biết tôi có sợi dây chuyền này, nhưng coi đó là đồ nữ trang của tôi thôi, nên chẳng để ý đến. Khi thấy ai cũng nhìn vào nó, tôi vui miệng kể lại lai lịch của sợi giây chuyền cho tất cả cùng nghe:
Tôi sinh ra ở Hà Giang. Nói là Hà Giang chỉ để cho có nơi có chốn trên bản đồ mà thôi, chứ thực ra, nơi tôi sinh ra không có tên trên bản đồ miền Bắc. Đó là một nơi ở giữa rừng núi âm u không có vết chân người.
Theo bố tôi kể lại, vào thời năm 1954, khi mọi người dân đều muốn di cư vào Nam, gia đình tôi gồm có ông bà nội, ba mẹ tôi và gia đình của các bác các chú đã gồng gánh từ quê lên Hải Phòng, để xuống tầu di cư vào Nam. Khi đang ở trên đường thì gặp một đám người khác cũng nhận là đi di cư và biết có một con đường tắt đi Hải Phòng rất gần, thế là cả bọn theo chân đám người này. Đến chiều tối thì có xe hàng tới chở tất cả, nói rằng đi xe cho chóng đến nơi. Xe chở đi tới một vùng rất xa, tài xế cho mọi người xuống mà nói rằng, nghỉ đỡ đêm nay, sáng mai sẽ có xe khác tới chở thẳng đến Hải Phòng. Ai cũng vui mừng trải chiếu ra ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, có xe tới đón thật, nhiều xe lắm, xe nào cũng chở đầy người. Mọi người vui mừng kéo nhau lên xe đi Hải Phòng. Xe đi cả ngày trời vẫn không tới vùng biển như mọi người mong đợi, trái lại, xe chở mọi người tới một nơi đầy lính canh có súng. Những người lính này chĩa súng bắt tất cả ngồi im không dược hỏi han gì cả, họ khiêng từng miếng vải nhà binh tới phủ kín xe rồi bắt đầu chạy suốt đêm. Đến sáng mới tói nơi, cả bọn được đẩy xuống xe để bị chỉa súng bắt đi bộ vào trong rừng. Tới nơi, cán bộ tập họp mọi người lại, kết tội cả nhóm là đã phạm tội phản lại nhân dân, bỏ trốn vào miền Nam, bị đầy vào đây đến bao giờ được cách mạng và nhân dân khoan hồng, sẽ được về với nhân dân.
Đến lúc đó, mọi người mới biết rằng đã bị bọn Cộng sản đưa người ra dụ dỗ đi theo chúng để rồi bị đi đầy vào vùng rừng núi âm u không biết ngày về. Lâu lâu lại có từng đoàn người khác hoặc được xe chở, hoặc bị xiềng xích đi bộ ngang qua để tới những nơi xa xôi hoang vắng khác được gọi là “Cổng Trời”.
Vào khoảng năm 1960, có thêm một nhóm tù nữa được đưa tới Cổng Trời, đám người này thỉnh thoảng được ra ngoài làm rừng, họ tự xưng là “Biệt Kích Miền Nam” được thả ra Bắc để hoạt động, chẳng may bị bắt.
Tôi sinh ra vào năm 1973 ở cái vùng rừng núi âm u, trại tù của những người muốn di cư vào Nam năm 1954 và trải qua thời thơ ấu ở giữa nơi núi rừng trùng điệp không bóng người này. Khi tôi được năm tuổi, một hôm đi theo cha chặt mây, đã bị ngã xuống hố sâu. Bố tôi bất lực nhìn thân xác của tôi mà không có cách nào để cứu. May thay, một nhóm Biệt kích đi ngang, thấy vậy đã thòng dây đu xuống tận vực xâu mà cứu tôi lên và đưa cả hai bố con tôi về tận nhà. Từ đó, lâu lâu những người Biệt Kích này lại đi ngang vào thăm gia đình tôi. Người Biệt kích cứu tôi nhận tôi làm con nuôi và đã gỡ sợi dây chuyền ông đang đeo để đeo vào cổ tôi mà nói:
“Tặng cho cháu cái bùa hộ mạng đó.”
Ông giải thích cho bố tôi biết, sợi dây chuyền này do ông đẽo gỗ trong rừng mà khắc thành hai chữ BK tức là Biệt Kích. Các chú này đã khuyên bố mẹ tôi nên tìm cách về thành phố mà sống, chứ đừng ở mãi nơi rừng hoang cô quạnh này mà bỏ phí cuộc đời của những dám con cháu.
Năm 1979, khi Trung cộng bắt đầu đánh Miền Bắc, những Biệt Kích đã bị đem đi nơi khác, bố mẹ tôi nhớ lời các Biệt Kích mà tìm đường trốn về Hà Nội, vì thế, tôi mới được đi học và sống cho đến ngày hôm nay.
Khi tôi kể xong câu chuyện, mọi người đều thay nhau cầm lấy sợi dây chuyền của con tôi một cách trân trọng và quý mến. Người bạn mà trước đây gọi tôi là “Việt Cộng Con” là người đầu tiên hỏi tôi:
“Gia đình của chị bị đưa đi... vùng kinh tế mới Cổng Trời đấy à?Chỉ vì muốn di cư mà bị đầy ải suốt hơn hai mươi năm trời đấy sao? Bọn Việt cộng chúng mày sao mà tàn ác thế! Cám ơn Trời Phật đã phù hộ cho gia đình chị, những người Việt Nam yêu Tự Do, còn sống được cho đến ngày hôm nay.”
Tôi mỉm cười nói thêm vào:
“Tôi cảm ơn Trời Phật và cảm ơn Chúa nữa. Ông bà chúng tôi không đi tìm Tự Do vào năm 1954 được, thì đến đời cháu tức là đời của chúng tôi, chúng tôi đã tìm được Tự Do rồi đấy. Nhờ các anh Biệt Kích Miền Nam mà tôi được cứu sống, nhờ lời khuyên của các anh mà bố mẹ tôi mới dám trốn vùng cải tạo để về được tới Hà Nội. Cũng nhờ những bà mẹ, bà vợ của những người Lính Miền Nam bị tù cải tạo mà bố mẹ tôi mói có cuộc sống đáng sống. Các anh chị thấy không, nhờ tình người, nhờ những người Miền Nam mà chúng tôi mới sống đến ngày hôm nay, chứ đâu có bác nào đảng nào cứu giúp chúng tôi đâu? Cũng vì thế mà dù có ai nói gì thì nói, tôi cũng cứ lấy người Lính Cộng Hòa mà tôi quý mến.”
Từ hôm đó, tôi thấy tất cả bạn bè của Thanh đã thay đổi thái độ với tôi. Các anh đã gọi tôi là “Chị Thanh” và các bà đã gọi tôi bằng “Trinh” hoặc là “Cô Em Gái Bắc Kỳ”.
Con tôi đã được năm tuổi rồi, cháu đã đi học mẫu giáo, tôi có thì giờ đi tìm một công việc tạm thời. Tôi tìm đến một văn phòng Luật Sư của người Việt để xin làm Điện Thoại Viên. Ông Luật Sư phỏng vấn tôi xong, nói với tôi:
“Để chú sắp xếp cho cháu làm hồ sơ nhé, còn công việc nghe điện thoại, chú sẽ tìm người khác”
Tôi thông cảm với ông Luật sư, mọi người vẫn còn... ác cảm, còn... kỳ thị với giọng nói Bắc Kỳ của tôi.
Tôi xin lỗi đã nói như vậy, nhưng thật sự tôi không biết dùng chữ gì để nói về hoàn cảnh của tôi.
Chồng tôi đã thông cảm với tôi, anh Thanh đã nói với tôi:
“Người ta nói “Cái áo không làm nên ông thầy tu” Nhưng thực sự cái áo đã làm cho người ta nhìn lầm nguời mặc nó là thầy tu. Em không những nói giọng Bắc, em còn dùng những từ ngữ mà cái đám Việt cộng thường dùng, ngay cả những người Miền Nam hay những người Lính Cộng Hòa mà nói cái giọng đó, cũng bị ghét, nói chi là Bắc Kỳ rặt như em.
Em cứ giữ cái giọng Bắc Kỳ của em, nhưng em đừng... hoành tráng, đừng... bực tức nữa, có được không?”
Tôi suy nghĩ... Đúng! Chồng tôi nói đúng.
Nhập Gia Tùy Tục – Nhập Giang Tùy Khúc.
Tôi đã lấy chồng Lính Cộng Hòa rồi, mà tôi lúc nào cũng có cái giọng Bắc Kỳ Hai Nút (75, Bắc kỳ chín nút tức là Bắc kỳ 54) thì ai mà chịu nổi.
Bây giờ, tôi không còn... “Xử Lý” nữa, mà tôi phân tích, tôi tìm hiểu từng trường hợp mà giải quyết cho thỏa đáng. Mỗi khi đi ra ngoài đường, nghe tôi nói chuyện, không còn ai quay lại nhìn tôi rồi bỏ đi chỗ khác nữa.
Đôi khi, những ông bà bạn của anh Thanh vẫn gọi tôi là “Việt Cộng Con”
Nhưng họ nói chỉ để mà đùa dỡn mà thôi, chứ không còn châm chọc như trước nữa.
Riêng phần con tôi, cháu Nam, lúc nào cháu cũng khoe:
“Con là con của “Lính Cộng Hòa” mà!”
NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, LÀ THẾ ĐẤY.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
|
|
|
04-24-2019
|
#71
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Có một ngôi đền Việt Nam giữa lòng Paris (ngoại ô Paris thì đúng hơn...)
Không chỉ độc đáo về kiến trúc, đền kỷ niệm Tử sĩ Đông Dương còn là một chứng nhân lịch sử cho mối quan hệ Pháp – Việt.
Đền kỷ niệm Tử sĩ Đông Dương hay Hoài Nam nghĩa sĩ miếu là tên gọi một ngôi đền Việt dựng trong Vườn thuộc địa (Jardin colonial de Nogent-sur-Marne) nằm ngoại ô Paris nước Pháp. Đây là một công trình đặc biệt, được coi là một chứng nhân lịch sử cho mối quan hệ Pháp – Việt.

Lịch sử ngôi đền bắt đầu vào năm 1905, khi quan đẩu tỉnh Thủ Dầu Một là Ernest Outrey đã ra lệnh làm cấp tốc một ngôi nhà bằng gỗ dựa theo kiểu thức của đình Bà Lụa, sau đó chuyên chở bằng tàu đem qua Pháp để tham dự cuộc triển lãm Colonial Exhibition Marseille tổ chức vào năm 1906.
Năm 1907, chính quyền Pháp đem công trình đến triển lãm lần thứ hai trong một khu vườn ở vùng ngoại vi Paris (đường 45bis, đại lộ Belle-Gabrielle, ở Vườn thuộc địa). Ngôi đền nằm tại vị trí này cho đến nay.
Vào thời điểm Thế chiến I kết thúc, người Pháp mới nghĩ đến việc dành một phần trong Vườn thuộc địa để xây dựng những đài tưởng niệm các chiến sĩ xuất thân từ những xứ thuộc địa của Pháp đã hy sinh. Để phản ánh văn hóa của từng dân tộc, người ta cho xây dựng các đền đài tưởng niệm mang phong cách kiến trúc đặc trưng truyền thống của các dân tộc đó.

Ngôi nhà đình phục vụ triển lãm của xứ Nam Kỳ đã được người Pháp tận dụng làm ngôi đền tưởng niệm hơn 1.500 người lính Việt Nam tử trận vì nước Pháp.
Vào ngày 9/6/1920, lễ khánh thành ngôi đền được tổ chức trang trọng với sự tham dự của nhiều quan chức cao cấp Pháp như Albert Sarraut, thống chế Joffre, Alexandre và Đặng Ngọc Oanh – viên quan đại diện cho Hoàng Đế Việt Nam. Ngoài ra còn có các cựu chiến binh Việt, Pháp đang sinh sống tại Pháp.

Trước đó, người ta cho phục hồi lại bàn thờ và các vật dụng trang trí được thực hiện bởi chính các nghệ nhân người Việt trong Nam ngoài Bắc: gốm Cây Mai trong Nam, những tấm biển sơn mài ngoài Bắc, một chiếc lư đồng như phiên bản của cửu đỉnh tại cung thành Huế. Các lễ vật cúng bái như nhang đèn, pháo, trống, chiêng…cũng được chuyên chở gấp rút từ Việt Nam qua.
Từ lúc đó, ngôi đền trở thành điểm tham quan lễ bái cho những người Việt Nam có dịp đến Pháp. Vị thượng khách quan trọng bậc nhất trong số này chính là nhà vua của An Nam. Vào ngày thứ hai, 26/6/1922, vua Khải Định (vị vua Việt Nam đầu tiên công du sang Pháp) với con trai là hoàng tử Bảo Đại, cùng quan Thượng thư Thuộc địa Albert Sarraut đến thăm ngôi đền.
Thế chiến II xảy ra, có thêm khoảng 1.400 binh lính người Việt chết cho nước Pháp. Chính quyền Pháp cho dựng thêm tấm bảng trong ngôi đền để ghi danh họ.
Thế chiến vừa kết thúc, Pháp lại sa lầy vào cuộc chiến 9 năm với Việt Nam, kết thúc bằng thảm bại ở Điện Biên Phủ. Tên của những người Việt ngã xuống trong hàng ngũ quân Pháp lại được bổ sung tại ngôi đền.
Có thể nói, đền kỷ niệm Tử sĩ Đông Dương luôn gắn liền với các sự kiện lịch sử quan trọng của Pháp và Việt Nam.

Đến ngày 21/4/1984, một trận hỏa hoạn đã thiêu rụi ngôi đền. Trên nền cũ, chỉ còn lại lối đi tam cấp có tạc hình rồng bằng đá. Năm 1992, người ta cho xây một kiến trúc mới đơn sơ, nhỏ hơn trước…
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-26-2019
|
#72
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
ĐẤT NƯỚC TA CÓ 7 LOẠI NGƯỜI.
1 – Loại thứ nhất: Họ bảo thủ đi theo một lối mòn của một con đường vô định hướng, nhưng họ quyết tâm đi cho bằng được và lái tất cả đi theo con đường đó! Mặc dù phía cuối con đường là chông gai và sụp đổ họ vẫn cứ đi. Loại người này ta gọi là “ngu mà còn tỏ ra nguy hiểm”!
2- Loại thứ hai: Họ luồn cúi và nịnh bợ liếm láp mọi thứ và sẵn sàng làm nô lệ cho loại thứ nhất! Loại người này là loại vô liêm sỉ họ đã đổi sự nhục nhã để lấy miếng cơm ăn!
3- Loại thứ ba: Họ không quan tâm đến mọi thứ xung quanh, họ thờ ơ với tất cả, và họ chỉ cần biết lo cho bản thân mình! Loại người này là loại vô hồn, vô cảm, vô tâm!
4- Loại thứ tư: Họ tàn nhẫn cướp của giết người, ăn cắp ăn trộm, đĩ điếm, giả dối, lừa lọc, sống bầy đàn độc ác và man rợ! Loại người này là giống vô loài!
5- Loại thứ năm: Họ biết đúng sai nhưng miệng họ luôn ngậm một hạt thị và không bao giờ dám mở mồm! Loại người này ta gọi là đồ hèn nhát!
6- Loại thứ sáu: Họ bị cuồng tín bởi những lý luận duyên, nghiệp, họ không đấu tranh và chấp nhận bị áp bức! Loại người này thật đáng thương và đáng yêu !
7- Loại thứ bảy: Họ sống có trách nhiệm, ngay thẳng, sòng phẳng và công bằng, họ dám nói lên chính kiến của mình, họ mong muốn xã hội tiến lên tốt đẹp, nhưng do 6 loại kia đông quá nên họ khó có thể thay đổi tư duy của giống người Việt Nam!
Cho nên gọi là đất nước “thất nhân” thế mới sinh ra thất đức, thất tín, nói một đường làm một nẻo! Chúng ta cần loại người thứ 7 phát triển thật nhiều để lấn át 6 loại còn lại. Những ai đang là một trong sáu loại kia nên vắt tay lên trán suy nghĩ để làm sao cho con cháu giống nòi Việt Nam trong tương lai đừng hèn như những gì chúng ta đã và đang làm!
Nói thật mất lòng cũng được! Nhưng nó sẽ làm cho người ta khôn từ từ
Thầy Lương Ngọc Huỳnh
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-04-2019
|
#73
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
30/4-suy ngẪm vui mỪng cái gì.
Một lần nữa, ngày kỷ niệm biến cố lịch sử 30 tháng 4 lại sắp đến. Kính mời các bạn xem vài bài thơ dưới đây của học giả Thái Bá Tân rất phù hợp với biến cố này để biết Sài Gòn đă được giải phóng, hay chính Sài Gòn đã giải phóng đoàn quân và người dân Bắc Việt?
Bài thứ hai nói về hậu quả của cuộc cách mạnh vô sản. Bài thứ ba nói về chuyện cải tạo các sĩ quan của QLVNCH. Bài thứ tư viết cho các thuyền nhân đã vượt biên để lánh nạn cộng sản. Và bài thứ năm kể lại câu chuyện rùng rợn gây ra bởi Bên Thắng Cuộc.
Học giả Thái Bá Tân, sinh quán ở Nghệ An, được gửi đi du học ở Moscow trong thời kỳ thập niên 60-70. Sau khi trở về, Ông sinh sống ở Hà Nội bằng nghề dạy học, viết văn, dịch sách, và làm thơ. Những bài thơ 5 chữ của ông mang nhiều tính chất nâng cao dân trí rất hay và rất thâm đến tận tim can.
Mỗi bài thơ của Ông đều mang theo một thông điệp để gửi cho một số đối tượng, với lời lẽ nhẹ nhàng nhưng rất thâm thuý.
***********
SÀI GÒN GIẢI PHÓNG
Thái Bá Tân, March 2019
Ta, đoàn quân Bắc Việt,
Như thác lũ phăng phăng,
Từ rừng rú miền núi
Tiến thẳng về đồng bằng.
Bao nhiêu năm mơ ước
Ngày giải phóng Sài Gòn
Khỏi Mỹ Ngụy áp bức,
Cặn bã và du côn.
Hừng hực lửa cách mạng,
Với lý tưởng chói ngời,
Ta hăng hái giải phóng,
Nhưng bất chợt, lặng người.
