Gates tuyên bố rằng “Các tàu chiến ven biển” của Mỹ sẽ được triển khai đến Singapore và cam kết ủng hộ tăng cường xây dựng năng lực biển cho các quốc gia trong khu vực này. Trả lời một câu hỏi cụ thể liên quan đến những hành động gần đây của Trung Quốc đă dẫn đến các phản đối từ Hà Nội và Manila, Gates đă nhấn mạnh sự cần thiết phải t́m ra một cơ chế để giải quyết tranh chấp, điều “cần phải được giải quyết một cách hoà b́nh và trong khuôn khổ luật pháp quốc tế.”11
Kể từ đối thoại Shangri-la, Clinton đă tán thành thoả thuận giữa Trung Quốc và ASEAN về thực hiện bản hướng dẫn thực hiện DOC, văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các biện pháp xây dựng ḷng tin ở Biển Đông. Tại Diễn đàn Khu vực ASEAN vào tháng 7, Bà đă “kêu gọi tất cả các bên làm rơ yêu sách của ḿnh ở Biển Đông”, đồng thời tái khẳng định quan điểm của Mỹ rằng “các yêu sách đối với các vùng biển ở Biển Đông chỉ nên dựa vào các yêu sách hợp pháp đối với các cấu tạo địa chất.”12 Bước tiếp theo ASEAN và Trung Quốc cần phải đàm phán xây dựng một Bộ Quy tắc ràng buộc điều chỉnh cách ứng xử ở Biển Đông. Đến thời điểm này, Trung Quốc đă sử dụng chiến thuật tŕ hoăn bằng cách thông báo với ASEAN rằng Trung Quốc sẽ làm việc về Bộ Quy tắc “vào một thời điểm thích hợp”.13
Khác nhau về lợi ích nhưng chung nhau về lập trường
Đối với Mỹ, Biển Đông là một thách thức an ninh và ngoại giao phức tạp. Các thành phần khác nhau của chính phủ và cộng đồng thương mại Mỹ có lợi ích khác nhau, nhưng không có bằng chứng cho thấy về sự đồng ḷng phản đối chính sách hiện thời của Mỹ. Những bất đồng về ưu tiên chính sách tương đối đối với Biển Đong trong số một loạt các vấn đề trong quan hệ Mỹ – Trung dường như nổi lên tranh luận về việc liệu Trung Quốc có xem Biển Đông là “lợi ích cốt lơi” không.
Theo như báo chí của Mỹ và Nhật Bản, vào tháng 3/2010, các quan chức Trung Quốc đă phát biểu với các quan chức cấp cao Mỹ rằng Trung Quốc đă nâng vấn đề Biển Đông lên thành một “lợi ích cốt lơi” về chủ quyền và sẽ không chấp nhận các can thiệp từ bên ngoài. Theo nguồn tin này, “Trung Quốc đă phát biểu chính sách mới này với Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ James Steinberg và Jeffrey Bader, giám đốc cao cấp phụ trách các vấn đề Châu Á của Hội đồng An Ninh Quốc gia đang thăm Trung Quốc vào đầu tháng 3.” Hai quan chức Mỹ đă có cuộc gặp với Uỷ viên quốc vụ Đới Bỉnh Quốc, Ngoại trưởng Dương Khiết Tŕ và Thứ trưởng Thôi Thiên Khải ở Bắc Kinh, và ông Đới được cho là đă tiếp tục nhắc lại chính sách này cho phía Mỹ.”14
V́ thiếu một tuyên bố chính thức và công khai từ phía Trung Quốc khẳng định Trung Quốc đă nâng vấn đề Biển Đông thành “lợi ích cốt lơi” ngang hàng với Đài Loan và Tây Tạng, rất nhiều chuyên gia Mỹ bắt đầu nghi ngờ về việc xác định được cho là của Trung Quốc về Biển Đông như “lợi ích cốt lơi”. Một vài quan chức và học giả Trung Quốc sau đó đă giải thích rằng lập trường của Trung Quốc đă bị hiểu nhầm và t́m cách phủ nhận lập trường của Trung Quốc liệu Biển Đông có cấu thành “lợi ích cốt lơi” hay không.
