Theo như từ ừ Cô Gái Việt Nam Không Biết Tiếng Anh vậy mà chỉ trong 10 năm, bà đă tốt nghiệp đại học, cao học rồi lấy bằng Tiến sĩ – điều mà ngay cả những sinh viên bản xứ cũng khó làm được, khi ngày mới đặt chân tới Mỹ, GS-TS. Nguyễn Thục Quyên mới chỉ biết vài câu tiếng Anh Đến Nữ Khoa Học Gia Lọt Top 1% Thế Giới Tại Mỹ Quốc.
Câu chuyện học tiếng Anh của Giáo sư đă trở thành giai thoại với nhiều du học sinh.
Tuổi thơ theo mẹ đi khắp nơi để kiếm sống, sang Mỹ th́ bị bạn bè chê cười v́ không biết tiếng Anh, nhưng Nguyễn Thục Quyên đă vượt qua tất cả và trở thành một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới.
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên sinh ra ở Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) trong một gia đ́nh gồm 5 anh chị em.
Sau năm 1975, cha đi cải tạo, mẹ chị – một cô giáo dạy toán cấp 2, dẫn dắt đàn con đến các vùng kinh tế mới như Phước Lâm, Long Điền, Đất Đỏ, Phước Tỉnh và Vũng Tàu để t́m kế sinh nhai.
Lúc 5-6 tuổi, cô bé Quyên phải phụ giúp mẹ dọn dẹp nhà cửa, kiếm củi nấu cơm, đào khoai, câu cá, gánh nước… Cuộc sống cơm áo, gạo tiền cứ đeo bám cho đến năm 1986 khi gia đ́nh mở tiệm phở ở Bến Đá – Vũng Tàu, Quyên mới được đi học ở trường Trung học Trần Nguyên Hăn.
Khi c̣n ở Việt Nam, GS-TS. Nguyễn Thục Quyên không được học tiếng Anh, cho đến tháng 7/1991, bà qua Mỹ theo Chương tŕnh Tái Định cư Nhân đạo cùng với bố, mẹ, anh trai và ba em gái. Trước khi đi, các anh em trong gia đ́nh chỉ được học một khóa tiếng Anh cấp tốc vài tháng. Cả gia đ́nh biết rất ít tiếng Anh, nên thời gian đầu ở Mỹ rất cực.
Hai năm đầu, các anh chị em của chị Quyên cứ đ̣i về Việt Nam v́ không biết tiếng Anh và phong tục tập quán Mỹ. Nhưng chị thấy ổn v́ được làm điều ḿnh thích mà không sợ người khác dị nghị.
“Khi c̣n ở Việt Nam, gia đ́nh đă vất vả rồi, nên khi sang Mỹ tôi phải cố gắng hơn rất nhiều để có được cuộc sống tốt hơn”, chị Quyên chia sẻ.
Để tự khẳng định bản thân nơi đất khách quê người, chị đă quyết tâm học tiếng Anh thật nhanh bằng cách đăng kư ở ba trường trung học tại ba thành phố. Ở Mỹ, tiếng Anh được học miễn phí.
Vất vả với bao tủi nhục khi bị nhiều người coi thường càng khiến chị có thêm động lực vươn lên. “Có giáo viên chế nhạo tôi trước cả lớp v́ khả năng nói tiếng Anh kém. Một ông người Mỹ c̣n nói thẳng với tôi hăy về nước của cô đi”, chị nhớ lại và cho biết ở Mỹ vẫn c̣n một số người phân biệt kỳ thị như vậy. “Thậm chí có đồng nghiệp lúc ở trường không bao giờ nói chuyện với tôi mặc dù tôi đă cố gắng để nói chuyện với anh ta vài lần”, nữ giáo sư nói.
Cứ sáng, chiều, tối, mỗi buổi học ở một trường. Mỗi ngày bà đều xem tin tức đài truyền h́nh Mỹ để tập nghe.
Tháng 9/1993, bà xin học tại Santa Monica College và tham gia bốn lớp tiếng Anh dành cho người nước ngoài. Ngoài ra, bà c̣n tới những trung tâm dạy kèm sinh viên miễn phí trong trường để học thêm.
Sau một năm học ngày học đêm, cuối cùng giáo sư cũng thi được vào học chính như những sinh viên khác…
Tháng 9/1993, người cô họ cho chị ở cùng nhà, nhưng chị phải dọn dẹp, nấu nướng, đi chợ và chạy việc vặt cho cô. Thời gian này, chị xin học ở Đại học Santa Monica nhưng không được nhận v́ tiếng Anh kém.
Chị đă năn nỉ nhà trường cho học thử một kỳ và hứa nếu không học được sẽ trở về trường trung học để học thêm tiếng Anh.
Ban ngày đi học, ban đêm chị t́m lớp học thêm ở trung tâm dạy tiếng Anh miễn phí. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, cuối cùng chị cũng được nhận vào học.
Thấy bố mẹ vất vả làm trong nhà hàng và ở hăng may, chị không cho phép bản thân thất bại mà cố gắng gấp đôi, gấp ba so với những bạn cùng trang lứa. Để có tiền học, chị xin làm thêm trong thư viện trường từ 17h đến 22h mỗi ngày, nhưng vẫn không đủ nên phải vay thêm tiền của Chính phủ.
Mùa thu năm 1995, Giáo sư chuyển từ Đại học Cộng đồng Santa Monica qua Đại học tiểu bang thành phố Los Angeles (UCLA).