Cái ta muốn giải phóng,
Tưởng thấp hèn, xấu xa,
Giờ tận mắt thấy nó
Đẳng cấp cao hơn ta.
Một cảm giác đau buốt
Thường nhức nhối về đêm.
Ta, những người thắng cuộc,
Tự nhiên thấy yếu mềm.
Và rồi ta tự hỏi,
Ta, xẻ dọc núi non,
Được Sài Gòn giải phóng,
Hay giải phóng Sài Gòn?
******************** ********************
CÁCH MẠNG
Thái Bá Tân, March 2019
Mục đích của cách mạng
Vô sản và công nông
Là thông qua bạo lực
Biến của tư thành công.
Khi cách mạng thắng lợi,
Nhanh chóng hoặc từ từ,
Các quan chức cộng sản
Biến của công thành tư.
Cộng sản gây đau khổ
Cho hàng triệu, triệu người
Rốt cục để mang lợi
Cho một số ít người.
*
Một sự thật chua xót -
Các vấn đề của ta,
Cách này hay cách nọ,
Từ cộng sản mà ra.
******************** **
CẢI TẠO
Thái Bá Tân, April 2019
Khi chiến tranh kết thúc,
Bên thắng cuộc, bên ta,
Bắt, đưa đi cải tạo
Các sĩ quan Cộng Hòa.
Mà diện cải tạo ấy
Nhiều lắm, nhiều vạn người.
Thời gian phải cải tạo
Đến cả chục năm trời.
Cải tạo nhằm bắt họ
Từ bỏ cái văn minh
Để đi theo cộng sản
Vĩ đại và quang vinh.
Vậy là các tướng tá,
Hàng ngày phải ngồi nghe
Mấy anh lính mông muội
Vừa mới ở rừng về.
Nghe, rồi viết “thu hoạch”
Về Mác và Lê-nin,
Để “cảm hóa”, “tiến bộ”
Và thay đổi niềm tin.
Một, niềm tin chính trị,
Khi đã chui vào đầu
Thì không thể thay đổi,
Dù cố gắng đến đâu.
Hai, người bị cải tạo
Phần nhiều học thức cao,
Người cải tạo rừng rú
Thì cải tạo thế nào?
Ba, mình đang đói khổ,
Nuôi không nhiều vạn người
Thì tiền đâu cho lại,
Hơn thế, nhiều năm trời?
Bốn, việc cải tạo ấy
Càng khoét sâu thù hằn,
Không giúp tái hòa giải,
Là cái vốn rất cần...
*
Một việc làm ngu ngốc,
Khiến nhiều người chết oan.
Cộng sản luôn ngu ngốc.
Điều ấy khỏi phải bàn.
Hậu quả việc ngu ấy
Còn đến tận ngày nay.
Phải nói, chỉ cộng sản
Mới nghĩ được trò này.
PS
Thương, cả một thế hệ
Con tướng tá Cộng Hòa
Bị phân biệt đối xử.
Có đâu như xứ ta?
******************** *
ĐÃ ĐẾN LÚC
Thái Bá Tân, April 2019
Tặng hương hồn những đồng bào
bỏ mạng trên con đường tìm tự do.
Cũng phải có ai đấy
Chịu trách nhiệm chuyện này.
Chuyện thuyền nhân di tản
Mấy mươi năm trước đây?
Thường chiến tranh, loạn lạc
Mới bỏ nhà ra đi.
Tại sao ta, “giải phóng”,
Hàng triệu người ra đi?
Ra đi bằng mọi giá,
Mọi lúc và mọi nơi.
Hàng chục vạn người chết,
Bỏ mình giữa biển khơi.
Một bi kịch vĩ đại.
Một nỗi đau tột cùng.
Nạn nhân một chế độ
“Vinh quang và anh hùng”.
Một tội ác rùng rợn,
Không phải do chiến tranh,
Mà tội ác diệt chủng
Của một thời hòa bình.
Đã đến lúc lịch sử
Phải phán xét chuyện này.
Chuyện thuyền nhân di tản
Mấy mươi năm trước đây.
******************** ******
RÙNG RỢN
Thái Bá Tân, April 16, 2019
Rùng rợn, lính Hàn Quốc
Giết đồng bào Quảng Nam.
Càng rùng rợn, lính Mỹ
Rải chất độc da cam.
Nhưng Mỹ và Hàn Quốc
Đến tạ lỗi, xin tha.
Thì dẫu rùng rợn thật,
Người Việt Nam đã tha.
Nhưng rùng rợn hơn cả -
Nghe nói giải phóng quân,
Những người lính cách mạng,
Cũng đã từng giết dân.
Mà giết nhiều, chủ ý.
Giết chính đồng bào mình.
Không một lời xin lỗi,
Cứ bịt tai lặng thinh.
Những nỗi đau oan trái,
Những tội ác ghê người
Rồi sẽ được hóa giải,
Vì luôn luôn có trời.
*
Anh có thể lừa dối
Một trăm, một nghìn người.
Nhưng không thể lừa dối
Cả chín mươi triệu người.
Anh có thể che dấu
Một năm, hai mươi năm.
Nhưng không thể che dấu
Một trăm, hai trăm năm.
Thậm chí anh có thể
Tắt nến, kéo hết rèm
Để ngôi nhà anh sống
Luôn chìm trong bóng đêm.
Nhưng tiếc, anh không thể
Giơ tay che mặt trời.
Mặt trời mọc, soi rõ
Mặt quỉ và mặt người.
Không có gì vĩnh cửu.
Chế độ lại càng không.
Cái gì đến sẽ đến.
Đừng trốn mà mất công.
———
30 THÁNG TƯ, 1975
Thái Bá Tân, Apr. 19, 2019
Bộ đội Miền Bắc chết
Một triệu một trăm nghìn.
Số lính Miền Nam chết -
Hai trăm tám hai nghìn.
Vì chiến tranh, dân chết -
Trên dưới hai triệu người.
Lính Miền Nam cải tạo,
Ngồi tù - một triệu người.
Trong số một triệu ấy,
Một trăm sáu lăm nghìn
Chết vì đói, lao lực,
Vì không còn niềm tin.
Trốn chạy khỏi cộng sản -
Hơn một triệu rưỡi người.
Hai trăm nghìn đã chết,
Bỏ xác ngoài biển khơi.
Từ đấy, dẫu đất nước
Hết chiến sự, bình yên,
Chín mươi triệu người Việt
Mất tự do, nhân quyền.
Vậy xin hỏi các vị:
Ngày ấy là ngày gì?
Vui mừng và kỷ niệm?
Nhưng vui mừng cái gì?
TBT
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
|
|
|
05-06-2019
|
#74
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
30/4 – 44 NĂM NHÌN LẠI: Niềm Tin
Đã 44 năm trôi qua kể từ sau ngày 30 tháng 4, 1975, cộng sản Hà Nội tiến chiếm miền Nam, và đặt sự cai trị độc tài man rợ của mình trên toàn cõi Việt Nam. Ngày nay đất nước này có những gì? Có đạt được như lời mị dân của Hồ Chí Minh năm 1969 “Xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”? Và trong niềm tin mơ hồ đó, hàng triệu người dân miền Bắc đã tham gia cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Trước 1975, miền Nam Việt Nam là một Quốc gia dân chủ, thịnh vượng đến nỗi mà nhiều nhà lãnh đạo của thế giới phải trầm trồ thán phục và ao ước đất nước của họ cũng được phát triển như vậy. Ông Lý Quang Diệu, Tổng thống Singapore từng ví von Sài Gòn như Hòn Ngọc Viễn Đông. Nhiều người dân xứ Hàn, Thái Lan, Philippines phải sang Việt Nam làm thuê vào thời đó.
Ngày nay, sau 44 năm đổi đời từ ngày 30 tháng 4, nhìn vào trật tự xã hội đang diễn ra trong đất nước Việt Nam, ta thấy có một sự mâu thuẫn vô cùng lớn lao giữa lời nói, ý chí và hành động của người cộng sản. Đó là những gì?
Việt Nam có một nền kinh tế đi xin viện trợ, đi vay vốn ODA của nước ngoài và khai thác, bán sạch tài nguyên khoáng sản từ trên rừng cho đến ngoài biển khơi. Mặt khác, hệ thống kinh tế Việt Nam bị dẫn dắt, điều khiển bởi các tập đoàn lợi ích nhóm do các phe phái trong nội bộ đảng cộng sản thao túng. Thế nên, người cộng sản dễ dàng tham nhũng với những khối tài sản khổng lồ của quốc gia một cách vô tội vạ.
Kết quả thì người dân phải lãnh nhận hậu quả, nợ công tăng cao. Số liệu cũ của Bộ Tài chính cho biết vào ngày 17 tháng 8 năm 2017 thì “Mỗi người dân Việt Nam phải gánh 35 triệu đồng nợ công quốc gia vì các dự án thua lỗ, và hàng loạt các dự án vay vốn ODA bị điều chỉnh tổng mức đầu tư so với ban đầu”.
Nhiều người đưa ra lý do biện minh cho đất nước vẫn còn nghèo như “mới trải qua chiến tranh… gần nửa thế kỷ”, hay Việt Nam cũng có khá lên nhờ kinh tế thị trường với đầu tư ngoại quốc gia tăng. Tuy nhiên, chúng ta đã tụt hậu so với Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore… từ vài chục năm cho đến cả một thế kỷ.
Dường như những năm gần đây là giai đoạn bùng phát của căn bệnh không thuốc chữa trong hệ thống Giáo dục mà nó đã âm ỉ hàng mấy thập kỷ qua. Bạo lực học đường mỗi ngày gia tăng và trầm kha hơn. Những cảnh nam, nữ học sinh đánh đập hội đồng, thậm chí chém giết lẫn nhau hết sức đau lòng tái diễn khắp hang cùng ngõ ngách.
Diễn biến một xã hội đảo điên được trình diễn với nạn mua bán bằng cấp, đổi tình lấy điểm, lạm dụng tình dục, chạy chức chạy quyền lan tràn mọi miền đất nước. Sinh viên sau khi được đào tạo đại học thì làm cu ly hay đi làm công nhân, hoặc chạy ra nước ngoài tìm cơ hội mới.
Chưa có thời đại nào rực rỡ hơn dưới triều đại của cộng sản khi người dân xứ mình phải lũ lượt đi làm cu ly nơi xứ người. Hàng trăm ngàn người phụ nữ chấp nhận như một món hàng trao đổi để được làm vợ ngoại quốc, và xót xa hơn nữa có hàng ngàn phụ nữ tìm kiếm cuộc sống tốt hơn bằng nghề bán thân trên khắp thế giới.
Thực trạng đau lòng của hệ thống y tế tại Việt Nam hiện nay đều quá tải, chất lượng khám chữa bệnh rất thấp. Mối quan hệ giữa y bác sĩ và bệnh nhân nằm trong trạng thái căng thẳng, đó là chưa nói đến vấn đề đầu tiên – tiền đâu. Nếu người bệnh không có tiền thì sự thờ ơ, vô cảm thấy rõ nơi bệnh viện. Ngày hôm nay ung thư trở thành căn bệnh mang tầm mức quốc gia, giết chết hàng chục ngàn người mỗi năm.
Thật ra, niềm tin vào cộng sản đã từng bước bị mất mát, hụt hơi ngay trong lòng những người lính Bắc Việt khi tràn vô Sài Gòn. “Thật sai lầm khi giải phóng miền Nam” có lẽ là câu nói được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong không chỉ trong quân lính mà ngay cả lãnh đạo cộng sản.
Nhiều câu chuyện truyền tai hay trong hồi ký của họ viết đại ý như thế này “Sai lầm lớn nhất của miền Bắc chúng tôi là đi giải phóng miền Nam. Bởi sau cái ngày 30/4 có quá nhiều những thay đổi ngoài dự kiến của chúng tôi đã xảy ra tại miền Bắc. Bởi khi đoàn quân miền Bắc kéo về mang theo lỉnh kỉnh toàn hàng tiêu dùng của miền Nam làm dân Bắc chúng tôi sững sờ”.
Thực tế, đảng cộng sản đã hoàn toàn bị mất niềm tin từ nhân dân ngày càng rõ nét. Tùy từng mức độ khác nhau, từ mất niềm tin tuyệt đối này thì có nhiều bộ phận người khác nhau có thái độ chán ghét chế độ, thậm chí chế độ trở thành mối thù của nhiều tầng lớp dân oan. Hoặc muốn thay đổi chế độ như các thành phần trí thức cộng sản, sinh viên, công nhân, nông dân.
Niềm tin của nhân dân là bệ vững chắc cho mọi chế độ tồn tại, ngược lại khi niềm tin đã hết thì sự sụp đổ ắt sẽ đến dù chế độ đó có dùng nhà tù, súng đạn, đàn áp để chống đỡ, để tồn tại.
Portland 28/4/2019
Paulus Lê Sơn
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
05-06-2019
|
#75
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
30/04: Lời của một người từ miền Bắc về ‘chính nghĩa quốc gia’ (Lê Mai Hoa)
Người Việt rời bỏ quê hương - Ảnh: YouTube
Đối với những thế hệ lớn lên ở miền Bắc sau năm 1975 cho đến nay thì lá cờ vàng hay chính nghĩa quốc gia là những khái niệm đầy xa lạ, thậm chí bị hiểu sai, bôi nhọ rất nhiều.
Tiếp xúc với VNCH là một may mắn
Tôi sinh ra ở miền Bắc sau khi chiến tranh đã kết thúc, người thân trực hệ cũng không có ai đi tù cải tạo nên suốt những năm tháng ấu thơ, Chiến tranh Việt Nam cũng như những người ở bên kia chiến tuyến là khái niệm rất mờ nhạt.
Thời bấy giờ, chỉ được nghe người lớn kể rằng gia đình vẫn còn mấy ông, bà nữa đang định cư ở Mỹ.
Thời tiểu học, khi thấy tôi háo hức vì sắp được nghỉ học dịp 30/4, mẹ nhẹ nhàng nói: “Con không nên ăn mừng ngày 30/4. Có biết bao con người khổ đau, họ phải treo cờ rủ, mặc áo tang trong ngày đó đấy”.
Đối với đứa trẻ miền Bắc khi ấy mới 9-10 tuổi, câu nhắc nhở của mẹ để lại trong tôi nỗi nghi vấn trong nhiều năm sau này, vì trót được dạy rằng 30/4 là ngày “thắng Mỹ.
Một cách khách quan, vào thời đi học, tôi không thấy “Mỹ-Ngụy” là xấu, chỉ thấy nó là cái gì đó mơ hồ, xa xôi.
Cho đến khi hiểu được sơ lược về VNCH, tôi mới thấy hóa ra VNCH thực gần gũi, chính là những người máu mủ mà giờ đây bị chia cắt bởi hai bờ đại dương.
Từ sau 1995 tôi đã dần dần được gặp một số người thân từ Mỹ về. Thời gian đầu, giữa tôi và họ cũng không có gì đậm đà vì sự không hiểu nhau, mà chắc nhiều người tị nạn khi về thăm quê hương cũng gặp tình trạng tương tự.
Sau này câu chuyện có nhiều tiến triển đáng kể do kiến thức của tôi về phía ‘quốc gia’.
Nhờ vào quan hệ người thân, tôi đã được tiếp xúc với Tiến sĩ Phạm Đỗ Chí, bà quả phụ của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, ca sĩ Minh Phúc (lúc đang viết bài này thì được tin ông vừa qua đời) và một người cháu nội của cụ Trần Văn Hương đang định cư ở châu Âu.
Tôi cũng từng được Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng và Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại tặng sách, đó vừa là vinh dự cho người trí thức trong nước, cũng là may mắn hiếm hoi của một người trẻ lớn lên ở miền Bắc.
Tôi xem đó là cơ duyên may mắn của mình. Vì với một đứa trẻ miền Bắc lớn lên cùng với hằng hà sa số huân, huy chương chống Mỹ của ông nội, ông ngoại, đó là cơ hội quá hiếm hoi để mở mang đầu óc, xua tan áng sương mù đã án ngữ trong não trạng của người miền Bắc (sau 1954).
Tôi vẫn còn nhớ hai đêm thức trắng đọc cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy của tác giả Nguyễn Tiến Hưng – cuốn sách mà trang của BBC có giới thiệu.
Đọc xong thì vừa trăn trở, vừa xót thương cho số mệnh của dân tộc.
Ngoại lệ hiếm hoi
Nhưng tôi có thể xem là một ngoại lệ hiếm hoi của thế hệ sống tại miền Bắc ngày nay.
Tôi đã tiếp xúc với nhiều người, ngay cả với nhiều tầng lớp người ta vẫn gọi là trí thức. Với những người tử tế, hầu hết trong số họ có mục tiêu lớn nhất là nuôi sống gia đình, còn lớn hơn nữa là nuôi hoài mộng trở thành đại gia, nhưng số người giàu có ý thức làm từ thiện, tác động tích cực ngược trở lại với xã hội không nhiều, chứ chưa nói đến việc xoay chuyển giang sơn.
Cũng không nên nhầm lẫn những người đấu tranh hiện nay là người quốc gia. Tôi còn nhớ có một vị tù nhân lương tâm khi mới sang Mỹ, ngồi họp báo với đồng bào ở Cali nhưng vẫn gọi VNCH là tội đồ của dân tộc vì chống lại sự thống nhất đất nước.
Chuyện đó không quá lạ lẫm với những người lớn lên ở miền Bắc, vì từ khi mở mắt chào đời họ (thậm chí bậc phụ huynh của họ) đã chỉ biết có lá cờ đỏ sao vàng là lá cờ duy nhất.
Di sản lớn nhất của VNCH là tri thức, hãy gắng truyền đạt nó về nước.
Tùy vào góc độ nhìn nhận của mỗi người, VNCH có những ảnh hưởng riêng với đời sống trong nước như âm nhạc, văn hóa hay… dollar. Tôi biết nhiều người ở Việt Nam sáng đi họp chi bộ, chiều vẫn ký giấy nhận dollar người nhà bên Mỹ gửi về.
Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, có người chọn cách không bao giờ bắt tay với Hà Nội, thậm chí không về thăm quê hương, để bảo vệ lý tưởng, có người chủ động về Việt Nam hợp tác với nhà nước, mong muốn đem kiến thức của mình về xây dựng đất nước tuy chưa biết hiệu quả của nó đến đâu.