Khi tranh luận này trong nội bộ các cơ quan hoạch định chính sách của Mỹ lắng xuống, một điều trở nên rơ ràng rằng ưu tiên chính sách dành cho Biển Đông trong một loạt các vấn đề trong quan hệ Trung – Mỹ sẽ thay đổi phụ thuộc vào các xem xét chiến lược. Tuy nhiên không có bằng chứng tin cậy về việc vận động trong chính phủ Mỹ nhằm nỗ lực coi nhẹ vấn đề Biển Đông. Hơn nữa, sự ủng hộ cho chính sách của Mỹ dường như rất chắc chắn giữa các đảng ở trong Thượng viện và Hạ viện Mỹ.
Các quan chức Mỹ khác tập trung vào Biển Đông như là một nhân tố trong quan hệ của Mỹ với các nước ASEAN, và nhấn mạnh giá trị của việc được các đồng minh và bạn bè của Mỹ ở Đông Nam Á xem là đáng tin cậy và sẵn sàng hỗ trợ. Quyết tâm của Chính quyền Obama nhằm xây dựng lại quan hệ với Đông Nam Á, mối quan hệ đă bị hao ṃn trong suốt thời kỳ chính quyền Bush đă làm gia tăng tầm quan trọng tương đối của vấn đề Biển Đông và lợi ích của Mỹ trong việc ủng hộ các đồng minh và đối tác ở Đông Nam Á.
Hơn nữa, “bản đồ lư tưởng” mới của Mỹ về một Châu Á – Thái B́nh Dương trải dài từ Ấn Độ đến các bờ biển Thái B́nh Dương của Mỹ (cũng thường gọi là khu vực Ấn-Thái B́nh Dương) đă trao cho Biển Đông vai tṛ là bản lề chủ yếu trong toàn bộ cấu trúc an ninh của Mỹ ở châu Á khi các phân biệt giữa Đông và Nam Á được xem như là không liên quan nhiều. Một nhà b́nh luận đă gọi Biển Đông là “trung tâm của hàng hải Âu-Á”.15
Biển Đông liên tục thu hút sự chú ư của cộng đồng quan ngại về sự thống nhất trong lập trường của Mỹ về các vấn đề pháp lư quốc tế. Cộng đồng pháp lư liên quan ủng hộ chính sách của Mỹ, và trên thực tế một bộ phận lớn lập luận ủng hộ việc tái khẳng định định kỳ về lập trường của Mỹ đối với các khảo sát quân sự trong vùng Đặc quyền Kinh tế của Trung Quốc.
Các lợi ích thương mại của Mỹ ủng hộ việc các công ty năng lượng Mỹ nỗ lực cạnh tranh trên cơ sở công bằng để thăm ḍ và khai thác năng lượng và các nguồn tài nguyên khoáng sản khác ở Biển Đông. Việc quay trở lại với lợi ích của Mỹ ở Biển Đông bắt đầu với nỗ lực của các cơ quan của chính phủ Trung Quốc gây áp lực đối với các công ty năng lượng đang hoạt động ở cả Trung Quốc và Biển Đông. Một quan chức cấp cao gần đây đă lưu ư rằng, “các nước thực sự lớn sẽ làm bất kỳ điều ǵ họ muốn” và các nước nhỏ hơn không có gan để tác động lên chính sách của Mỹ. Không có cuộc vận động năng lượng nào ở Mỹ kêu gọi một chính sách ủng hộ các quan điểm của Trung Quốc về các vấn đề Biển Đông.
Tóm lại, ư kiến của các nhà hoạch định chính sách là thống nhất. Chính sách của Mỹ về các vấn đề Biển Đông không hề gây tranh căi ở Mỹ.
Các công cụ chính sách
Công cụ đầu tiên của chính sách của Mỹ ở Biển Đông là ngoại giao. Ngoại trưởng Clinton đă đi đầu trong nỗ lực định h́nh và điều phối chính sách Mỹ. Tập trung được giành cho việc định hướng sự quan ngại quốc tế rộng răi đối với các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông nhằm h́nh thành liên minh các quốc gia có chung quan điểm. Một mục tiêu là nhằm thuyết phục Bắc Kinh, v́ lợi ích của chính Trung Quốc, xem xét lại các chiến thuật và mục tiêu của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ cũng có các công cụ khác để hỗ trợ chính sách của Mỹ.
Mỹ đă phối hợp đặc biệt mật thiết với Philippines và Việt Nam.
