Chuyện ca nhạc trước 75
Có vài độc giả thắc mắc nói rằng người Ấn Ðộ ở nước ta khá đông, qua nhiều thế hệ, họ có cả chùa Chà ngay tại Sài Gòn gần chợ Bến Thành, có nhà hàng Chà ở góc đường Nguyễn Trãi, Trần Bình Trọng, luôn có thực khách là người Việt đến ăn cơm nị. Thế nhưng, không hiểu sao người ta lại không thấy có “Ðoàn hát Ấn Ðộ” giới thiệu về văn hóa của một quốc gia đông dân đứng thứ nhì trên thế giới. Chớ như người Hoa ở Việt Nam, họ có gánh hát Tàu ở Chợ Lớn, có ban nhạc Triều Châu, và khi xưa họ còn có những gánh hát Sơn Ðông đi hát dạo cùng khắp các chợ. Do đó ít nhiều gì bà con ta cũng hiểu sơ qua về văn hóa đặc thù của dân tộc Trung Hoa. Vậy trong bài nầy, trước khi đề cập đến nghệ thuật sân khấu dân gian Ấn Ðộ, chúng tôi xin ngược thời gian trở về những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Lúc bấy giờ phim Ấn Ðộ tràn ngập các rạp chiếu bóng ở Sài Gòn, ở các tỉnh, đi đâu cũng thấy hình ảnh tài tử Ấn Ðộ vẽ trước rạp chiếu bóng.

Thập niên 1960 người ta thấy các rạp chiếu bóng ở Sài Gòn đầy dẫy những tấm bảng quảng cáo phim Ấn Ðộ như bức hình trên đây. (Hình: Bộ sưu tập của Ngành Mai)
Các phim Ấn Ðộ thời ấy thường có nội dung, tình tiết gần gũi với văn hóa Á Ðông, và diễn tiến câu chuyện thường là kẻ ác gặp dữ, kẻ hiền gặp lành. Trang phục và nhạc điệu phim nào cũng na ná như nhau, và đặc biệt là thường hay có rắn xuất hiện, khiến những khán giả vốn sợ rắn đã sợ hãi hồi hộp, có người xỉu luôn tại rạp. Các “tài tử rắn” lên màn bạc đem lại sự mới lạ, nhưng cũng đồng thời làm mất đi số khán giả, phần nhiều là phái nữ họ đã bái bai phim Ấn Ðộ do vấn đề rắn.
Thời đó phim Ấn Ðộ rất ăn khách nhờ nói tiếng Việt, do ban Năm Châu chuyển âm. Có những phim tài tử hát nhạc Ấn, lại được chuyển sang ca vọng cổ, các phim này khán giả phải sắp hàng mua vé. Chúng tôi còn nhớ tại rạp Tân Ðô ở Tân Ðịnh, cuốn phim “Gió Bụi Kinh Thành” có đoạn tài tử Ganesan xuống vọng cổ: “Thật khổ thay trong cái cảnh gió bụi kinh... thành”. Khán giả vỗ tay vang dậy, không phải tán thưởng cái anh chàng tài tử Ấn này, mà là khen tặng làn hơi ca ngọt ngào mùi rệu của đệ nhứt danh ca Út Trà Ôn.
Tung hoành được vài năm thì phim Ấn Ðộ bị phim chưởng Tàu đánh tới tấp, Anh Ba tung “chưởng” mạnh quá khiến phim Anh Bảy chịu không nổi phải bỏ chạy hết rạp này đến rạp khác, thu hẹp dần, chỉ còn chiếu mỗi một rạp Long Phụng ở đường Gia Long. Rồi thì rạp cuối cùng Long Phụng cũng bị Anh Ba gỡ hình tài tử Ấn xuống và treo lên những Vương Vũ, Khương Ðại Vệ, Trịnh Phối Phối, Trần Tinh... Coi như phim Ấn Ðộ đã cáo chung, mất hết khán giả, mất luôn thị trường.
Ðến khoảng 1971 thì trên truyền hình có chiếu Lễ vũ Ấn Ðộ (tế nữ thần). Những vũ khúc trình bày đều là vũ dân tộc Ấn dùng động tác hai tay diễn tả hình ảnh và vận dụng hết mặt diễn tả nội tâm. Ngoài các điệu thôn vũ, đáng chú ý nhứt là lễ vũ. Ðây là điệu vũ diễn tả lễ tế nữ thần Cali hằng năm theo cổ tục của Ấn Ðộ. Một người được tuyển chọn để tế sống cho nữ thần được hài lòng. Lúc đầu nạn nhân tỏ ra sợ hãi, nhưng rồi lần lần họ chấp nhận xem như một danh dự là được hy sinh cho nữ thần. Ở điệu vũ nầy vũ công cặp mắt há trắng như một thần linh, và vì lễ tế thần thường được cử hành dưới ánh sáng ngọn đuốc và nến, nên những động tác lúc vũ rất vất vả như tưới sáp nóng lên mình, lăn lộn, v.v...