Nhưng dù chọn cách nào, tấm lòng ái quốc của những người Quốc Gia chân chính thực đáng trân trọng.
Sự thực, trong nước bây giờ không còn quá thiếu thốn về vật chất như thời thập niên 1980.
Cái thiếu của phần đông thế hệ trẻ trong nước hiện nay là lý tưởng phục vụ tổ quốc hoặc phục vụ nhân loại và tri thức.
Đó là thứ tôi lại cảm nhận thấy rất rõ ràng từ những người Quốc Gia đã lớn lên, đi học dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Từ những người trí thức đã thoát ra hải ngoại, nay trở về thăm quê hương cho đến những ông cụ thương phế binh Nhảy dù, Thủy quân lục chiến mà tôi từng tiếp xúc trên mảnh đất miền Nam.
Khi kênh SBTN bằng tiếng Việt ở Hoa Kỳ làm cuốn phim tài liệu về trận chiến Quảng Trị vào năm 2007, tôi còn nhớ một người lính VNCH năm xưa đã trả lời trước câu hỏi về mong ước cho tương lai:
“Tôi mong con tôi sẽ biết làm người.”
Người cựu quân nhân nêu trên chỉ hành nghề bán vé số ở thời điểm đó, nhưng nói được câu mà bộ phận không nhỏ người lớn lên phía Bắc vĩ tuyến 17 không bao giờ nghĩ đến.
Vì thế người Việt tị nạn cũng nên hạn chế gửi xa xỉ phẩm về nước cho người nhà.
Thay vì dầu thơm hay chocolate đắt tiền, hãy gắng đem sách vở, tri thức, truyền đạt lý tưởng về chính nghĩa quốc gia cho thế hệ trẻ trong nước.
Họ mới là những người cần biết về ý nghĩa của lá cờ vàng. Họ nên được thấy lá cờ vàng trong những sự kiện tích cực nêu tỏ chính nghĩa quốc gia, chứ không phải làm nền cho những màn chửi bới cộng sản và đả kích lẫn nhau trong cộng đồng.
Họ cũng cần hiểu rằng nhờ có lá cờ vàng, nay mới có cả mấy thế hệ giỏi giang mang dòng máu Việt ở hải ngoại.
Lời kết, mong ước văn minh cho dân tộc
Mỗi người Việt Nam có những cảm xúc, có những số phận khác nhau xung quanh biến cố 30/4.
Nhưng sau bốn thập kỷ, tôi nghĩ chúng ta nên đánh giá sự kiện này theo hướng tích cực.
Nhờ có biến cố ấy mà người Việt Nam có mặt khắp năm châu, nước Việt Nam tồn tại hai thực thể (trong nước và hải ngoại), từ đó tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Xin được kết bài này nhỏ này bằng câu của thi sĩ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn:
“Tôi cố đợi ngày Việt Nam tái sinh, trong sông biển yêu thương.”
Lê Mai Hoa (Gửi bài cho Diễn đàn BBC nhân 30/04)
BBC Tiếng Việt
(Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả)
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
05-10-2019
|
#76
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Trả súng đạn này
Trả súng đạn này
Tôi có thể ngồi đồng cả ngày trên mạng, nhảy tường lửa, đọc tài liệu, đọc báo nhăng nhít, nhưng chưa bao giờ xem/nghe trọn một chương trình ca nhạc, dù là ở nhà hay trên những chuyến xe đò đường dài. Xem không trọn chỉ vì ngủ… gật, đúng hơn, trình độ thưởng thức của tôi chỉ tới cỡ đó. Vậy mà chiều nay tôi đã xem trọn một chương trình ca nhạc.
“….Trả súng đạn này, khi sạch nợ sông núi rồi
Anh trở về quê, trở về quê, tìm tuổi thơ mất nơi nao…”
(Một mai giã từ vũ khí – Trịnh Lâm Ngân)
Ở Việt Nam, các DVD ca nhạc hải ngoại Thuý Nga, Vân Sơn,… dễ kiếm, nhưng Asia thì khó. Asia “phản động” lắm, lỡ bị phát hiện, sẽ bị tịch thu cả xe, hết đường sống, những người bán DVD dạo nói thế.
Nhưng bây giờ, chỉ cần 1 media hub, người ta có thể tải từ internet đủ loại chương trình giải trí để xem qua TV. Ngủ gật cũng sướng như ăn vụng. Thỉnh thoảng tôi cũng click đại một liveshow nào đó để ru mình ngủ…gật. Và chiều nay, tôi muốn ngủ gật với Asia, để xem “phản động” tới đâu. Tôi chọn chủ đề “55 năm nhìn lại” vì đoán là nói miền Nam từ thời di cư 54.
Không chỉ là chương trình ca nhạc, mà đan xen vào đó là những thước phim tài liệu, những hình ảnh năm xưa, khỏi cần thuyết minh, tôi cũng nhớ ra gần hết. Chuyện hôm nay mau quên, chứ chuyện ngày xưa thì nhớ dai lắm. Con tàu há mồm “Passage to freedom”, Đệ I, đệ II Cộng hoà, kinh tế, giáo dục, văn hoá, mùa hè đỏ lửa, đại lộ kinh hoàng… Mọi thứ như mới đâu đây, tưởng như chạm tay vào được. Hai mươi năm trước, cha bỏ xứ ra đi. Hai mươi năm sau, con bỏ nước ra đi. Bỏ đi không đành, con ngu hơn cha, nên bây giờ mới ngồi lẩn thẩn.
Nhiều bản nhạc từ lâu lắm rồi, bây giờ mới nghe lại. Nghe lại mà có thể hát theo trong đầu được. Những ca khúc thanh bình thưở xưa đó, ngày trước nghe hờ hững, bây giờ lại thấy hay. Dĩ vãng sao êm đềm quá! Chưa bao giờ tôi nghe “Một mai giã từ vũ khí” với một cảm xúc ngậm ngùi như thế, như nuốt từng lời ca tiếng nhạc vào tim óc.
Chương trình này cũng khéo “dụ” được bà Dương Nguyệt Ánh làm MC. Cho dù là kịch bản đi nữa, thì MC Dương Nguyệt Ánh giống như nhà toán học có khiếu làm thơ: ngôn ngữ chắc nịch và giọng nói biểu cảm.
Tôi cũng lần đầu nhìn lại nhiều khuôn mặt ca sĩ quen thuộc. Cận cảnh mới thấy thời gian nghiệt ngã. Son phấn không thể cứu vãn, kỹ thuật âm thanh cũng phải bó tay. Khi giọng hát vút lên đuối hơi, những đường gân hiện trên cổ thấy rõ. Con tằm đang nhả những sợi tơ cuối cùng cho đời…
Tôi đọc đâu đó, có lần y sĩ ca sĩ Trung Chỉnh phải nhảy trực thăng xuống vùng chiến sự để cấp cứu. Ông nhảy thoát được, nhưng túi đồ nghề thuốc men bị bắn bể. Ông y sĩ đành lấy tiếng hát thay thuốc men để làm dịu cơn đau của thương binh. Chuyện thật bao nhiêu phần trăm không rõ, nhưng sao thấy thiệt đậm “chất người” giữa làn ranh sống chết.
Thời gian cứ thế trôi ngược theo hình ảnh và âm thanh…
Những ngày sau 75, nếu chết chưa chắc là hết, thì sau khi chết, tôi sẽ không quên được cảnh tượng các em thiếu niên đi tịch thu sách vở “đồi truỵ phản động”, quẳng rầm rầm lên xe ba gác, như chuyển hết căm thù vào đó, vừa quăng vừa dạy đời người lớn.
Hai mươi năm sau, tôi sống lại cảm giác này khi đọc “Sống và chết ở Thượng Hải” của Trịnh Niệm. Người đàn bà cứng cỏi này, dù bị áp lực, ngược đãi tới đâu, cũng nhất định không nhận tội “phản động”, nhưng đã phải cuống quýt van nài bọn Hồng vệ binh, xin hãy tịch thu hết bộ sưu tập đồ cổ tranh quý của bà, nhưng đừng đập phá, dày xéo chúng. Cái cảm giác lạnh buốt chạy dọc theo sống lưng…
Vài năm trước, một đạo diễn trẻ, bà Lê Phong Lan làm bộ phim tài liệu để chứng minh thảm sát Mậu Thân ở Huế chỉ là xuyên tạc. Và mới đây, phó giáo sư tiến sĩ sử học Vũ Quang Hiển, trả lời phỏng vấn đài BBC: làm gì có chuyện ngược đãi tù đày những người thua cuộc sau 75, chỉ là tập trung học tập cải tạo cho thông đường lối chính sách, thế thôi.
Nhiều người hải ngoại phản ứng gay gắt. Tôi thì quen rồi. Những điều “vẫn thế” như bao điều “vẫn thế” ở đất nước này. Trước họ còn những G. Porter (Mỹ) chứng minh (bằng cách “chặt chém” số liệu của người khác) rằng, thảm sát Mậu Thân chỉ là chuyện bôi nhọ. Lùi lại hơn chục năm, vị giáo sư này cũng cho rằng, xử chết “quá tay” trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc cũng là chuyện bôi nhọ luôn. Nhà báo W.Burchett (Úc) đã từng “đi dạo” ở Củ Chi thập niên 60 để viết bình luận, cũng lại là người hết lời ca tụng “Bước đại nhảy vọt” và “Đại cách mạng văn hoá” của Mao Trạch Đông. Thế đấy!
Tôi phục họ. Bước ra khỏi ranh giới của nhân cách đâu phải ai cũng dám làm.
Lịch sử có thể được nhìn dưới nhiều góc cạnh khác nhau, nhưng sự thật lịch sử thì chỉ có một. Nhân chứng còn đó, và lịch sử vẫn còn đó.
Bây giờ, những ngày cuối tháng tư này, nơi đây đốt pháo hoa ăn mừng. Bên kia cúi đầu tưởng niệm. Triệu người vui, triệu người buồn. Vui nhiều kiểu, mà buồn chỉ một kiểu. Vui vì tự hào là người chiến thắng. Buồn thì chưa chắc đã vì chiến bại, mà hậu quả chiến bại thì đúng hơn. Bốn mươi năm rồi chứ đâu ngắn ngủi. Về kinh tế, chỉ cần nhìn qua các nước lân cận cũng đủ thở dài rồi. Giáo dục thúc đẩy bản năng nhiều hơn, cướp giựt chợ hoa, leo rào bơi miễn phí,… Mỗi năm khoảng 5.000 phụ nữ Việt bị đưa qua Malasia và Singapore bán dâm. Đó là con số chính thức, thực tế nhiều hơn. Và đó cũng chỉ mới nói đến 2 thị trường, còn Campuchia, Thái Lan, và nhất là Trung Quốc còn khủng nữa.
Nhưng cũng có những niềm vui vô tư vì “ngày giải phóng” là ngày nghỉ dài, đi chơi thoả thích. Rồi cũng có những nỗi buồn lẩm cẩm với quá khứ, nằm nhà nghe nhạc. Vui buồn, hiểu theo nghĩa tuyệt đối, thì mỗi năm sẽ thêm triệu triệu người vui. Còn buồn, thì vài ngàn, vài trăm, rồi vài chục, chỉ còn tí tẹo. Đất nước có chỉ số hạnh phúc cao là thế. Ngẫm lại mới thấy hội chứng Stockholm sao thiệt éo le !
*
Vậy mà 40 năm trôi qua rồi. Chiều nay tình cờ xem “55 năm nhìn lại”, đôi khi phải bám chặt tay vào thành ghế… Biết bao tâm tư chất chứa, cũng muốn một lần trải lòng, nhưng rồi lại thấy, bà Dương Nguyệt Ánh đã “giành” nói hết cả rồi, nói từ 5 -6 năm trước, nói ngắn, gọn và đủ, nói cả những điều nhỏ nhặt mà lịch sử đã quên, đang quên và có lẽ cũng sẽ quên luôn: “Người lính ra trận với vũ khí kém cõi. Lỡ thua thì bị chê bai, nhưng nếu thắng thì chỉ những người bạn lớn được nói đến”. Tủi quá! Xin cám ơn bà.
Đã “sạch nợ sông núi rồi”. Mệnh Trời bắt thế, chỉ là lực bất tòng tâm thôi. Đâu cần phải đấm ngực mea culpa…mea culpa. Cái đó nên dành cho những chính khách salon, những trí thức ba rọi. Sự thật là sự thật. Người lính bên nào lại chẳng đau, mỗi bên đau mỗi kiểu. Cuộc chiến tàn rồi. Ván cờ thế bày ra, không có cửa cho những tay chơi cờ thí chốt.
Tháng tư nào trời chẳng mưa. Quá khứ đâu dễ gì quên được. Hai mươi năm đau thương của chiến cuộc, cũng may mắn có được những năm tháng bình yên. Rồi thêm bốn mươi năm nữa, học được biết bao chuyện trò đời,… Nhưng vẫn còn sót lại đâu đó chút tình người, phải thế không?
Xin kết thúc bài viết bằng lời nhạc: “… Xin cám ơn, xin cám ơn… người nằm xuống…”
Vũ Thế Thành
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
05-14-2019
|
#77
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Vũ Khí Bí Mật Của CIA: Phụ Nữ Làm Điệp Báo
Trong tác phẩm “Not an Easy Day”, tác giả “Mark Owen”,một bí danh của Biệt Kich “Navy Seals” Tiểu Đội 6 kể lại rằng người theo dõi, tìm ra căn nhà nơi Osama bin Laden ẩn náu là một phụ nữ. Bà Jen, chuyên viên phân tích tài liệu tình báo để “Truy tìm đối tượng”, còn gọi là “Targeter”. Trong Cơ quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ -CIA- còn có rất nhiều phụ nữ tài ba tuyệt luân khác làm gián điệp. Phải chăng phụ nữ là một vũ khí đặc biệt trong ngành tình báo?
Cuốn sách mới, tuy không chính thức, do chính một thành viên trong Tiểu Đội 6 của Đơn Vị Biệt Kích Navy SEALS tiết lộ lần đầu tiên, kể lại rằng toàn bộ chiến dịch lùng bắt cho được Osama bin Laden thành công là nhờ một phụ nữ, mang bí danh “Jen” làm việc trong CIA. Bà Jen là một nhà phân tích tin tức tình báo, đã theo dõi, truy tầm nơi ẩn náu của Bin Laden trong nhiều năm. Cuối cùng bả cả quyết rằng bin Laden đang sống trong một biệt thự kín cổng cao tường chỉ cách Học Viện Quân sự Pakistan chưa đầy nửa dậm, trong tỉnh Abbottabad. Trước khi cuộc tập kích diễn ra, bà Jen thuyết trình trước tiểu đội Biệt Kích về những tình huống có thể xảy ra khi mở cuộc tập kích vào căn biệt thự ở Abottabad. Bà mô tả chính xác đến nỗi khi họ phá cánh cổng để vào toà nhà, cái cổng sẽ bung vào phiá trong hay bắn ra ngoài. (Bà Jen đoán không sai một ly).
Bà Jen là một mẫu sĩ quan tình báo kiểu mới, làm việc trong CIA với những đặc điểm như thông minh, tự tin, và phải là một phụ nữ. Những đặc điểm này trước đây chưa hề có, bởi vì từ nhiều năm, cơ quan tình báo trung ương thường loại trừ phụ nữ, không tuyển họ vào làm công tác điệp báo. Thường thường nữ nhân viên chỉ được dùng trong chức vụ thư ký, công tác đả tự, hay giỏi lắm thì cũng chỉ lên đến cấp trung trong việc phân tích tin tức tình báo.
Bây giờ tình hình khác hẳn ngày xưa, những người như bà “Jen” được giao chức vụ “Targeter”, hay chuyên viên truy tầm, theo dõi đối tượng. Nhiệm vụ chính của những Targeter là phải nghiên cứu rất nhiều tin tức tình báo do máy bay không người lái đem về,thường là không rõ ràng,và lắng nghe những mẩu điện đàm nghe lén được, hay thu thập những tin tức rời rạc, ráp nối chúng lại, để viết báo cáo về những đối tượng cần theo dõi. Chúng là những tên khủng bố, những kẻ buôn bán ma túy, vũ khí. Sau biến cố 9/11 cơ quan tình báo trung ương CIA bị khiến trách, chê bai rất nặng, nhất là từ phía các chính khách. Cũng vì lý do đó, cơ quan CIA lập tức phải cải tổ, hoàn thiện công tác điệp báo của mình bằng cách trang bị kỹ thuật tối tân, và huấn luyện những đợt chuyên viên targeter hoàn toàn mới, giống như bà “Jen”.
Khác với những nhà phân tích trong lãnh vực kinh tế, chính trị của một nước ngoại quốc, những chuyên viên targeter này chỉ chú tâm theo dõi một “đối tượng” duy nhất, thường là những tên khủng bố, hay nhóm đối tượng đặc biệt nào đó. Họ làm việc sát cánh với những đơn vị biệt kích, những sĩ quan tiền tuyến liên quan đến việc phân tích, nhận định tình hình của họ. Theo ông Jose Rodriguez, cựu phó giám đốc CIA đặc trách về nghiệp vụ, đa số những “targeter” ngày nay lại là phụ nữ.
Thực vậy, đơn vị đầu tiên của CIA được giao nhiệm vụ truy lùng tổ chức Al-Qaeda mang bí danh “ Alec Station” là đơn vị đầu tiên tuyển phụ nữa vào làm điệp báo từ hồi thập niên 1990’s.. Ông Mike Scheuer, Trưởng toán đầu tiên của Alec St ation kể lại rằng vào năm 1999 khi ông rời Alec St ation tất cả 14 “Targeter” trong đơn vị đều là phụ nữ. Ông còn tiết lộ thêm rằng sau biến cố 9/11, tên lãnh tụ cao cấp đầu tiên của nhóm Al-Qaeda bị tóm cổ chính là nhờ công tác điệp báo của một phụ nữ. Ông đề cao vai trò của phụ nữ làm tình báo hết mực, khi ông nói: “Nếu được phép, chúng tôi có thể treo tấm bảng hiệu: Chúng tôi không nhận đơn xin việc của đàn ông tại đây.”.