Bà xin làm ở một pḥng thí nghiệm của ngành sinh vật, nhưng chỉ được rửa dụng cụ thí nghiệm. Thích thú với công việc nghiên cứu, bà xin được làm thí nghiệm nhưng không được nhận v́ lư do “nghiên cứu không dành cho tất cả mọi người, bạn nên tập trung vào việc học tiếng Anh”.
Trải nghiệm bị coi thường này không khiến Giáo sư nản chí, ngược lại, nó trở thành động lực để bà cố gắng nhiều hơn.
Sau khi tốt nghiệp đại học tháng 12/1997, GS. Quyên nộp đơn xin học thạc sĩ.
Sau một năm, đến tháng 12/1998, bà đă lấy bằng cao học lư – hóa và nhận được học bổng tiến sĩ cùng ngành này.
Trong thời gian học tiến sĩ, bà làm trong pḥng thí nghiệm 6 ngày/tuần, mỗi ngày làm 16 tiếng cho tới 2 giờ sáng mới về nhà.
Sinh viên Mỹ đều rất kinh ngạc trước sự nỗ lực của bà. Xúc động trước đam mê của cô học tṛ gốc Việt, thầy hướng dẫn – Benjamin Schwartz – đă tạo nhiều cơ hội để bà tham dự các hội thảo khoa học trong và ngoài nước. Năm cuối của chương tŕnh tiến sĩ, bà là một trong bảy sinh viên nhận được học bổng toàn trường, khoảng 30.000 USD.
Tháng 6/2001, bà được nhận bằng Tiến sĩ, trước cả những sinh viên trong pḥng thí nghiệm sinh vật mà trước đây bà từng phải rửa dụng cụ thí nghiệm cho họ. Khi biết bà được giải thưởng xuất sắc của phân ngành lư – hóa, họ đă rất mắc cỡ v́ họ đều phải mất 8 năm mới lấy được bằng tiến sĩ, trong khi bà chỉ làm điều đó trong ba năm.
Trong tám năm họ viết được một hoặc hai bài báo, c̣n bà có tới 12 bài báo khoa học và thuyết tŕnh 19 lần ở các đại học trong nước và quốc tế.
Theo báo Người đô thị, khi được hỏi v́ sao bà có thể đạt được kỳ tích này, GS-TS. Nguyễn Thục Quyên trả lời:
“V́ khi ở Việt Nam, gia đ́nh tôi rất nghèo, lớn lên không có nhà ở và không có cơm ăn, thường hay bị bạn bè chê cười. Qua Mỹ cũng bị nhiều người Mỹ lẫn Việt Nam coi thường, thành thử tôi phải cố gắng để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi đă khóc rất nhiều lần ở Việt Nam, lẫn ở Mỹ”.
Cuối năm 2018, Clarivate Analytics công bố danh sách hơn 4.000 nhà khoa học toàn cầu vào top 1% những nhà khoa học có nhiều trích dẫn nhất thế giới (highly cited researchers – HCR), GS-TS.
Nguyễn Thục Quyên là nhà khoa học nữ hiếm hoi trên thế giới bốn năm liền vào top 1% này.
Trước khi lọt vào danh sách này của Thomson Reuters và Clarivate Analytics, giáo sư Nguyễn Thục Quyên vốn đă được nhiều đồng nghiệp quốc tế biết đến thông qua những công tŕnh được xuất bản trên các tạp chí quốc tế chuyên ngành như Nature Materials, Science, Advanced Materials, Advanced Energy Materials, Advanced Functional Materials, Physical Chemistry Chemical Physics, Chemistry of Materials, Applied Physics Letters… do chị và cộng sự thực hiện. Các công tŕnh này chủ yếu tập trung vào việc làm rơ mối liên hệ giữa cấu trúc phân tử, cách thức làm thiết bị và hiệu suất hoạt động của các thiết bị điện tử hữu cơ (organic electronics) – gồm pin năng lượng mặt trời hữu cơ (organic solar cells), transistor hiệu ứng trường hữu cơ (organic field-effect transistor), cảm biến quang điện (photodetectors), và đèn LED (organic light-emitting diodes), đặc biệt là các đặc tính của vật liệu và thiết bị ở kích cỡ nano.
Bên cạnh đó, chị cũng nghiên cứu về tính chất điện tử của polyme liên hợp có chứa ion (conjugated polyelectrolytes) và vật liệu sinh học (biomaterials), cơ sở để tạo ra những vật liệu hữu cơ tiên tiến trong các thiết bị điện tử sinh học (bioelectronics), có khả năng ứng dụng trong lĩnh vực năng lượng và môi trường, ví dụ như pin nhiên liệu sinh học (microbial fuel cells) và lĩnh vực y học như các thiết bị y tế sinh học hữu cơ (organic biomedical devices).
“Hăy làm những ǵ bạn yêu thích và yêu những ǵ bạn làm. Làm việc chăm chỉ và tận hưởng cuộc sống. Sống giúp đỡ những người xung quanh và làm việc hữu ích cho xă hội. Hăy cố gắng và đừng từ bỏ dễ dàng. Thiết lập mục tiêu cho bản thân và theo đuổi nó. Đừng để mọi người ngăn cản bạn đạt được mục tiêu của ḿnh. Khi người ta đạp tôi xuống, tôi càng cố gắng vươn lên. Tôi sử dụng những điều tiêu cực như động lực để cố gắng nhiều hơn. Tôi cho mọi người thấy những ǵ tôi có thể làm… ” – (GS-TS. Nguyễn Thục Quyên)