Ðó là màn ảnh rộng và màn ảnh nhỏ truyền hình có lịch sử như thế, nhưng về nghệ thuật sân khấu thì hầu như chẳng thấy gánh hát Ấn Ðộ nào được thành lập, hoặc từ bên ấy sang Việt Nam hát. Có lần trên sân khấu Dạ Lý Hương dựng lên vở tuồng “Tình Anh Bảy Chà” của soạn giả Xuân Phát, kép Thành Ðược đóng vai Anh Bảy rất được hoan nghinh. Nhưng khổ nỗi anh hề Xuân Phát soạn tuồng lại không nghiên cứu kỹ lưỡng văn hóa và tôn giáo Ấn Ðộ, đã cho kép Thành Ðược đội chiếc nón mà Anh Bảy thường đội, nhưng chiếc nón ấy lại liên quan đến tôn giáo nào đó, cũng như người Ấn chuyên nghề cho vay tiền góp lại không phải trang phục như nhân vật mà Xuân Phát dựng lên. Thành thử ra soạn giả Xuân Phát bị Hội Ấn Kiều lên tiếng phản đối, cho rằng bị chế diễu. Lúc bấy giờ do vấn đề ngoại giao, không muốn mích lòng nước bạn, nên Bộ Thông Tin đã không cho diễn tuồng “Tình Anh Bảy Chà” trên sân khấu cũng như trên truyền hình nữa. Thế nhưng, tại sao sau 1975 cả soạn giả Xuân Phát và Thành Ðược đều có mặt ở hải ngoại, mà khán giả không thấy vở tuồng “Tình Anh Bảy Chà” từng ăn khách kia được dựng trở lại. Trên đây là những vấn đề có liên quan đến người Ấn Ðộ hiện diện ở nước ta, và hôm này với bài viết này, chúng ta tìm hiểu thêm một bước nữa, đó là nghệ thuật sân khấu dân gian Ấn Ðộ.
Nếu ngày xưa các diễn viên sân khấu Ấn Ðộ bị coi là thuộc về đẳng cấp thấp và bị khinh bạc (giống như quan niệm “xướng ca vô loại” ở nước ta ngày trước) thì nay lại hoàn toàn khác, họ được mọi người ưu ái, nhất là đối với những diễn viên có tài, bởi vì chính họ là những người làm vẻ vang cho tổ quốc trước đông đảo khán giả sân khấu thế giới. Nhưng cũng vì sự ưu ái này nên đã có những sự cạnh tranh gay gắt về vấn đề nghệ thuật trình diễn giữa các đoàn, nhờ vậy mà sau cùng, chính khán giả là những người được lợi nhất.
Ðối với các nghệ sĩ tuồng dân gian Ấn Ðộ, thì không có việc “ế” khán giả, mà chỉ có vấn đề làm sao phải luôn nâng cao trình độ diễn xuất, bởi vì tuồng tích hay không hẳn là đã đủ, mà còn cần phải diễn hay nữa. Ðiều này đòi hỏi các diễn viên phải “đổ mồ hôi sót con mắt”. Về trang phục trên sân khấu thì đào kép ăn mặc kín đáo giống như trong phim Ấn Ðộ mà chúng ta thường thấy.
Các đoàn hát dân gian chỉ trình diễn bốn hoặc năm lần trong mỗi tháng, là vì họ dành khá nhiều thời giờ vào việc tập luyện hơn là dành thời gian vào việc “chạy sô”. Tuy số lần trình diễn trong tháng có giới hạn, nhưng lại là những lần diễn đầy khán giả, những loại tuồng mà có nội dung chế giễu “quan chức bàn giấy”, cho vay nặng lãi, địa chủ, v.v... là những loại tuồng luôn được khán giả ưa thích.
Tuy nhiên, không vì các buổi hát luôn có khán giả đến xem mà các đoàn sân khấu dân gian Ấn đã trở nên giàu có. Cũng giống như các gánh hát cải lương ở nước ta, ít có đoàn nghệ thuật dân gian nào chịu đóng trụ lâu tại một nơi, cho dù đó là tại thủ đô Tân Ðề Li sầm uất đầy đủ tiện nghi, hay tại vùng Rishi Rish hẻo lánh sát chân dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Hầu như các đoàn nghệ thuật dân gian đều thích được đi khắp nơi trong đất nước Ấn Ðộ hơn là diễn mãi ở một chỗ, và mỗi lần đi đây đi đó như vậy là thu chi đều gần như ngang nhau.
Từ thủ đô Tân Ðề Li di chuyển đến thành phố Patna nằm trên bờ sông Hằng cách cả ngàn cây số, đoàn nghệ thuật dân gian Gulab mở cuộc lưu diễn dừng lại hát nhiều chỗ, và khi đến đây họ tạm nghỉ để đi chơi đây đó thăm Patna, và đến khi gần cạn tiền, đoàn mới tiếp tục diễn lại để... lấy tiền mua vé xe lửa về Tân Ðề Li! Như vậy có nghĩa là sau cuộc lưu diễn túi không lại hoàn túi không, chẳng khác gì đào kép cải lương xứ mình vừa nghỉ hát là đi vay nợ.
Ngành Mai/nguoi-viet