Một trong những “targeter” nổi tiếng trong lịch sử tình báo cận đại là bà Jennifer Matthews. Bà là trưởng nhiệm sở CIA ở tỉnh Khost , Afghanistan . Bà có trách nhiệm phải theo dõi hành tung của một lãnh tụ cao cấp của Al-Qaeda, tên là Abu Zubaydah. Trong tác phẩm “The Triple Agent” “ Điệp Viên Tam Trùng” ông Jody Warrick kể lại rằng tên gián điệp Zubaydah, sắp được đưa đến điạ điểm an toàn ở Faisalabad , Pakistan . Ông Jody Warrick mô tả hết sức cảm động tâm trạng của một phụ nữ làm gián điệp. Họ bị giằng co giữa trách nhiệm với gia đình và công tác điệp báo ở ngoài tiền tuyến. Bà Matthews tổ chức ăn Lễ Giáng Sinh năm 2009 viễn liên với con cái ở thành phố Fredericksburg , tiểu bang Virginia bằng cách video chat với con, qua hệ thống “skype” . Sau khi những đứa con mở quà giáng sinh, đứa con trai út hỏi mẹ: “Me cho con xem khẩu súng của mẹ đi.”. Bà cầm khẩu súng ngắn, và khẩu súng trường trên tay, gửi hình về cho cậu con xem. Ngay sau đó, bà đi vội sang phòng ăn của đơn vị để cùng ăn tiệc Giáng Sinh với đồng đội. Năm ngày sau, bà Matthews bị giết chết vì một tên bác sĩ người Jordan mà bà nghĩ y đang cộng tác với bà, và làm gián điệp cho CIA. Nhưng hắn phản bội, ôm bom tự sát, vào gặp bà Matthews và toàn thể nhân viên tình báo tại trụ sở CIA ở tỉnh Khost, giết chết gần hết nhân viên CIA ở đây. Ông Phó Giám đốc Rodriguez nói về bà Matthews: “Bà ta là một trong những điệp viên giỏi nhất từ bấy lâu nay.”.
Giống như bà Matthews, một điệp viên nữ khác là bà Gina Bennett, chuyên gia phân tích tình hình, đã sớm đưa ra lời cảnh cáo cho chính phủ biết từ năm 1993, về sự nguy hiểm của tổ chức Al-Qaeda. Trong tác phẩm tựa đề: “National Security Mom” “Bà Mẹ Làm Việc Trong Ngành An Ninh Quốc Gia” bà bầy tỏ nỗi khổ tâm của người phụ nữ làm nghề gián điệp, không lo tròn trách nhiệm với gia đình. Nhiều khi họ phải tổ chức những ngày lễ, kỷ niệm của gia đình từ một nơi hẻo lánh xa xôi của trái đất. Bà viết trong cuốn sách: “Tôi được hưởng một ngày Mother’s Day tuyệt vời khi tôi video chat với các con, xem chúng ăn sáng với miếng pancake thơm mùi chocolate. Tôi nhìn các con trên cái laptop của mình, và tưởng tượng ra mùi thơm ngọt ngào của miếng pancake các cháu đang ăn.”.
Là một bà mẹ có năm đứa con, bà Bennet tâm sự: “Tôi không nghĩ phụ nữ khác với nam giới trong việc hy sinh tình cảm gia đình với công vụ khi chọn làm nghề gián điệp trong CIA. Điều này không có nghĩa là chồng con không ủng hộ chúng tôi trong việc làm. Thực ra, các đứa con của tôi hết sức thông cảm cho việc làm của mẹ. Chúng coi như là những người bạn đồng hành với tôi, chia sẻ tình cảm của gia đình với nhu cầu phục vụ đất nước. Chúng rất hãnh diện về việc làm của mẹ chúng.”.
Hồi đầu nắm 2009, Tổng thống Ob ama yêu cầu ông Bruce Riedel, một sĩ quan cao cấp, chuyên viên chống khủng bố, làm việc lâu đời trong CIA đến gặp Tổng thống và duyệt xét lại tình hình ở Afghanistan cho chính phủ mới của Tổng thống. Một trong những việc đầu tiên ông Bruce phải làm là đến tận trụ sở trung ương của CIA ở Langley , Virginia tìm hiểu về chương trình sử dụng máy bay gián điệp drone trong cuộc chiến chống khủng bố. Ông hiểu rằng chính quyền mới của ông Ob ama chú ý rất nhiều đến chương trình này. Khi đến trụ sở CIA, ông Bruce Riedel hết sức kinh ngạc khi thấy đại đa số thành phần điều khiển chương trình điệp báo bí mật này là phụ nữ. Họ giỏi lắm, họ đứng thuyết trình, và nắm vững từng chi tiết của hoạt động bí mật này. Ngày hôm đó người đứng thuyết trình cho ông Riedel là một phụ nữ, và nhiều “targeter” khác cũng là phụ nữ.
Trước khi Toà Bạch Cung công bố chiến lược mới của chính quyền ở Afghanistan và Pakistan , ông Obama mời toàn bộ toán tình báo đến Văn Phòng Bầu Dục để ngỏ lời cám ơn họ. Nhóm người được ông Riedel mang đến Bạch Cung gặp Tổng thống gồm có chuyên gia về người Afghan trong Bộ Ngoại Giao , và một chuyên gia về Pakistan từ CIA đưa sang. Ông Ri edel nói với Tổng thống: “Xin giới thiệu với Tổng thống đây là một chuyên gia giỏi nhất về tình hình Pakistan . hiện nay”. Tổng thống ngạc nhiên khi gặp người chuyên gia này là một phụ nữ đi đôi giầy cao gót. Ông bật cười, và nói đùa: “Trông bà không có vẻ gì là một chuyên gia về Pakistan chút nào cả.”
Là một trong những phụ nữ đầu tiên được giao trọng trách lãnh đạo cao cấp trong ngành tình báo, bà Mary Margaret Graham đặc trách những hoạt động bí mật của CIA trong lãnh vực chống phản gián, phá hoại, và hoạt động bán quân sự. Bà Graham kể lại rằng phụ nữ làm “targeter” có cái lợi là họ được ngồi làm việc ở trung ương trong vùng Hoa Thịnh Đốn, để phân tích tin tức tình báo. Họ lại được giao cho những công tác quan trọng.
Valerie Pl ame một sĩ quan tình báo xinh đẹp làm cho CIA, từng bị chính quyền của ông Bush cho bạch hoá lý lịch hồi năm 2003 bằng một bài báo của ký giả Robert Novak liên quan đến vấn đề vũ khí giết người hàng loạt ở Iraq. Bà Pl ame tâm sự rằng công việc của một targeter trong CIA giúp cho người phụ nữ hiểu được tình hình sôi động của thế giới bên ngoài, và không phải hy sinh đời sống gia đình. Theo bà việc làm này có số giờ làm việc hạn định, không gây ảnh hưởng nhiều cho gia đình.
Khi được hỏi vì sao phụ nữ được ưa thích để giao làm targeter hơn là nam giới, bà Graham giải thích vì phụ nữ có năng khiếu chú ý nhiều đến những chi tiết nhỏ hơn đàn ông. Ông Scheuer cũng xác nhận: “Giữa muôn vàn việc nhỏ nhặt trong điệp vụ tình báo, quả thực phụ nữ giỏi hơn đàn ông trong việc phân tích mớ tin tức hỗn độn này. Họ có tài chú ý đến tiểu tiết, và kết nối những chi tiết đó lại với nhau. Tin tức lấy về từ những nơi hẻo lánh xa xôi, rồi đem kết nối với tin thu lượm qua giấy thông hành, thẻ tín dụng. Đó là lý do khiến phụ nữ làm việc giỏi hơn đàn ông.”
Bà Bennet thì nói đùa: “Cái tính nhớ dai của phụ nữ giúp họ tóm cổ trúng phóc những đối tượng cần bắt.”. Phát ngôn viên của CIA Preston Golson thì cho rằng một chuyên viên phản gián giỏi là người lanh trí, sáng tạo, kiên nhẫn, nhớ dai, và có sức thuyết phục, bất kể đàn ông hay đàn bà.
Hồi xưa, CIA không hoàn toàn giữ thái độ công bằng về giới tính, nhất là khi tuyển nhân viên vào làm nghể gián điệp. Lấy trường hợp của bà Virginia Hall, bà là người đàn bà dân sự duy nhất được trao tặng huân chương bội tinh trong Thế Chiến Thứ Hai. Trong cuộc chiến này, bà Hall từng phục cho cơ quan tiền thân của CIA. Hồi bấy giờ gọi là OSS , Office of Strategic Services. Ngụy trang là người nông dân, bà Hall đã lén xâm nhập vào nước Pháp thời kỳ bị Đức chiếm đóng. Bà giúp huấn luyện ba tiểu đoàn kháng chiến quân. Người ta hết sức thán phục cái tài ngụy trang của bà. Tài liệu lịch sử chính thức của CIA kể lại rằng người ta từng thả dù bà bằng máy bay vào vùng địch. Trên lưng chỉ mang một chiếc ba lô nhỏ, thế là bà len lỏi bám vào vùng địch để sống. Vậy mà sau khi chiến tranh kết thúc, bà Hall xin gia nhập cơ quan CIA, bà bị cho ngồi một xó làm thư ký nghiên cứu tình hình, tránh xa những việc làm gan dạ của ngành điệp báo.
Thực vậy, rất nhiều sĩ quan OSS trước đây đều không tìm được việc làm trong CIA sau chiến tranh để có dịp thi triển sự gan dạ của mình trong nghề gián điệp. Một cựu giám đốc điều hành trong cơ quan CIA, bà Nora Slatkin xác nhận hiện tượng này trong bài diễn văn đọc ở Hội Đồng Bang Giao Quốc Tế Chicago năm 1996: “Vào thời bình, xã hội của chúng ta đành lòng phí phạm tài năng siêu việt của phụ nữ, để hồ sơ của những nhân vật trứ danh một thời như bà Virginia Hall nằm sâu trong ngăn kéo hồ sơ, không thèm đụng tới.”.
Bà Jean Vertefeuille, một nhân vật có tài bắt kẻ nội gián nằm trong cơ quan CIA. Năm 1994, chính bà đã dẫn đầu nhóm điệp viên bắt được tên phản quốc Aldrich Ames. Tên này ăn cắp tài liệu mật bán cho gián điệp Nga. Bà Vertefeuille cũng đồng ý rằng vào giai đoạn mới thành lập, CIA không đối xử công bằng đối với phụ nữ. Bà đã gia nhập CIA từ năm 1954, và kể rằng có nhiều khi phiá điệp viên đàn ông còn tỏ ra ăn hiếp phe phụ nữ. Nếu họ có dịp lấn lướt phụ nữ là họ làm liền, không từ nan một hành vi nào cả. Hồi bấy giờ phụ nữ được tuyển vào làm chỉ được giao làm những việc giấy tờ, hành chánh, dù rằng đương sự có văn bằng Luật khoa.
Kể từ thập niên 1970’s phụ nữ bắt đầu được giao cho công tác điệp báo. Nhưng thường ra cũng chỉ ngồi phân tích, điều nghiên, và làm thư ký. Tình hình từ từ thay đổi. Lấy trường hợp của bà Graham, bà được tuyển vào làm cho CIA từ năm1979, sau khi tốt nghiệp Master (Cao Học) về văn minh Nga, và được gửi sang sứ quan Mỹ ở Mạc Tư Khoa, đóng giả làm vú em. Bà kể lại lại là hồi đó hiếm khi nào có phụ nữ được giao làm công tác gián điệp bí mật. “Khi tôi vào làm chỉ có năm phụ nữ làm gián điệp. Vài năm sau, chỉ còn có hai người. Ba người kia bỏ đi vì lý do riêng, như lập gia đình, hay ở nhà nuôi con.”. Trong giai đoạn này, phụ nữ thường được đề bạt lên làm chức vụ “cổ áo mầu hồng”, ám chỉ những việc làm văn phòng trong sở nhân dụng, hay lo về ngân sách. Những công tác cao cấp về ngành gián điệp vẫn không cho phụ nữ len lỏi vào.
Vào thời kỳ đầu, phụ nữ nào lọt được vào việc điệp báo, chắc chắn người đó có nhiều lợi thế. Một sĩ quan tình báo phụ nữ hồi hưu kể lại rằng: “Không có ai nghĩ rằng một phụ nữ lại làm gián điệp, hay trở thành một “case officer” sĩ quan tình báo trong mật vụ đặc biệt. Vì thế, tôi có thể qua mặt nhiều vụ sừng sỏ khó vô cùng.” Nhưng thú thực hồi đó cánh đàn ông vẫn tỏ ra khinh miệt phụ nữ chúng tôi ra mặt. Ngay sau khi bà Plame được bổ nhiệm làm sĩ quan tình báo mật, ông trưởng nhiệm sở cho gọi bà lên trình diện để xem mặt. Bà kể lại với tuần báo Newsweek như sau: “Khi tôi bước vào văn phòng của ông. Ông ta gác chân lên bàn, và phì phèo ngậm điếu xì gà thật to. Ông trừng mắt ngó tôi thật kỹ, và bảo tôi xoay người cho ông xem. Tôi giận quá, hét vào mặt ông.: “Ông là kẻ phải xoay người chứ không phải tôi.”. Ông ta bèn mỉm cười giã lã chữa thẹn.
Đến năm 1986, một số phụ nữ làm việc trong CIA bắt đầu rủ nhau phản công lại. Năm đó, họ cùng nhau thưa cơ quan CIA ra toà trong vụ kiện tập thể về tội cơ quan này kỳ thị, ngăn cản không cho phụ nữ làm những công tác bí mật. Năm 1995, cơ quan CIA phải xin điều đình bồi thường để giải quyết vụ án. Họ hứa sẽ thay đổi chế độ làm việc dưới sự theo dõi của toà án trong vòng bốn năm. Ngoài ra, cơ quan CIA đồng ý bồi thường những phụ nữ bị thiệt hại, mỗi người một số tiền là $940.000 đô la. Bà Graham tâm sự: “Có một số tiến bộ sau vụ kiện này. Chúng tôi hy vọng sẽ không còn phải đem nhau ra toà, vì đó không phải là điều lý tưởng để tìm sự thay đổi.”
Ngày nay, gần hai thập niên sau khi xảy ra vụ kiện, theo ông Golson phụ nữ chiếm tỉ lệ 40% ở cấp lãnh đạo làm trong CIA. Kể từ năm 2011, người đứng hàng thứ ba trong hệ cấp lãnh đạo CIA là bà V.Sue Bromley. Trước đó, có bà Stephanie O’Sullivan. Xuống thấp hơn là những người làm công tác phân tích, điều nghiên tình hình như bà Jen. Nhân vật đã giúp kết liễu khá nhiều lãnh tụ cao cấp của tổ chức Al-Qaeda.
Sau vụ tập kích đánh vào nơi ẩn náu, và giết chết bin Laden, toán biệt kích SEALs được chở thẳng đến nhà kho máy bay của Mỹ ở Jalalabad, thuộc Afghanistan . Bà Jen cùng ngồi đợi với những đoàn viên khác trong lúc những người lính chuyển giao bao đựng xác tên lãnh tụ khủng bố đi nơi khác. Theo tác giả Mark Owen, bí danh của người biệt kích SEALs bắn chết bin Laden kể lại, anh trông thấy bà Jen đang đứng giữa vòng tròn cùng với nhiều quân nhân khác theo dõi việc chuyển giao bao đựng xác tên bin Laden. Một lúc sau, tác giả Owen viết tiếp, trong chiếc phi cơ vận tải C-130 trở về Kabul , anh ta trông thấy bà Jen đang ngồi bó gối như một đưá trẻ trong mớ đồ đạc ngổn ngang trên sàn máy bay. Bà đang rấm rứt khóc vì sung sướng thấy mình đã làm xong công tác đến nơi đến chốn.
Trong quá khứ, cơ quan CIA tìm mọi cách không cho phụ nữ đi ra tiền tuyến. Bây giờ, họ tìm cách không cho bà Jen xuất đầu lộ diện. Nói về cuốn sách mới này của một người lính biệt kích SEALs, ông Golson cho rằng nó rất nguy hiểm khi kể rành rẽ một cá nhân nào đó làm một công tác đâc biệt. Nhất là khi nói bà này đã giúp tìm ra nơi trốn tránh của bin Laden. Ông nhấn mạnh: “Những cá nhân làm tình báo không bao giờ muốn nổi tiếng, hay được sự chú ý, và công luận Mỹ cũng đồng ý rằng những cá nhân này nên được dấu mặt trong bóng tối.”
Như bà Jen chứng tỏ với đồng đội rằng những người phụ nữ làm ngành điệp báo cũng có quyền tranh đấu cho quyền lợi của họ trong bóng tối.
Bài phóng sự điều tra của Eli Lake trên Newsweek
Nguyễn Minh Tâm dịch
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
06-28-2019
|
#78
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
GẶP MA
Chị Nga vừa mua một căn phố nằm trên đường Võ Di Nguy nối dài. Mặt tiền đối diện với Lăng Cha Cả và cổng trại Phi Long. Chồng chị Nga là một trắc họa viên phục vụ tại phi trường Cần Thơ. Anh chị giao cho Hòa cai quản căn nhà. Tầng dưới, bà Nghĩa mướn mở tiệm phở. Tầng căn gác dành cho Hòa.
Lăng Cha Cả là phần mộ Cha Bá Ða Lộc. Những bia mộ mang tên Pháp, Bồ Ðào Nha... nằm hiu quạnh trong khu nghĩa địa nhỏ sau Lăng. Ðã từ lâu tiếng đồn có ma thỉnh thoảng xuất hiện trong lăng nầy. Thường là bóng một người đàn ông mặc áo thụng đen của ông cố đạo. Thoảng hoặc bóng một dì phước mặc áo trắng đứng ủ rũ bên chân mộ vào lúc nửa đêm.
Lúc nhỏ Hòa nỗi tiếng gan lì lại hay tò mò , thích nghe những mẩu chuyện kể về ma quái. Hắn từng lén lút đọc bộ sách Liêu Trai Chí dị của Bồ Tùng Linh nằm trong tủ sách mà cha Hòa cấm đọc.Thuở ấy, vào những đêm tối trời, mỗi lần mẹ sai chị Nga qua nhà bác Hai xin trầu là chị đùn ngay cho Hòa lấy cớ bận làm bài tập hay học bài thi. Thực ra chị Nga rất sợ phải qua nhà Bác Hai trong đêm tối.