Hiệp ước Tương trợ Quốc pḥng Mỹ – Philippines 1951 quy định Mỹ có nghĩa vụ hành động để đáp ứng các mối đe doạ chung trong việc tấn công vào lănh thổ của Philippines hay “quân đội, tàu hay máy bay công cộng của Philippines ở Thái B́nh Dương”. Tính có thể áp dụng của hiệp ước này trong trường hợp có xung đột vũ trang liên quan đến Philippines ở Biển Đông là không rơ ràng. Theo như hiệp ước này, các bên buộc phải tham vấn trong trường hợp có tấn công vào lănh thổ của Philippines vào thời điểm năm 1951 vốn không hề bao gồm các yêu sách của Manila ở Biển Đông mà mới chỉ được phát triển vài năm sau đó. Một chuyên gia tin rằng “liên quan cụ thể đến Quân đội của Philippines (AFP), hiệp ước quy định rơ ràng. Trong suốt thời gian xem xét Hiệp định về Thăm viếng Quân sự 1999 (VFA), Đại sứ Thomas Hubbard chính thức phát biểu với Philippines rằng Hiệp ước có thể áp dụng đối với bất kỳ ấn công nào đối với Quân đội Philippines, nhắc lại đảm bảo mà Ngoại trưởng Cyrus Vance đưa ra năm 1977”.16
Mỹ sẽ không cam kết đối với những hành động cụ thể dựa trên những t́nh huống giả định, mặc dù rất nhiều quốc gia Đông Nam Á sẽ mong đợi phản ứng của Mỹ đối với một tấn công rơ ràng vào AFP. Mỹ đă phản ứng đối với quyết tâm rơ ràng của Chính phủ Philippines nhằm “bảo vệ” đất nước dưới chính quyền Aquino và cam kết hỗ trợ và cung cấp ít nhất một tàu chiến được tân trang lại nhằm tăng khả năng của Philippines để quản lư và bảo vệ các vùng biển yêu sách của ḿnh. Hơn nữa, hợp tác Mỹ – Phi để chống khủng bố ở phía Nam Philippines đă thúc đẩy một sự liên kết mật thiết hơn giữa quân đội Mỹ và một phần AFP. Mối quan hệ này có thể được xem là một mô h́nh cải thiện sức mạnh của hải quân Philippine. Tập trận chung và các chuyến thăm cập cảng cũng có thể được điều chỉnh để nhấn mạnh các cam kết của Mỹ. Tuy nhiên, chính sách của Mỹ phải tiếp tục mang cân bằng và mơ hồ, bởi v́ Mỹ không ủng hộ yêu sách của bên nào ở Biển Đông và bởi v́ sự nhạy cảm của Philippine về sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Philippines.
Mặc dù không phải là một đồng minh hiệp ước, Mỹ cũng đang trong quá tŕnh xây dựng một mối quan hệ quân sự gần gũi hơn nữa với quân đội Việt Nam, cụ thể là hải quân nước này. Mỹ đang chuẩn bị để tiến tới một mức độ mà Việt Nam cảm thấy thoải mái, đồng thời có tính đến tất cả các vấn đề khác trong quan hệ Mỹ – Việt.
Đối với cả khu vực nói chung, Mỹ có một vài lựa chọn. Mỹ có thể xây dựng một chương tŕnh xây dựng năng lực vốn đă rất phát triển và tập trận với một số nước ASEAN nhất định, trong đó nhiều nước đă cho thấy nguồn ngân sách quốc pḥng tăng nhanh trong một vài năm qua. Mỹ cũng có thể chia sẻ các thông tin bổ sung nhằm tăng cường nhận thức về các vùng biển giữa các quốc gia ASEAN.
Khi nhận thức, chính quyền Obama đă nhận ra rằng vai tṛ quân sự của Mỹ ở Châu Á là “mất cân đối”. Mỹ sau đó đă tiến đến mục tiêu xây dựng các lực lượng phân bổ đều về mặt địa lư và bền vững về mặt chính trị. Điều đó nói lên rằng vai tṛ quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á và các nước lân cận không chỉ giới hạn bởi các quan ngại về Biển Đông.
Tuy nhiên, Mỹ có thể tăng cường sự hiện diện ở Biển Đông. Mỹ cũng có thể công khai các tuyến đường truyền thống và liên tục của Hải quân Hoa Kỳ ở Biển Đông và các yếu tố khác liên quan đến sự hiện diện của Mỹ. Như đă lưu ư ở trên, hai tàu chiến ven biển của Mỹ sẽ đến thăm Singapore. Thêm vào đó, các cuộc hội đàm cũng đang được triển khai để xây dựng căn cứ biển của Mỹ ở Bắc Australia, với khả năng triển khai một vài lực lượng này đến giúp các nước Đông Nam Á nhất định tăng cường sức mạnh của các nước này thông qua các cuộc tập trận và huấn luyện chung.