Gia đình bác Hai cách nhà Hòa một khu vườn rộng. Cuối vườn có miếu thờ Thổ địa. Chiếc đèn dầu sáng leo lét trong am phủ đầy bóng tối âm u của cây đa cổ thụ. Chữ Thần màu đỏ viết bằng chữ Hán nét lớn trên bức bình phong chập chờn dưới cánh lá lay động trong đêm. Dù được tiếng là bạo dạn nhất nhà, nhưng mỗi lần qua đó trống ngực Hòa cũng đập liên hồi như tiếng trống dục trong mùa đua ghe. Hòa hãi nhất là tiếng tắc kè từ gốc đa cất lên bất chợt.
Giờ đây dù đã trưởng thành, tính tò mò cố hữu của Hòa vẫn còn thúc đẩy hắn tìm xem tận mắt ma như thế nào. Vì vậy, những đêm đi kèm trẻ tại tư gia về khuya, Hòa không quên đảo một vòng quanh lăng mộ.
Căn phố sát vách Hòa là tiệm may được trưng bày khá sáng sủa. Hiệu may rất đắt khách và nổi tiếng trong vùng. Chủ tiệm là một người đàn ông trung niên, góa vợ. Ðộ một tháng, sau ngày Hòa dọn đến ở, người chủ hiệu may tổ chức lễ cưới thật linh đình. Họ hàng, khách dự đều là những người sang trọng. Ðám rước dâu có bốn chiếc xe hơi bóng nhoáng. Cô dâu nhỏ nhắn, khuôn mặt phúc hậu. Tuy trong ngày vui mà đôi mắt cô ấy ẩn chứa nỗi buồn sâu thẳm. Ngược lại chàng rể phốp pháp cười rạng rỡ đi bên cô vợ trẻ đẹp.
Ðêm động phòng của đôi tân hôn, người chồng ôm xác vợ chạy dọc theo dãy phố kêu cứu như điên như cuồng. Cô dâu uống thuốc ngủ quyên sinh. Hàng xóm giúp chú rể đưa nàng đến bệnh viện súc ruột, nhưng bất lực. Trái tim cô đã ngừng đập bởi liều thuốc quá mạnh. Trái tim chỉ dành cho người nàng yêu thương ,không tiền bạc, thế lực nào có thể cướp được trái tim chung tình đó.
Vì món nợ không trả nổi của cha mẹ, nàng đã ưng thuận lấy người chủ nợ. Giấy nợ được xé bỏ sau giờ rước dâu. Cô dâu tự hủy đời mình trước giờ hợp cẩn. Ðiều đáng ca ngợi là nàng tìm cái chết để giữ lời nguyền ước với người yêu.
Chú rể chịu cảnh góa vợ thêm lần nữa. Ông buồn rầu đóng cửa hiệu, treo bảng bán nhà. Dãy phố đã vắng vẻ bây giờ càng vắng vẻ hơn.
Nơi tiếp giáp sân sau nhà Hòa với hiệu may có cây trứng cá khá cao, cành lá sum suê tỏa mát trên hai sân rộng. Hòa đã lợi dụng cây trứng cá với lan can căn gác làm trụ cho một xà đơn. Vào sáng sớm hay sau giờ học khuya, Hòa thường treo mình trên barre fixe ấy hít thở cho trí óc bớt căng thẳng.
Qua mười giờ đêm khu Lăng Cha Cả chìm trong bóng tối. Vài ngọn đèn đường vàng nhạt không đủ sáng cho khu phố trong những đêm tối trời. Ánh đèn pha từ trạm gác chốc chốc quét một luồng sáng ma quái lướt trên khu nghĩa địa.
Sau cuộc chính biến năm 1963, chính phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Sài Gòn liên tiếp xảy ra những biến động chính trị. Ðặc công Cộng sản lợi dụng tình hình rối ren tăng cường khủng bố. Lúc thì rạp hát bị nổ mìn, khi thì nhà hàng bị đặt plastic. Mùi chiến tranh đã phảng phất giữa lòng thủ đô. Riêng khu vực Lăng Cha Cả lại rất êm ả. Các nhà chứa mỗi ngày mọc nhiều hơn. Khách tìm hoa đêm nào cũng tấp nập.
* * *
Sau ngày cúng Thất tuần của cô dâu bạc mệnh, người ta phao tin hồn cô ấy cứ hiện về lởn vởn vào lúc quá nửa đêm, khi thì mặc áo cưới, lúc bộ bà ba trắng. Con ma treo mình trên cành cây trứng cá, vắt vẻo, đu đưa. Hàng xóm xầm xì với nhau và nhìn Hòa với ánh mắt ái ngại…
Ðường lên căn gác là một cầu thang hẹp bắc dọc theo vách ngoài hiên nhà. Bên khung cửa sổ, là bàn học Hòa ngồi hàng đêm. Ánh đèn điện rọi qua màn cửa, hắt vài luồng ánh sáng mỏng lên đám lá đen ngòm của tàng cây trứng cá. Gió thổi đu đưa cành lá làm chao động vệt sáng trên cây tựa bóng người mặc áo trắng chập chờn.
Chỉ còn ba ngày nữa là Hòa thi tốt nghiệp năm thứ hai Ðại học Sư phạm. Chàng ôn tập bài vở đến một hai giờ khuya mới đi ngủ. Thân thể mệt nhoài, Hòa vừa nằm xuống là giấc ngủ ập tới ngay.
“Anh , anh !” Trong giấc mơ, Hòa nghe tiếng chim kêu lanh lảnh. “Anh , anh !” lại một âm thanh khác trầm đục như tiếng gõ vào miệng chum bằng sành. “Anh , anh , anh !” Tiếng kêu ngân lên như tiếng chuông nhà thờ dục con chiên đi lễ sáng.
- “Anh , anh !” Bây giờ không còn là tiếng chuông mà như tiếng vọng của hồn ma réo lên từ nhà mồ. Trong giấc ngủ u u minh minh, Hòa nghe tiếng gọi “anh” mỗi lúc một rõ. Bàn tay chàng bị đè lên bởi một vật gì rất lạnh. Cái lạnh không phải của nước, của sương. Cái lạnh nhớp nháp nhờn nhờn như của loài ma trơi vất vưởng ngoài đồng! Cái lạnh bò dần vào cánh tay trong rồi toàn thân Hòa bị một khối đen phủ lên đè nặng khiến chàng nghẹt thở. Chàng cố vùng vẫy nhưng bất lực, miệng ú ớ. Một cái lắc mạnh vai chàng:
- “Anh ! em đây, em đây mà!”
Rõ ràng là tiếng một người con gái. Hòa mở mắt nhìn, kinh hãi: Một bóng ma! Bóng ma trắng nõn nà bên thành giường! Hòa rút vội tay về và ngồi ngay dậy. Cơn say ngủ chưa tỉnh hẳn. Chàng còn ngỡ đó là ánh trăng. Trăng sáng lờ mờ rọi qua khung cửa sổ. Ánh sáng loang tỏa căn phòng một màu trắng vàng lạnh, trung hòa với màu trắng bóng ma! Hòa giụi mắt, định thần. Bóng ma vạch mùng ngồi lên giường. Hòa khiếp hãi thét lên:
- “Ai đấy?”
- “Em đây ”, giọng run run yếu đuối của người bị kiệt sức. Bóng ma tiến vào,
Hòa lui sát vách tường. Bóng ấy tiến theo, Hòa sợ quá thét lên: “Ngồi im đó”. Ánh trăng bây giờ sáng tỏ hơn và tỏa đều trên thân thể người con gái không một mảnh vải. Mái tóc đen dài xõa trên nửa khuôn mặt trắng xanh và che khuất một phần bộ ngực trắng ngần vun cao. Bây giờ đã hoàn toàn tỉnh ngủ, Hòa với tay bật đèn. Người con gái vội cản:
- “Xin anh đừng cho sáng, em sợ ánh đèn lắm !”
Hòa thầm nghĩ : “Chỉ có ma quỷ mới sợ ánh đèn, sợ ánh mặt trời và lửa. Ðối diện với chàng chẳng lẽ là quỷ hiện hình? Quỷ trong thân xác của một người con gái?” Trí nhớ Hòa vụt hiện ra khuôn mặt trắng bệch, thân thể mềm nhũn của cô dâu tự vẫn ở tiệm may bên cạnh. Toàn thân Hòa bỗng dưng lạnh toát! Miệng chàng khô khốc, muốn la lên mà lưỡi thì líu lại. Muốn chạy thoát khỏi giường nhưng đôi chân chàng lại tê cứng. Hình như bóng người đối diện đoán biết cơn sợ hải của Hòa vội vàng lên tiếng:
- “Xin anh bình tĩnh , em tên là Lài ở bên lầu bà Thúy.”
Lầu bà Thúy là nơi chứa gái hạng sang, ở vùng nầy ai cũng biết. Hòa điềm tĩnh trở lại và nhủ thầm : “Từ Lầu bà Thúy thì không cần hỏi lý lịch cũng biết cô gái nầy là ai! chàng vội vất tấm drap mỏng cho nàng che thân. Cô gái quàng vội tấm vải lên người rồi kể tiếp:
- “Em đang đi khách thì bọn “Cớm” * ập vào phòng. Em chưa kịp mặc áo quần đã phải vọt qua cửa sổ chạy băng qua các nóc nhà. Khi đến đây bị đuối sức em đã rớt từ trên cao xuống sân gạch. Hình như em đã ngất đi một thời gian khá lâu, khi tỉnh dậy tìm đường thoát thân mà chẳng có lối ra. Cuối cùng, thấy căn gác nầy không đóng cửa, em đã đường đột vào đây, mong anh tha lỗi và cho em được trốn tránh qua đêm nay”.
Hòa ngỏ ý bật đèn sáng để tìm cho nàng bộ đồ mặc tạm. Nàng ngăn lại và giải thích:
- “Thấy sáng đèn, cảnh sát sẽ nghi ngờ đến đây xét nhà. Thôi thì cho em mượn bộ pyjama anh đang mặc cho đỡ lạnh. Em nằm ngoài sương ướt cả mấy tiếng đồng hồ rồi!” Cảm thương thân phận ả giang hồ, Hòa không thể chối từ lời đề nghị đó.
Cô gái vừa mặc xong quần áo thì tiếng gõ cửa soát nhà vang lên. Nàng vội vã nằm xuống, kéo mền che cả mặt. Sự sợ hãi quá độ khiến cô run bần bật như bệnh sốt rét bắt đầu lên cơn. Nắm lấy tay Hòa, với đôi bàn tay hoàn toàn mất tự chủ, nàng lắp bắp van lơn:
- “Xin... cứu... em , nhận... em... là… vợ… anh... nhé...”
Tiếng gõ cửa thêm dồn dập. Với áo lót quần đùi, Hòa vội vàng xuống nhà mở cửa. Nhìn ra trước lộ, chàng thấy lực lượng võ trang đứng giăng hàng ngang dọc theo khu phố. Cảnh sát địa phương và ông khối trưởng yêu cầu cho xét nhà và kiểm tra tờ khai gia đình. Hòa cho biết gia đình bà chủ tiệm phở không ở đây. Chàng chỉ là sinh viên thuê căn gác trọ học. Họ bàn thảo với nhau rồi bỏ sang nhà bên cạnh. Hòa trở lên căn gác. Cô gái run sợ lúc nãy, bây giờ hoàn toàn tươi tỉnh. Hòa ngạc nhiên khi nhìn thấy cô nàng đã cởi bỏ hết áo quần từ bao giờ. Chàng hỏi:
- “Sao lại làm vậy?”
- “Nếu bọn chúng lên đây kiểm soát thì em đóng vai là vợ anh!” Nàng vừa trả lời vừa ôm chầm lấy Hòa và hôn tới tấp trên má, trên môi chàng.
Cô gái thì thầm:
- “Anh đã cứu mạng em, anh là ân nhân của đời em!”
Nàng siết chặt Hòa trong vòng tay nồng nàn và sẵn sàng dâng hiến. Ðôi vú căng đầy ép vào ngực Hòa khiến cơn dục tình của họ trương lên cực độ và hai thân thể quyện lấy nhau.
Trời vừa hừng sáng, Lài đã đánh thức Hòa dậy. Nàng van nài chàng cố gắng tìm một bộ đồ nữ. Giờ nầy, phố chợ chưa mở cửa vả lại, Hòa chẳng có bà con hàng xóm nào gần gũi quen thân. Áo quần Hòa thì quá rộng cô bé không thể dùng được. Ðang lúng túng, Hòa chợt nhớ tới chiếc vali đựng tư trang của người bạn gái mang gởi trước khi về quê nghỉ Hè. Trong rương gồm ít sách vở, một bộ chemise quần, hai bộ áo dài đồng phục nữ sinh. Hòa mừng rỡ định lấy ra cho nàng bộ chemise quần, nhưng cô bé ngỏ ý mượn bộ áo dài trắng, nàng bảo:
- “Anh vui lòng cho em mặc bộ nầy, hôm sau giặt ủi tươm tất sẽ mang trả cho anh.”
Lài mặc chiếc áo dài rất vừa vặn. Trên ngực áo nổi bật bảng tên trường nữ trung học Gia Long - Trần Thị Phượng - 11A. Trước khi từ giã, nàng xin Hòa cuốn tạp chí Phổ Thông cầm nơi tay. Với mái tóc thề ngây thơ, khuôn mặt thanh tú và chiếc áo dài trắng thướt tha, chẳng một ai nghi ngờ Lài là “gái làm tiền”. Bước chân ra đi vội vã, khuôn mặt nàng trở nên lạnh lùng, cứng cỏi mất hẳn nét yếu đuối của đêm qua.
* * *
Nhật báo ra ngày hôm sau có một bản tin đặc biệt đăng tải nơi trang nhất:
“Nhận được tin mật báo, vào lúc 12 giờ đêm ngày 13-6-1967, các đơn vị an ninh Ðô thành và Gia Ðịnh đã phối hợp bao vây một cuộc họp của bọn VC nằm vùng tại căn lầu 120 đường Trương Minh Ký thuộc khu vực Lăng Cha Cả. Kết quả bắt được 5 tên. Trong số nầy có một đội trưởng Ðặc công Biệt động Thành. Số khác chạy thoát. Bọn chúng giả dạng là khách “mua hoa” và gái “bán dâm” để qua mặt lực lượng Cảnh sát. Chủ nhà là bà Phan Thị Ðãi, tên thường gọi bà Thúy hiện đang bị câu lưu để điều tra.”
Bản tin trên đối với Hòa cũng như một số sinh viên, học sinh khác ở thủ đô chẳng có gì quan trọng. Họ rất vô tư trước thời cuộc. Hòa xem qua để rồi quên lãng. Duy có một điều làm Hòa bận tâm là chờ đợi cô gái tên Lài mang trả bộ áo quần.
Qua ba ngày, rồi một tuần lễ, cô gái vẫn biệt tăm. Hòa không tin là Lài đã dễ dàng quên lời hứa và quên cả ơn cứu giúp của chàng nhanh đến vậy. Hòa còn nhớ rõ thái độ rất nghiêm túc khi nàng ghi tên họ và số nhà của Hòa vào một mảnh giấy.
Thường ngày, Hòa về nhà rất khuya, phải mất ba tiếng đồng hồ kèm trẻ mỗi đêm. Hôm nay, ngày lễ Vu Lan chàng được về sớm. Vừa đặt chân đến đầu hiên nhà là Hòa đã nghe tiếng mõ tụng kinh. Bà Nghĩa chủ tiệm phở đón chàng ở cửa, hỏi:
- “Mấy bữa nay em có thấy điều gì khác lạ không?”
Hòa đang ngơ ngác, bà Nghĩa tiếp:
- “Cách đây mấy đêm, ma xuất hiện lẩn quẩn trong khu nầy. Hồn cô dâu hiện về khua động trên mái nhà. Hàng xóm thấy bóng một cô gái trần truồng – A Di Ðà Phật – mái tóc của Ngài đen tuyền dài đến gót chân. Ngài đi lên chiếc cầu thang nầy đây, đến cửa ra vào thì biến mất.” Bà Nghĩa vừa nói vừa chỉ chiếc cầu thang lên căn gác của Hòa ở, rồi tiếp:
- “Hôm nay tôi mời thầy đến đây cúng cô hồn, đồng thời trừ yểm không để Ngài về quấy phá nữa.” Nói xong bà chắp hai tay trước ngực niệm: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát!”.
Bên gốc cây trứng cá là một bàn hương án có đủ lễ vật cúng cô hồn, lại thêm bộ áo cô dâu bằng giấy mã. Hòa nhíu mày suy nghĩ: “Bóng con ma trần truồng” chẳng lẽ cô gái tên Lài là quỷ hiện hình? Cô từ lầu bà Thúy chạy băng trên nóc nhà rồi rớt xuống cái sân nầy. Ma và người làm sao có thể lẫn lộn được. Chàng nhớ khá rõ cái đêm hôm ấy. Thân thể Lài rất nồng ấm và nụ hôn cũng rất trần tục! Duy có một điều mà giờ nầy Hòa còn ngờ vực. Cô gái rất vụng về trong lúc làm tình không như gái làng chơi đã từng điêu luyện trong nghề. Hòa có cảm giác là cô bé lần đầu tiên biết thế nào là cơn tột đỉnh tình dục. Ðôi tay bấu vào lưng chàng, đôi môi quyện lấy lưỡi chàng. Như thế, nhất định nàng không phải là ma, nhưng nàng có đích thực là gái điếm?
* * *
Tình hình chiến sự ở Cần Thơ có phần nặng nề, chị Nga phải đưa bầy con về Sài Gòn. Bà Nghĩa, chủ tiệm phở phải trả lại nhà cho gia đình chị ở. Việt cộng gia tăng cường độ pháo kích vào các phi trường, vì vậy khu dân cư nằm quanh vòng đai sân bay Tân Sơn Nhất , nhà nào cũng phải có hầm trú ẩn tránh pháo.
Những ngày cận kề Tết Nguyên Đán, các gian hàng quanh chợ Bến Thành nhộn nhịp. Tiếng rao hàng hòa với điệu nhạc mừng Xuân càng thêm náo nức. Chợ hoa trên đường Nguyễn Huệ cũng tấp nập người là người. Những cành mai, cành đào, búp xanh mơn mởn. Những chậu kiểng được cắt tỉa công phu, đầy nghệ thuật và đủ các loại hoa tràn ngập cả một đoạn đường. Các chuyến xe đò cũng đầy nghẹt khách về quê ăn Tết.
Khác với mọi năm, đã cuối ngày ba mươi tháng chạp mà đường phố ngoại ô Sài Gòn vẫn còn đông người qua lại. Họ rảo bước về một nơi nào đó như cho kịp chuyến xe cuối cùng. Một số khác, thoạt trông như những chàng tân binh trốn quân trường về nhà ăn Tết. Họ mặc quần áo lính trông lôi thôi lếch thếch. Khuôn mặt người nào cũng mang nét khẩn trương. Xe tuần tra của Quân Cảnh Mỹ-Việt cũng không thấy xuất hiện ở những khu phố có nhiều quán rượu như thường ngày.
Trời vừa nhá nhem tối, dăm ba bàn thờ lẻ loi được đặt trước hiên nhà chuẩn bị đón giao thừa. Anh rể của Hòa nhắn tin không thể về ăn Tết vì lệnh cấm trại vào giờ chót. Chị Nga cùng gia đình ăn bữa cơm cúng rước ông bà trễ tràng và nguội lạnh.
Ðường phố vắng lặng , chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa là đến giờ Giao Thừa , bỗng có tiếng người la lớn: “Việt Cộng bà con ơi!”
Anh thanh niên vừa báo động vừa chạy băng qua đường. Một loạt đạn AK từ trong lăng mộ bắn đuổi phía sau lưng, anh ngã xuống nằm sóng soải trên mặt đường, máu tuôn lênh láng. Từ cổng trại Phi Long, những tràng đại liên cũng bắt đầu quạt liên hồi. Tiếp theo là tiếng nổ của các loại súng, lựu đạn vang lên tứ phía. Cộng quân tấn công vào Bộ Tư Lệnh Không Quân trước giờ Giao Thừa.
Chị Nga hấp tấp lùa bầy con vào hầm trú ẩn. Hòa bò ra cửa, nhìn qua khe hở. Ðiện đường tắt ngấm, phố xá lờ mờ. Hướng bên bờ thành cổng trại Phi Long, loáng thoáng nhiều bóng người đội nón tai bèo, vai quàng khăn dù núp sau bia mộ.
Tiếng súng bỗng dưng ngưng bặt. Sự yên ắng lạnh lùng bao trùm cả khu phố. Mọi người nằm thiêm thiếp trong hầm. Chợt có tiếng gõ cửa, rồi giọng nói của người đàn ông thúc bách:
- “Mở cửa, quân giải phóng đây !”
Không ai trả lời...!
- “Mở cửa, nếu chậm trễ sẽ giựt sập nhà!”
Chị Nga đẩy Hòa vào ngách hầm, trấn những bao cát còn lại lên cao, chị ra mở cửa. Một nữ các bộ VC mặc bộ bà ba đen, vai mang một khẩu súng ngắn và túi dết bên hông. Theo sau là người du kích với áo quần màu xanh, nón tai bèo, hai tay ghìm khẩu AK. Một người khác đứng chắn ngang cửa.
- “Nhà có mấy người?” Người du kích trừng mắt hỏi.
- “Tôi và bốn đứa con.” Chị Nga trả lời.
- “Chúng nó đâu?”
- “Trong hầm!”
- “Gọi ra!”
Chị Nga theo lệnh vào hầm đẩy bốn đứa nhỏ ra đứng bên chị. Chúng nó sợ hãi, khuôn mặt đứa nào cũng đầm đìa nước mắt.
Từ lúc vào nhà đến giờ, nữ cán bộ VC lặng lẽ quan sát mọi ngóc ngách trong nhà, chợt y thị hỏi:
- “Tên Hồ Phú Hòa đâu?”
Chị Nga giật mình nhủ thầm : “Sao nó biết tên em trai mình?”
- “Nhà tôi không có ai tên Hồ Phú Hòa.” Chị Nga điềm tĩnh trả lời.
Người du kích quát:
- “Cơ sở cách mạng nắm hết danh sách hộ khẩu, các người đừng hòng che giấu.”
Khuôn mặt lạnh lùng của nữ cán bộ Việt Cộng khẳng định: “Tên Hồ Phú Hòa là sinh viên trọ học tại nhà nầy.” Chị Nga lấy lại được bình tĩnh, tỏ vẻ thành thực hăng hái tiếp lời:
- “Ồ, đúng rồi, nó là sinh viên ở tận ngoài Trung, mướn căn gác nhà tôi trọ học. Nó về ngoài đó ăn Tết đã hơn tuần nay!”
Người du kích nghi ngờ, quét một đường pin sáng vào hầm rồi lên tiếng đe dọa:
- “Nói dối với cách mạng là bị trừng trị đấy.” Hắn quát lớn:
- “ Chuẩn bị ném bộc phá vào hầm!”
Chị Nga thất kinh, lạnh cả người. Chợt người nữ cán bộ bảo: “Không cần thiết”, rồi ra lệnh rời khỏi nhà. Y thị quay nhanh ra cửa, người cận vệ bước theo.
Nín thở trong hầm, Hòa lắng nghe những mẩu đối thoại vừa rồi. Chàng để ý đến giọng nói nhè nhẹ êm êm của người nữ cán bộ VC. Giọng miền Nam rất quen thuộc, giống hệt tiếng nói của Lài, người con gái đã mượn bộ quần áo dài của Phượng cách nay sáu tháng.
Ngoài đường phố đột nhiên chân người chạy rầm rập. Bộ điện đàm của máy truyền tin kêu xè xè bên hông nhà. Ðèn dù của máy bay thả sáng rực cả bầu trời Tân Sơn Nhất. Tiếng súng lại bắt đầu nổ đều khắp. Không riêng gì khu vực Hòa ở mà hầu hết Sài Gòn. Pháo đón giao thừa ở Thủ đô thay bằng tiếng súng. Rượu nồng chúc Xuân chỉ còn là máu của lương dân vô tội! Ðạn pháo kích của Cộng quân rít lên từng hồi rơi bừa bãi trong khu đông dân cư. Máy bay trực thăng quần thảo trên bầu trời phóng từng đợt rocket vào những điểm tập trung của địch cùng những loạt đại liên không ngừng quạt xuống đám cộng quân ẩn nấp trong khu nghĩa địa.
Ðồng hồ vừa điểm bốn giờ sáng. Mọi khi, giờ nầy đã nghe tiếng gà gáy bên căn nhà số 80 của ông Tư gà đá. Hôm nay, gà cũng tắt giọng vì khiếp sợ.
Tiếng súng giao tranh từ hướng Bộ Tổng Tham Mưu vọng về càng lúc càng dữ dội. Riêng khu vực trại Phi Long, trận chiến dần dần lắng dịu. Từng tốp trực thăng rầm rập bay lượn trên bầu trời.
- “Chi Lăng gọi Quyết Thắng! Chi Lăng gọi Quyết Thắng!”
- “Quyết Thắng nghe Chi Lăng.”
- “Quyết Thắng báo cáo tình hình khu vực trách nhiệm. Nghe rõ trả lời.”
- “Quyết Thắng nghe rõ năm trên năm.”
Hòa nhận ra tiếng điện đàm truyền tin quen thuộc của lính Cộng hòa. Chàng kêu chị Nga dậy và báo tin mừng là quân ta đã giải tỏa khu phố mình. Hòa vội vàng hé cửa nhìn ra đường, trời đã hừng sáng. Lực lượng Biệt Ðộng Quân đã chiếm lĩnh toàn thể khu vực Lăng Cha Cả và trại Phi Long. Nhìn bóng dáng của người lính chiến nơi chiến trường còn vương khói súng, lòng Hòa xúc động. Khuôn mặt chị Nga đẫm lệ và nước mắt Hòa cũng rưng rưng. Nước mắt của nỗi vui mừng và lòng biết ơn dâng tràn. Nước mắt của niềm xúc động sâu xa trước tinh thần quả cảm của người chiến sĩ. Hòa muốn mở cửa chạy băng qua đường để bắt tay tri ân những chàng trai hào hùng đó. Các anh sẵn sàng hy sinh cả tánh mạng, nhận lấy bao gian nan, khổ ải để dân chúng hưởng hạnh phúc ngày Xuân. Chợt tỉnh ngộ – Hòa cảm thấy xấu hổ bởi lòng vị kỉ của mình.
- “A lô ! a lô! đồng bào chú ý. Cộng sản Bắc Việt đã lợi dụng giờ hưu chiến Tết Mâu Thân đồng loạt tấn công vào Thủ đô Sài Gòn và nhiều nơi khác. Ðồng bào hãy bình tĩnh. Quân đội đã giải tỏa toàn thể khu vực Tân Sơn Nhất, nhưng vẫn còn nhiều tên VC đang lẩn trốn trong khu phố. Yêu cầu đồng bào cảnh giác, ở yên trong nhà. Quân đội đang lục soát, truy lùng tàn quân Bắc Việt trên toàn vùng”.
Ðó là nội dung bản thông cáo được phát ra từ chiếc loa phóng thanh của toán Chiến tranh Tâm lý. Hòa mở rộng cửa, ánh nắng ban mai chóa lòa. Nhìn sang phía sau lăng mộ, bất chợt, Hòa trông thấy một góc tà áo dài trắng vắt qua tường thành nghĩa địa. Vạt áo phất phơ theo từng cơn gió xuân thổi về đã gợi tính tò mò của Hòa. Bất giác, chàng chạy băng qua đường, nhảy qua tường rào. Trước mắt Hòa là xác một cô gái mặc áo dài trắng dựa lưng vào góc tường. Máu đọng vũng quanh nàng ướt đẫm chiếc quần bà ba đen, một đoạn ruột trào ra nơi bụng nàng . Mái tóc đen dài kẹp chúm vắt qua vai phủ lên ngực áo. Ðầu ngả sang một bên che một phần khuôn mặt trắng bệch. Ðôi mắt mở trừng trừng, hiện rõ nốt ruồi đen nằm giữa hai hàng lông mày giáp nhau. Hòa giật mình nhận ra khuôn mặt của Lài. Chàng hất tung lọn tóc phủ trên ngực, bảng tên nữ sinh trường Gia Long còn đậm nét hiện ra trên ngực áo : Trần Thị Phượng -11A. Ôi! Chiếc áo của Phượng bạn gái chàng. Chiếc áo đã giúp cho nữ cán bộ Việt cộng nầy qua mặt được lực lượng Cảnh sát truy lùng sáu tháng trước đây. Hòa đã che giấu nàng và hai người đã qua một đêm ân ái.
Một niềm thương cảm bỗng dưng tràn ngập lòng Hòa. Chàng định đặt xác nàng nằm xuống ngay bên cạnh, chợt thấy trên ngôi mộ đối diện có chiếc khăn dù, Hòa nhặt lên rồi trải trên khoảng đất bằng phẳng. Ðoạn, chàng nâng đầu tử thi kéo về hướng có chiếc khăn dù. Bỗng – đoành – tiếng nổ xé trời, khói tỏa mù mịt ! Hòa ngã xuống.
Trước khi tháo chạy, đồng đội được lệnh cấp trên đặt dưới lưng xác người nữ Cán bộ Biệt động Thành một quả lựu đạn đã rút chốt an toàn.Một sự thật tàn độc của Việt Cộng mà người dân bình thường như anh sinh viên tên Hoà không hề biết đến.
Bóng ma thoáng qua óc Hòa rồi dần dần lịm tắt!
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
|
|
|
07-26-2019
|
#79
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,413
Thanks: 21,704
Thanked 38,215 Times in 12,890 Posts
Mentioned: 637 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7250 Post(s)
Rep Power: 69
|
Một tiếng kêu “Thầy”
1.
Hồi tôi mới lên đại học là năm 1967, học lớp dự bị Triết trường Văn Khoa, có lần một ông anh rể đã dẫn tôi đi chơi, tập tành nhậu nhẹt với một loại rượu bình dân nhưng rất đả. Đó là nhãn rượu Vĩnh Sanh Hòa, còn gọi là Vĩnh Tồn Tâm, chai thủy tinh vuông 1 lít, uống với Soda thì tuy thoang thoảng mùi thuốc Bắc nhưng ngon không thua cho lắm nếu so với whisky soda, chẳng hạn như Bee Hive, Johnny Walker.
Để uống Vĩnh Tòn Ten – dân bợm thường gọi tếu như thế – ông anh đã dẫn tôi khu Chợ Cũ, cuối đường Hàm Nghi, Quận Nhứt Sài Gòn thời đó, vào một tiệm nước của người Tàu, đối diện hơi chếch bên kia đường là tiệm bánh danh tiếng Như Lan. Gọi rượu và soda xong, ông anh bước qua đường, vào một tiệm Tàu bán đủ thứ thịt quay: heo quay, gà vịt, vịt quay, lòng phá lấu, xá xíu…, nhưng bởi là tư chức lương thấp, anh tôi chỉ gọi một thứ… tổng hợp, toàn là cổ, chân, cánh gà vịt quay, lổn nhổn trong miếng lá chuối, bọc thêm giấy báo tiếng Tàu bên ngoài.
Nhấm rượu, gặm cổ, chân vịt một lát, tự nhiên từ bản kế bên một ông khách hơi trọng tuổi cầm ly bước qua, giọng Nam bộ thật chơn chất, vui vẻ nói một hơi:
“Xin lỗi hai chú em, nảy giờ tui ngồi một mình bàn bển thấy hai chú em cũng lịch sự, nói chuyện nghe thiệt đàng hoàng, mà cũng có ‘gu’ thích Vĩnh Tòn Ten như tui nữa. Thôi thì, tui xin phép cất qua bên cái mớ lá chuối này, rồi mình ngồi chung nhậu thịt quay tui mời cho vui nhe, được hôn mấy chú em?”.
Không có cách nào khác hơn, chúng tôi cùng lịch sự gật đầu “Dạ, mời anh”. Ông khách cười hể hả, trở về bàn đem qua tiếp dĩa thịt heo quay bự xự cùng gói thuốc Craven A rồi ngồi xuống hô liền: “Dô chớ!”.
Sau vài tua cụng Vĩnh Tòn Ten, ông khách cho biết mình ‘thứ tư’ và hỏi chúng tôi ‘thứ’ mấy. Xứng thứ xong xuôi thì ở đây, tại bàn rượu này, tôi chợt được có tên mới là “chú Hai” vì anh Tư–taxi mới quen không hề để ý chút nào đến tên Hùng trong câu trả lời của tôi, rằng “Dạ em tên Hùng, thứ hai”. Ynhư vậy, ông anh của tôi bắt đầu có tên tại bàn là “chú Năm”, còn tên Huy anh có xưng ngay từ đầu thì cũng bị người nghe thông qua luôn.
Vậy đây là anh Tư-taxi bởi anh đang chạy taxi kiếm sống. Bữa nay chạy cũng khá nên sau khi nghỉ đón khách, anh Tư đã cho phép mình trên đường về nhà ghé tiệm ở khu Chợ Cũ này để xả hơi, tức làm vài ly Vĩnh Tòn Ten với soda như sở thích lâu nay, và mới làm một ly thì bắt gặp anh em tôi ở bàn bên…
Đến lúc nghe tôi tự giới thiệu chưa đi làm, chỉ là sinh viên học năm đầu đại học, anh Tư chợt có vẻ rất chú ý, hỏi liền:
“Sinh viên tức là có bằng tú tài hai, phải hôn chú em?”
Tôi đáp “Dạ, ai cũng vậy, đậu tú tài hai rồi thì được ghi danh học đại học, anh Tư”.
Anh Tư chợt cười he he, cầm ly lên:
“Vậy chú Hai là ông thầy rồi. Tui học hành ít mà run rủi tụi mình gặp nhau ở đây thì thiệt là hên. Vô cái đi rồi tui sẽ nói muốn nhờ chú Hai một chuyện… Coi ông thầy có nhận hôn nhe!”.
Sau đó, anh Tư-taxi kể vắn tắt là có người em ruột, cũng “học hành ít”, vô cảnh sát làm đã lâu mà không thể lên lương bậc gì hết, bởi đã không có bằng tiểu học để nộp. Trong khi đó, theo qui định của ngành cảnh sát quốc gia, chỉ cần người có bằng tú tài hai dạy rồi làm giấy chứng nhận, rằng cho anh cảnh sát viên đã học hết chương trình tiểu học của Bộ Giáo dục do mình dạy, nhớ kèm theo là bản photo bằng tú tài. Với tờ chứng đó, anh cảnh sát viên đem nộp là được chấp thuận tăng một bậc lương.
Vậy là “tứ hải giai huynh đệ”, trong lúc gã trai trẻ 18 tuổi là tôi ngượng ngùng, không dám nhận danh xưng “ông thầy” – trên đời, tôi chưa từng được ai gọi như vậy dù tôi đã từng đi kèm trẻ tại tư gia- thì anh Tư-taxi, thay vì để ông chủ tiệm tiếp tục đến bàn đong, rót từng shot rượu theo kiểu khách kêu từng ly – đã gọi thêm nguyên chai Vĩnh Sanh Hòa,…
2.
Chẳng bao lâu, đúng hẹn là anh Tư taxi dẫn chúng tôi đến nhà anh cảnh sát viên, một căn phố nhỏ nằm trong hẻm ở vùng Phú Nhuận. Tên anh chủ nhà là gì thì đã quá lâu rồi, tôi chỉ nhớ mang máng qua lúc làm giấy tờ nhưng chắc chính xác, đó là Trần Văn Tốt. Thôi thì, lại kêu theo kiểu Nam bộ, đây là Sáu Tốt, em anh Tư-taxi. Mở đầu thì không thể có gì khác hơn là một chầu nhậu ‘bộ tứ’ ngồi dưới sàn gạch bông, bia lon Hamm’s của Mỹ với mồi màng hậu hĩnh, ê hề. Sáu Tốt cũng chơn chất, hể hả y như anh mình, lớn hơn tôi cả chục tuồi mà cứ gọi tôi là “ông thầy” hay “thầy” hoài khiến tôi rất ngượng.
Khi tôi viết xong và trao cho anh tờ giấy chứng nhận cùng tờ bản sao bằng tú tài – có dấu đỏ sao y bản chánh đàng hoàng của ủy ban hành chính xã Bình Hòa, quận Gò Vấp, sát bên lăng Ông, Bà Chiểu thời đó, Sáu Tốt rất xúc động, không hề đọc qua tờ chứng dù tôi đã nhắc mấy lần:
“Cám ơn, cám ơn ông thầy nhe. Đọc gì chớ, thầy viết là đúng chắc cú luôn rồi. Để tui…”
Sáu Tốt tự nhiên ngừng nói, đứng phắt dậy, cầm tờ giấy cẩn thận cất lên tủ thờ ngay sau lưng mình, nói liền khi ngồi xuống trở lại:
“Xin lỗi, em cất giấy đàng hoàng vậy cho chắc ăn, để dưới này lỡ đỗ bia thì ướt tèm lem hết sao! Dạ mời mấy anh, mời thầy Hai vô chớ, còn khui lon mới…”.
Bữa nhậu rôm rả tiếng cười, hết sức vui vẻ như đánh dấu một công việc lớn vừa hoàn thành, giúp chủ nhà cởi bỏ được một gánh nặng, một nỗi lo suốt bấy lâu nay.
Đang cười bỗng Sáu Tốt nghiêm mặt nói:
“À, xin phép anh Tư, anh Năm, xém nữa Sáu này quên. Mang ơn thầy Hai nhiều quá rồi, xin gởi thầy vài ngàn, chút đỉnh gọi là cám ơn…”
Tôi lập tức ngắt lời Sáu Tốt. Cậu trai mới lớn đã uống chắc cũng 5, 6 lon Hamm’s, giọng đã có vẻ hơi hơi dân chơi, hơi hơi giang hồ, còn vỗ vào đầu gối chủ nhà cái “đét” khi nói – một cử chỉ suồng sã hiếm thấy nơi cậu SV mới năm dự bị:
“Hổng được nghe anh Sáu, tôi hổng nhận đâu. Tụi tôi mới biết anh Tư, anh Sáu đây thôi nhưng tình thương mến thương, giúp được gì cho anh Sáu thì tôi ráng hết ga thôi. Đừng chíp bụng để tâm nghe. Nè, mà đừng kêu tôi thầy nữa, tôi nhỏ hơn anh cả chục tuổi…”
Sáu Tốt lại lè nhè ngắt lời tôi:
“Đâ…âu được. Thầy Hai có học hành cực khổ thì phải kêu bằng thầy chớ. Mà… nhận dùm tui đi, xin gởi thầy đây là hai ngàn, chút đỉnh coi như tiền giấy mực thôi mà.”
Thời năm 1967 ấy, tôi nhớ giá một chiếc honda C50 dame khoảng 32,000 – 35,000 đồng VNCH, còn chiếc Yamaha dame cũng 50cc tôi đang đi học thì ba má tôi mua hết 29,000 đồng. Và kìa, dù là tiền thù lao, tiền tạ ơn, tiền giấy mực gì đó thì BỐN TỜ TRẦN HƯNG ĐẠO xanh mướt lúc ấy đều không thể nói là nhỏ hay chẳng có chút nghĩa lý nào đối với một cậu sinh viên con nhà nghèo.
Nhưng rốt cuộc, cũng có thêm ý kiến “Nên” của anh Tư-taxi và ngược lại là “Không nên” của anh rể tôi, tôi đã không nhận món tiền cũng-có-ý-nghĩa ấy.Trong lòng vui ngút ngàn, một nỗi phấn khích bay bổng bởi cảm giác tự hào là vừa làm được việc tốt cho đời, anh thầy 18 tuổi liên tục hưởng ứng những cái “vô”. “vô” từ phe chủ nhà đến say mèm, đến độ khi tàn cuộc phải để ông anh chở…
Phạm Nga
Sydney, đông 2019
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
|
|
|
08-22-2019
|
#80
|
|
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
Join Date: Dec 2009
Posts: 2,718
Thanks: 2,543
Thanked 7,179 Times in 2,193 Posts
Mentioned: 80 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1216 Post(s)
Rep Power: 25
|
Cô Giáo "Ngụy"
Nữ sinh Trường Trung Học Công Thanh. Ngôi trường được xây dựng với sự hợp tác của Lữ Đoàn 173 Không Vận Hoa Kỳ và người dân, ngày 12 Tháng Mười, 1967. (Hình: Flickr manhhai)
“…Tôi đã thấy điều đẹp đẽ trong một xã hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi đã mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này…”
Một đứa học trò la lớn. Bọn con trai, mấy đứa con trai đang quây quần ở cuối lớp chơi trò “dích” hình, đứa nào đứa nấy vội vã thâu tóm lại mấy tấm hình màu bằng bìa cứng có in hình sặc sỡ. Bọn con gái đang tụm ba tụm bảy nói chuyện nô đùa cũng vội vàng quay về chỗ cũ.
Cô giáo Mai lễ mễ ôm phần chia nhu yếu phẩm của cô tháng này, gồm mấy trăm gram thịt, mấy trăm gram đường bước vào lớp. Cô bước vào lớp, tất cả học sinh đứng lên chào. Sau khi để gói thịt, gói đường cẩn thận vào trong giỏ. Cô mỉm cười:
-Cô cho các trò ngồi xuống. Các trò làm chi ồn rứa bộ định làm loạn giống…
Mai định nói làm loạn giống “Việt Cộng” như thói quen cô vẫn nói khi la rầy học trò trước kia, nhưng cô ngưng lại kịp. Sau khi nghe em lớp trưởng điểm danh, cô bắt đầu khảo bài. Học trò của cô phần nhiều thuộc những gia đình mà chính quyền mới gọi là thành phần có nợ máu với nhân dân hoặc có vấn đề với “cách mạng.” Hầu hết cha của các em đang bị cầm tù trong các trại tập trung “cải tạo.” Thêm vào đó có khoảng một vài em thuộc gia đình cán bộ Cộng Sản cao cấp mới vào Nam.
Phần đông các học trò miền Nam những năm đầu sau khi bị “giải phóng” các em học trò miền Nam còn rất ngoan và kính trọng thầy cô, và ngược lại thầy cô miền Nam cũng còn coi công việc gõ đầu trẻ là một thiên chức chứ không phải thuần túy là một nghề để sinh nhai. Mai ra trường Sư Phạm Đà Nẵng đi dạy được hai năm thì miền Nam mất. Cô được chính quyền mới cho đi dạy lại vì theo họ lý lịch của cô tương đối khá sạch, từ ông bà xuống tới cha mẹ không có ai làm lớn trong chính quyền cũ.
Sáng nay như thường lệ sau khi khảo bài cũ cô bắt đầu dạy bài mới. Trước bảng đen Mai nắn nót viết bài học Pháp văn cho tiết học hôm nay trên bảng đen.
“Mardi 26 Septembre 1977/ Conjuguez le verbe ‘Etre’ Je suis, Tu es, Il est …”
Bỗng một tiếng thét lớn:
-Thưa cô trò Hùng cú đầu con!
Mai nhịp nhịp cái thước gỗ vào bảng không trả lời, cả lớp lại im lặng như tờ chỉ có tiếng bút mực sột soạt trên giấy. Cô tiếp tục viết bài học lên bảng đen. “Elle est…”
-Thưa cô trò Hùng bóp… cu con…!
Cũng là cái giọng học trò hồi nãy, và lần này cả lớp phá lên cười như ong vỡ tổ. Cô Mai nghiêm mặt quay lại bảo:
-Hùng, Quang hai em lên đây!
Hai đứa học trò lớp Sáu, ngồi cạnh nhau một đứa đen đủi nhỏ thó tướng tá loắt choắt nghịch ngợm, áo bỏ ngoài quần và một đứa mặt mũi trắng trẻo dáng điệu mảnh khảnh. Cả hai lấm lét bước lên phía trên. Tuy có hơi giận vì học trò tinh nghịch, nhưng cô Mai vẫn chậm rãi hiền từ:
-Có phải Hùng phá Quang không?
Hùng cúi đầu không đáp, cô Mai lại hỏi lần này giọng nghiêm khắc hơn:
-Có phải em phá bạn làm mất trật tự trong lớp không?
Hùng nhìn lên trả lời lí nhí:
-Không ạ!
Lần này thì thằng Quang la lớn:
-Nó xạo, nó cú đầu con rồi bóp…
Mai đưa một ngón tay lên môi ra hiệu cho Quang đừng nói nữa không thì cả lớp lại cười như vỡ chợ. Có nhiều tiếng nhao nhao:
-Trò Quang nói đúng đó cô, thằng Hùng nó có làm đó,… nó còn viết bậy lên lưng áo em nè…
Thằng Hùng chợt đưa tay làm thành nắm đấm đôi mắt căm hờn:
-Chúng ông sẽ cho tụi mày biết tay nhé… chúng ông cho bố bọn mày đi “cải tạo” cứ là đờ người nhé…
Lần này thì cô Mai thật sự giận dữ:
-Trong lớp của cô hay bất cứ nơi đâu em cũng không được phép hỗn láo vô phép với người lớn nghe chưa? Nghe rõ chưa? Em Hùng đến góc kia quay mặt vào tường cho đến hết buổi.
Buổi dạy học tưởng như bình thường sáng hôm đó đem đến cho Mai nhiều chuyện bất ngờ sau này.
Vài ngày trong khi lớp Pháp văn của cô đang làm bài kiểm tra, người tùy phái đến lớp của cô mời cô xuống văn phòng hiệu trưởng có chuyện cần. Mai hỏi:
-Có chi quan trọng rứa bác Tam? Lớp tôi đang làm bài thi làm răng mà bỏ đi? Bác nói đợi tới hết giờ rồi tôi sẽ xuống bác hỉ!
Người tùy phái già trả lời:
-Dạ tui cũng nói như rứa với bà hiệu trưởng và ông khách, nhưng họ có chịu nghe mô. O xuống nhanh đi, nghe nói ông khách nớ làm lớn lắm.
Mai đáp:
-Bác Tam à, tôi không thể xuống được ngay bây chừ, bác xuống văn phòng giải thích dùm tôi…
Ông Tam quày quả đi ra. Khoảng vài phút sau một người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen, tay đeo cái đồng hồ Seiko5 vàng sáng chói, nước da men mét, hàm răng hơi vổ, mặc quân phục rộng thùng thình, vai đeo xà cạp, ngang nhiên bước thẳng vào lớp, theo sau là ông Tam. Con Trang lớp trưởng sau một vài giây ngỡ ngàng vì người khách vào lớp bất ngờ, nhanh nhẹn hô lớn “Nghiêm!” Cả lớp buông bút viết, đứng thẳng chào khách. Lần này thì đến lượt người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen ngỡ ngàng và ngạc nhiên đến độ lúng túng, cô giáo Mai đứng trên bục giảng lễ độ hỏi:
-Thưa ông có việc gì cấp thiết không ạ?
Người đàn ông nhìn lên lúng búng trả lời:
-À không, tôi chỉ muốn nói chuyện với cô một vài vấn đề, nhưng bây giờ tôi sẽ đợi cô dưới văn phòng.
Cô Mai từ trên bục gỗ bước xuống từ tốn:
-Dạ cám ơn ông, xin ông thông cảm, lớp đang làm bài kiểm tra tôi không thể tiếp chuyện ngay với ông.
Hết giờ Pháp văn, cô Mai vội vã xuống văn phòng hiệu trưởng. Bước vào cô hơi ngạc nhiên khi chỉ thấy có ông khách đang chễm chệ ngồi sau bàn giấy của bà hiệu trưởng. Ông khách đưa tay mời cô ngồi. Ông ta vẫn còn đeo đôi kính Rayban đen trong căn phòng không có cửa sổ. Cô Mai bất giác muốn phì cười, nhưng ngăn lại kịp. Ông khách tự giới thiệu:
-Chắc cô không biết tôi là ai, nên không xuống gặp tôi ngay.
Cô Mai trả lời ngay:
-Dạ thưa tôi biết ông là người rất quan trọng nhưng vì bài kiểm tra này quan trọng đến kỳ thi học kỳ của các em…
Ông khách ngắt lời:
-Ô! Không, không tôi có ý phiền trách gì cô đâu, thực ra thì lúc cô không xuống ngay tôi giận lắm, vì ngoài Bắc mỗi khi tôi vào trường con tôi học là giáo viên phải đến gặp tôi chứ tôi không bao giờ phải lên kiếm giáo viên cả.
Cô Mai trả lời:
-Dạ trong ni chắc còn lạc hậu, không biết bao chừ mới theo được bằng ngoài nớ…
Cô Mai không biết ông khách đang nghĩ gì và ánh mắt phản ứng ra sao sau cặp kiếng đen. Ông trầm ngâm một chút rồi nói:
-Bây giờ thì tôi hết giận rồi cô ạ. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Thượng Tá Trần Kình, chính ủy của Trung Đoàn Không Quân Tiềm Kích 935 đóng tại căn cứ Không Quân Đà Nẵng. Con tôi là Trần Hùng học trong lớp của cô, vài hôm trước đây nó có phản ánh phê bình cô có khuynh hướng bảo vệ bọn con cái thành phần chống cách mạng. Cô Mai nghĩ sao?
Mai thật sự ngạc nhiên, dầu miền Nam đã bị chiếm đóng hơn hai năm, bởi một đạo quân nói cùng một ngôn ngữ và cùng chung màu da với cô nhưng cô vẫn chưa thật sự chưa hiểu hết về cách suy nghĩ, giao tế của người Cộng Sản. Cô trả lời chậm rãi:
-Thưa ông Kình, tôi không biết phải trả lời ông ra sao. Tôi là một người thầy giáo chuyên nghiệp, tôi dạy bất cứ học sinh nào được giao phó cho tôi, tôi không phân biệt đối xử các em theo thành phần gia đình… hơn nữa các em khi sinh ra cũng không có sự lựa chọn về lý lịch của cha mẹ. Lý lịch cha mẹ các em theo ý tôi không thuộc phạm vi học đường. Còn việc tôi phạt em Hùng là vì em đã phá rối trật tự trong giờ dạy học của tôi. Tôi bảo đảm không có vấn đề bênh vực thành phần giai cấp gì đó….
Người đàn ông tên Kình, ngồi thẳng lên đan hai bàn tay vào nhau:
-Đó là tư duy của tôi cách đây nửa giờ cô Mai ạ. Sau khi tôi lên lớp của cô thấy việc các em lễ phép chào khách, bàn cô giáo có lọ hoa, các em quần áo chỉnh tề tôi rất lấy làm ấn tượng. Tôi thành khẩn với cô nhá, tôi chưa thấy trường nào ngoài Bắc học trò có văn hóa như lớp của cô. Tôi rất mừng thằng Hùng được cô dạy. Thôi thì thế này nhé, cô cứ công tác tốt, tôi sẽ bảo với đồng chí hiệu trưởng bỏ lời phê bình tiêu cực của tôi về cô đi. Coi như không có sự cố gì cô Mai nhé.
Mai mỉm cười:
-Dạ nếu ông đã dạy thế thì tôi rất vui. Nhưng tôi không dám nhận hết lời khen của ông, vì trong Nam này trường nào lớp nào cũng đứng nghiêm, chào khách chào thầy cô. Còn chuyện trang hoàng lọ hoa cho bàn thầy cô thì quả thật là công khó của các em học sinh nữ của lớp tôi đã tự ý hái hoa đồng cỏ dại trang điểm cho lớp học, không phải do tôi dạy bảo.
Ông Kình cười:
-Cô không tuyên truyền cho miền Nam đấy chứ ? Ồ! Tôi chỉ đùa thôi cô ạ, vâng tôi tin cô nói sự thật. Còn vấn đề này nữa, sao tôi không thấy lớp cô Mai treo ảnh Bác nhỉ?
Mai thán phục sự quan sát của người đàn ông này, chỉ có ít phút trong lớp mà ông Kình đã nhận xét được biết bao nhiêu là chuyện. Cô có biết đâu ngoài Bắc người ta treo hình bác Hồ cũng như trong Nam người ta treo cái gương chiếu yêu trước cửa nhà, để xua đuổi ma quỷ. Việc treo hình của ông Hồ là một điều bắt buộc, nhà nào cơ quan nào mà không có gương mặt lom lom, cười cười của ông Hồ là có vấn đề lớn. Thành thói quen, nhiều người treo hình bác Hồ như một sự thông báo cùng hồn ma bóng quế nhà tôi có chúa quỷ ở đây nhá! Các ngài ma quỷ hồn ma bóng quế tép riu liệu mà xéo đi… Mai ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
-Hình như một năm trước đây tôi nhớ có treo, nhưng vì lớp học xây dựng bằng phương pháp tiền chế, vật liệu là sắt và tôn ximăng cho nên đinh đóng vào tường không chắc, bức hình lộng kiếng của Bác bị rơi xuống vỡ nát ông ạ.
Ông Kình hỏi:
-Thế thì sao không báo cáo và thay ngay đi, hồi trước giải phóng các thầy, các cô trong Nam treo ảnh Thiệu ra sao mà bây giờ lại nói đóng đinh không được?
Cô Mai cười xòa:
-Trước giờ trong này không có lệ treo hình lãnh tụ trong nhà riêng hay trong lớp học.
Điều này thì ông Kình có thể tin, vì khi Trung Đoàn 935 tiếp thu căn cứ Không Quân Đà Nẵng ông cũng hơi ngạc nhiên khi thấy không có văn phòng, cơ sở nào có treo hình Tổng Thống Thiệu cả. Nhưng ông đã tự giải thích rằng chắc cũng như ảnh Bác là biểu tượng thiêng liêng bọn “Ngụy” khi di tản đã đem ảnh của Thiệu theo để tỏ lòng yêu kính lãnh tụ, như cái đồng chí gì đấy ở ngoài Bắc, nhà cháy nhưng đồng chí ấy cố xông vào để cứu ảnh Bác, trước khi cứu con trai ruột của mình… Ông chợt thốt lên:
-À, công tác chính trị đảng cầm quyền của Thiệu yếu nhỉ!… À này tôi có xem lý lịch của cô, khá trong sạch và cũng thuộc thành phần cơ bản đấy, cha cô là công nhân sở điện, mẹ làm cho hãng dệt, không hiểu sao trường chưa cho cô vào đối tượng Đoàn? Để tôi giúp cho nhé?
Mai im lặng một chút rồi nói:
-Chuyện hơi dài ông ạ, sợ kể ra đây làm mất thì giờ của ông, nhưng đây không phải chi bộ Đoàn sơ xuất đâu mà là hoàn toàn do tôi cả.
Ông Kình hơi nhổm người về phía trước:
-Tôi không dám tò mò, nhưng nếu cô muốn kể thì tôi không sợ mất thì giờ cô ạ, tôi muốn tìm cách giúp cô. Cô Mai yên lặng một lúc, ánh mắt cô trở nên xa xăm, rồi cô chậm rãi kể.
Chuyện xảy ra cũng gần một năm về trước. Mai gặp lại người bạn học cũ, Đoàn Đình Bình, Bình đã theo cha vô bưng sau cuộc “tổng khởi nghĩa” thất bại của Cộng Sản tại Huế năm 1968. Cả lớp của Mai khi ấy không biết Bình đi đâu hay đã bị chết thảm dưới bàn tay của Việt Cộng khi Bình về ăn Tết ở Huế.
Đầu năm 1976, Bình được bổ về làm bí thư chi bộ Đoàn Thanh Niên Cộng Sản tại trường của Mai đang dạy. Lúc đầu hai người không nhận ra nhau, nhưng Mai nhớ ngờ ngợ cái tên người bạn cũ Đoàn Đình Bình, nên sau một lần họp giáo viên Mai hỏi phải Bình hồi nhỏ có học trường tư thục Bình Minh tại Đà Nẵng không? Hai người nhận ra nhau, rồi trở nên đôi bạn thân. Mai rất trân quý những kỷ niệm và bạn học của ngày xưa thời học trò. Còn Bình thì cũng vui mừng được gặp lại người bạn xưa của ngôi trường đầy tuổi thơ êm đềm trước khi phải ra Hà Nội để bị hấp thụ một nền giáo dục rất ư “vô giáo dục.”
Qua một thời gian, Bình âm thầm yêu Mai và muốn tiến xa hơn với Mai, nhưng trước hết phải giới thiệu được cho Mai vào đối tượng Đoàn, thì việc xin lãnh đạo chấp thuận cho cưới Mai sẽ dễ dàng và vinh dự hơn nhiều. Không hỏi ý kiến Mai, vì muốn dành cho bạn một sự ngạc nhiên mà theo ý Bình đây cũng là một vinh dự cho Mai. Bình mời Mai tham dự một buổi họp Đoàn và tuyên bố đề nghị cho Mai được làm đối tượng Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, sau khi đã đọc lý lịch trích ngang trích dọc của Mai trước mặt mọi người để minh chứng Mai thuộc thành phần tốt. Về phần Mai khi nhận lời dự buổi họp chỉ vì nể Bình và cũng có đôi chút tò mò muốn biết khi họp Đoàn ngưòi ta rù rì rủ rỉ cái chi. Mai không ngờ việc xảy ra như thế. Khuôn mặt của Mai từ trắng chuyển sang hồng, Mai im lặng. Cả phòng họp nghĩ là Mai quá xúc động trước cái đặc ân to lớn kia. Một lúc sau Mai mới run run nói:
-Cảm ơn anh Bình đã giới thiệu Mai, nhưng Mai không hoàn toàn thuộc thành phần tốt như cách mạng định nghĩa đâu, và cũng không đủ tiêu chuẩn vào Đoàn. Mai đã có chồng, mặc dầu chưa chính thức trên giấy tờ. Chồng của Mai là phi công của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa. Câu sau cùng Mai nói chậm, dõng dạc từng chữ như lời tuyên bố.
-Lỗi tại Mai, Mai đã không kể cho anh Bình nghe, vì Mai nghĩ đó là chuyện riêng tư, nhưng bây giờ thì bắt buộc Mai phải nói. Cả phòng họp lặng thinh, không ai biết phải phản ứng như thế nào, còn Bình đứng sững như trời trồng bên cạnh Mai. Một hai phút sau đó anh lắc đầu và bỏ ra ngoài. Mai chạy theo Bình ra đến khoảng sân vắng nói khẽ với Bình.
-Mai xin lỗi nhé, nhưng nếu Mai không nói thì suốt đời Mai sẽ áy náy lắm…
Bình quay lại hằn học:
-Tại sao Mai không cho tôi biết, Mai làm tôi ngượng trước mặt bao nhiêu người, mà những điều Mai nói là thật hay bịa đặt vậy? Bình đã hỏi thăm người ta ở chỗ Mai thường trú họ nói là Mai chắc chắn còn độc thân mà… Bình thật không ngờ, không ngờ. Mà nếu điều Mai nói là sự thật Mai có yêu thằng đó – xin lỗi – anh đó không?
Mai ngạc nhiên về thái độ gần như ghen tương của Bình, Mai không nói gì từ từ kéo sợi dây chuyền từ trong cổ và tháo ra một chiếc nhẫn, loại nhẫn mà phi công sau khi ra trường bên Mỹ thường đeo. Mai nói thong thả:
-Mai có chồng thật chứ, nhẫn cưới của anh ấy trao cho Mai đây này…
Bình bưng hai tai không muốn nghe thêm chạy thất thểu ra khỏi cổng.
Ông Kình, chép miệng:
-À ra thế, thế thì gay đấy, Đoàn hay Đảng có quyền từ chối đối tượng chứ có ai có gan dám từ chối vào Đoàn vào Đảng… À anh chồng của cô bây giờ ở đâu? Còn ở đây hay di tản rồi?
Mai nhớ lại câu chuyện các thực tại chưa xa lắm, vào một ngày cuối Tháng Ba năm 1975. Anh Nguyễn Bé Tư, phi công F-5E biệt phái từ Biên Hòa ra. Hai người quen nhau từ mùa Xuân 1974 trong một buổi văn nghệ ủy lạo, trường của Mai tổ chức để ủy lạo chiến sĩ. Năm 1975, một ngày trước khi Đà Nẵng bị thất thủ, anh đã gặp Mai. Anh không nói gì nhưng qua nét mặt âu lo của anh, Mai biết là tình hình chiến sự ngày càng xấu đi. Anh dẫn Mai đi ăn tối ở nhà hàng Bạch Đằng trên bờ sông Hàn, hai người cố tránh không nói gì về chiến tranh để được một lần hẹn hò trọn vẹn. Gần lúc chia tay, anh rút chiếc nhẫn ra trường bên Mỹ đeo vào ngón tay Mai và nói:
-Anh muốn cùng em sống đến cuối cuộc đời, em có thuận làm vợ của anh không?
Mai không nói được gì, chỉ khe khẽ gật đầu nước mắt bắt đầu tuôn vì xúc động và vui sướng. Mai đã là phu nhân của Nguyễn Bé Tư từ ngày ấy. Trong buổi tối ngắn ngủi đó hai người đã vẽ ra biết bao nhiêu là mộng đẹp, về ngày cưới về gia đình tương lai… Đêm đó anh Tư phải vào trực tác chiến trong phi đoàn. Ngày hôm sau thì Đà Nẵng mất, Mai tìm cách về Sài Gòn vào hỏi Bộ Tư Lệnh Không Quân về tin tức của anh Tư. Mai còn nhớ mấy người lính Không Quân ai cũng lắc đầu nhìn chị thương cảm ái ngại. Kể từ đó cái tên Nguyễn Bé Tư mộc mạc đối với Mai như thuộc về một kiếp nào rất gần mà rất xa xăm. Nhưng cô lúc nào cũng tự nhận là người vợ âm thầm của người phi công Nguyễn Bé Tư.
Câu chuyện cô Mai từ chối vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản được đồn ra, được thêm thắt, và từ đó học trò gọi đùa cô Mai là “Cô giáo ‘Ngụy.’” Cô nghe nhưng không bao giờ la rầy các em vì biết các em không có ý xấu, ngược lại các em từ đó rất kính nể cô, mấy đứa con trai có cha anh là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, nói cô Mai chịu chơi và “chì” lắm. Mỗi khi nghe ai kêu “Cô giáo ‘Ngụy’” Mai mỉm cười hạnh phúc tự nhủ: “Ừ, ‘Ngụy’ thì ‘Ngụy’ mình thua thì người ta gọi mình là giặc. Ngày xưa Gia Long cũng gọi Bắc Bình Vương Quang Trung, Tây Sơn là ‘Ngụy’ đó thôi!”
Giáng Sinh 1980
Sau nhiều lần vượt biên hụt, Mai bị đuổi không cho dạy nữa. Cô sinh sống bằng việc lấy mối rau quả và bán ở chợ. Một buổi chiều ông Kình ghé ngang hàng của cô lựa lựa mấy bó rau hồi lâu. Cô không nhận ra ông vì bây giờ ông coi có da thịt hơn trước nhưng lại già hẳn đi, và không còn đeo cặp kính Rayban nữa. Đến khi hết khách ông mới khẽ bảo:
-Gớm! Cô không nhận ra tôi à? Kình đây, tôi kiếm mãi mới biết cô bán hàng ở đây, tôi có thể gặp riêng cô để nói một chuyện quan trọng không? Tôi sẽ dàn xếp chỗ gặp, cô nhớ đến nhé.
Buổi chiều hôm đó tại một căn biệt thự, ông Kình đề nghị cô Mai dẫn Hùng con ông đi vượt biên ông sẽ lo mọi chuyện.
Mai dường như không tin vào tai của mình:
-Ông không nói đùa chứ?
Ông Kình nhìn cô cười:
-Tôi nghĩ là cô sẽ nói thế. Lời đề nghị của tôi rất nghiêm túc nói như người Sài Gòn là “một trăm phần dầu” cô ạ. Sau năm năm ở miền Nam tôi thấy chế độ Cộng Sản đã làm băng hoại mọi sự cô ạ. Những năm chiến tranh thì người ta còn có thể biện minh nhưng khi vào miền Nam thì tôi nhận xét thấy giá trị đạo đức nói chung là trong Nam ưu việt hơn ngoài Bắc. Sau năm năm thì tôi thấy con người Cộng Sản đã làm cho miền Nam ngày càng tồi tệ, càng ngày càng giống như miền Bắc. Tôi đã thấy điều đẹp đẽ trong một xã hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi đã mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này. Nếu cô hứa dẫn nó đi, chăm sóc nó đến năm 18 tuổi tôi sẽ lo tất cả mọi chi phí phương tiện ra đi cho cô.
Lý do tôi nhờ đến cô vì thứ nhất tôi biết cô muốn ra đi và thứ hai cô là người rất thật thà, chung thủy. Ngay cả trong người thân tôi cũng không thể thố lộ kế hoạch này hay nhờ ai vì lý do an ninh và tính mạng của tôi, chỉ có cô mới giúp được tôi. Chuyến vượt biên của cô do công an Đà Nẵng tổ chức bến bãi, nên việc ra đi phải nói là rất chu đáo.
Chuyến đi thật suôn sẻ. Tàu vượt biên của Mai sau năm ngày lênh đênh đã cập bến Hương Cảng bình yên vô sự. Tại đây Hùng gặp lại gia đình một người bà con xa ở Hải Phòng đã đến Hương Cảng trước đó một tháng. Hùng muốn nhập chung form định cư với họ. Mai không đồng ý, qua một người trung gian cô gửi thư về Việt Nam hỏi ý kiến ông Kình. Vài tuần sau, Mai được ông cho biết là ông bằng lòng cho Hùng “tách form” với cô, và coi như lời hứa của cô đối với ông đã hoàn thành.
Khi được Cao Ủy phỏng vấn, cô giáo Mai chọn thành phố Sydney xinh đẹp của quốc gia Úc Đại Lợi làm nơi định cư. Còn Hùng thì theo bà con định cư tại Canada. Cô Mai đi học lại lấy bằng kỹ sư điện toán, cô rất nhân hậu nhã nhặn nên được rất nhiều người khác phái theo đuổi, nhưng không có ai có thể thay được hình ảnh của người phi công ngày nào.
Trong những năm gần đây khi các hội thân hữu Không Quân QLVNCH được thành lập tại Úc, người ta thường thấy cô trong những buổi họp mặt. Mai tham gia mọi sinh hoạt, báo chí văn nghệ. Câu hỏi đầu tiên cô hỏi những người lính Không Quân mà cô gặp lần đầu lúc nào cũng là: Có ai biết tin tức gì về anh Nguyễn Bé Tư phi công F-5E biệt phái ở Đà Nẵng hay không? Cô Mai không biết là lần thứ mấy đã hỏi câu hỏi đó, cô hỏi nhưng chính cô rất sợ câu trả lời về số phận của một người mất tích đã hơn hai mươi lăm năm.
Tháng Tư, 1998
Hùng đứa học trò ngày xưa của cô từ Canada qua thăm cô giáo Mai. Hai thầy trò gặp nhau mừng mừng tủi tủi sau mười bảy năm. Hùng bây giờ là một thanh niên tuấn tú lễ phép, rất chững chạc và là một bác sĩ y khoa. Hùng báo cho cô Mai biết là ông Kình đã giải ngũ về hưu, và ông đã tỉnh ngộ hẳn giấc mơ Cộng Sản và sống rất an phận tại Hà Nội.
Trước lúc chia tay, Hùng đưa cho cô Mai một phong thư niêm kín, “Em cũng chẳng rõ có cái gì trong ấy mà bố em rất cảnh giác không dám gửi qua bưu điện, hay gửi qua người quen đi nước ngoài, chỉ khi em về Việt Nam bố mới trao cho em và dặn là phải đưa tận tay cho cô, và cho cô rõ là phải khó khăn lắm mới lấy được tư liệu này… Bố em dặn cô đọc xong đừng phổ biến, không thì rắc rối lắm cô nhé!”
Trong phong thư là bản sao của tờ phúc trình tổn thất của sở tác chiến không quân Quân Đội Nhân Dân. Tờ phúc trình như sau: “Thể theo chỉ thị số… Đại Tướng Văn Tiến Dũng được lệnh từ Trung Ương Binh Chủng Không Quân Nhân Dân phải hạ quyết tâm khẩn trương làm chủ và tạo điều kiện hồi phục sử dụng sân bay Đà Nẵng để thành lập bộ phận trinh sát và phòng thủ mặt Nam đề phòng bọn Mỹ có thể quay trở lại can thiệp. Theo tinh thần trên, vào sáng ngày 30 Tháng Ba, lúc 5 giờ 15 sáng giờ Hà Nội một phi đội tiêm kích cơ hỗn hợp gồm hai máy bay chủng loại Mig21 và một Mig 17. Phi đội mang bí số KK10 được lệnh cất cánh từ Đồng Hới để trinh sát sân bay Đà Nẵng xem xét khả năng bố trí phòng không và máy bay tiềm kích của quân đội ta sau này. Tiểu đoàn trinh sát TS5 báo cáo là căn cứ Đà Nẵng của quân đội Ngụy đã bị bỏ ngỏ hoàn toàn vào lúc 2 giờ sáng 30 Tháng Ba. Khi phi đội KK10 đã băng qua Xepon Lào và bắt đầu tiến vào Đà Nẵng từ hướng Tây Bắc, thì bất ngờ một tiềm kích cơ của Không Quân Ngụy chủng loại F-5E xuất phát từ Đà Nẵng bất thình lình tiến công. Giặc lái Ngụy sau khi dùng hai tên lửa loại AIM-9B bắn hạ hai chiếc Mig-21 của ta, hắn còn ngoan cố đuổi theo dùng súng bắn hạ thêm một máy bay Mig-17 của ta. Các đồng chí lái của quân đội nhân dân đã kiên cường bất khuất chống trả suốt gần 7 phút. Các đồng chí lái, Lai Như Hạch, Hồ Mạc Dịch, Đỗ Mai Quốc đã hy sinh oanh liệt. Còn chiếc tiềm kích cơ địch đã bị tên lửa của ta bắn hạ. Tên giặc lái Ngụy nhảy dù đã bị quân dân ta bắt được. Tên giặc lái ác ôn này tên là Nguyễn Bé Tư, cấp bậc trung úy số quân… Trung Ương đã ra lệnh giải quyết thích đáng tên giặc lái này cương quyết không để những thông tin xấu lọt ra ngoài về sự kiện ba máy bay của không quân nhân dân anh hùng bị một tiềm kích cơ địch bắn hạ trong vòng 7 phút. Bọn địch có thể lợi dụng để nói xấu Không Quân Nhân Dân. Đồng chí Thượng Tá Nguyễn Công Tâm chánh án, kiêm công tố viên tòa án nhân dân đã tuyên án tử hình tên giặc lái Nguyễn Bé Tư. Tên Trung Úy Ngụy Nguyễn Bé Tư đã đền tội vào ngày 5 Tháng Tư, 1975.”
Trên góc trái của tờ phúc trình có hàng chữ TUYỆT MẬT – không bao giờ được công bố.
Mai bâng khuâng, nhưng cô không thấy buồn, cô cảm thấy rất hãnh diện và thanh thản như người lữ hành đã về lại nhà mình. Từ lâu cô đã chấp nhận là con người mang cái tên Nguyễn Bé Tư đã không còn có mặt trên cõi đời này nữa, cô linh cảm là anh đã đền nợ nước một cách anh dũng, điều cô linh cảm bây giờ đã thành sự thật trên giấy trắng mực đen. Cô kiêu hãnh về anh Nguyễn Bé Tư, anh đã chết hào hùng như anh đã sống. Cô thương mến người phi công ấy chẳng phải vì anh hào hoa phong nhã như người ta thường nói về những người lính Không Quân VNCH. Cô thương anh vì anh mộc mạc, thứ mộc mạc của loại đá bọc kim cương.
Anh Nguyễn Bé Tư “Ace” đầu tiên của Không Quân QLVNCH một mình hạ ba phi cơ địch trong vòng 7 phút, thế mà cuộc đời lại không có quyền biết đến anh. Bọn Cộng Sản run sợ và kính nể khi nhắc đến cái tên hiền hòa của anh, chúng sợ đến nỗi phải giết anh.
Đêm nay Mai thấy lòng mình thật ấm áp dường như có sự hiện diện của anh Nguyễn Bé Tư đâu đây, dường như anh đang nói với cô đừng buồn đừng giận anh. Xoay xoay chiếc nhẫn Không Quân quanh ngón tay, Mai khe khẽ gật đầu không nói nên lời như đêm cuối cùng năm xưa còn ngồi bên anh. Bên ngọn đèn Mai vuốt lại mái tóc đã điểm sương, thấy mình lại là cô giáo trẻ năm nào đang choàng hoa cho người phi công khu trục anh hùng của QLVNCH.
Thần Long
|
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to tbbt For This Useful Post:
|
|
|
|
|