Viễn cảnh
Việc quay trở lại Châu Á của Mỹ là không thể tránh khỏi, mặc dù có lẽ sẽ không được suôn sẻ như dự đoán của Ngoại trưởng Clinton. Tuy nhiên, thời đại các can thiệp quân sự tốn kém của Mỹ nhằm theo đuổi các lực lượng khủng bố cuối cùng đă kết thúc. Đă có ánh sáng le lói ở cuối đường hầm.
Khi Mỹ chuyển sang tập trung vào không gian địa lư giữa Ấn Độ và Nhật Bản, hay vùng Châu Á – Thái B́nh Dương mới được định h́nh, Đông Nam Á và Biển Đông có lẽ không trở thành “trung tâm của toàn cầu” (“cockpit of the globe”) nhưng khu vực này sẽ lại nhận được ưu tiên lớn hơn từ trong chính sách của Mỹ.
Biển Đông có lẽ không phải là “phép thử quỳ tím” về các ư đồ của Trung Quốc hay sự nhất quán của Mỹ ở Châu Á. Tuy nhiên, đây là một vấn đề tốt cho Mỹ. Việc Mỹ ủng hộ tự do hàng hải, và hoà b́nh giải quyết các tranh chấp đă làm rơ các yêu sách bành trướng đáng xấu hổ và các chiến thuật cưỡng ép của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời vấn đề này sẽ giúp tăng cường các mối quan hệ đồng minh và đối tác của Mỹ với các quốc gia khác ở châu Á.
Hơn nữa, mô h́nh hiện thời của các sự cố thỉnh thoảng xảy ra ở Biển Đông có vẻ như vẫn có khả năng tiếp tục. Chừng nào các cuộc va chạm trên biển này không leo thang thành các xung đột nghiêm trọng, cái giá đối với Mỹ vẫn rất thấp. Không hề có phản đối nội bộ nào đối với chính sách hiện thời của Mỹ.
V́ những lư do này, Biển Đông tiếp tục là một vấn đề quan trọng. Chỉ có thoả thuận giữa ASEAN và Trung Quốc về một Bộ Quy tắc Ứng xử có thể thực thi được hoặc một sự điều chỉnh căn bản đối với yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc mới có thể đưa vấn đề Biển Đông vào cuối bản danh sách các vấn đề quan tâm của các nhà hoạch định chính sách Mỹ.
Nếu Trung Quốc kiên quyết đi theo con đường của “chủ nghĩa đế quốc vụ lợi” (“incremental imperialism”) trên các vùng biển, Biển Đông có khả năng cao vẫn trở thành vấn đề quan trọng trong chương tŕnh nghị sự của Mỹ ở Châu Á.
CHÚ THÍCH:
1. Clinton, Hilary, Foreign Policy, Tháng 11/2011.
http://www.foreignpolicy.com/article...pacific_centur.
2. Như trên.
3. Bumiller, Elizabeth, “U.S. to Sustain Military Power in the Pacific, Panetta Says,” The New York Times, 23/10/2011.
4. Kaplan, Robert D., “The South China Sea is the Future of Conflict,” Foreign Policy, 9-10/2011, tr. 76-85.
5. Các công ty năng lượng Trung Quốc thu được hơn 90% lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc, được cho là đă tác động lên chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Các công ty này muốn tham gia vào khảo sát và khai thác nguồn năng lượng ở Biển Đông.
6. Khoảng 25/164 quốc gia kư UNCLOS không hoàn toàn công nhận quyền tiến hành các hoạt động khảo sát quân sự không bị giới hạn đối với vùng đặc quyền kinh tế của họ, bao gồm Ấn Độ, Malaysia, Myanmar, và Thái Lan.
7. “Trung Quốc và Mỹ có những cách giải thích khác nhau căn bản về UNCLOS. Một sự khác biệt cơ bản đó là đối với việc liệu các hoạt động có được cho phép trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư của một quốc gia và loại hoạt động nào th́ được phép. Lợi ích quốc gia của và sự tự tin ngày càng tăng của Trung Quốc đă dẫn đến một quan điểm rộng lớn đối với vùng đặc quyền kinh tế và một quan điểm hẹp về các hoạt động quân sự của nước ngoài được phép hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế. Các hoạt động đó phải hoà b́nh và các nhà dân tộc chủ nghĩa không xem việc thu thập thông tin t́nh báo thậm chí của các tàu không phải tàu chiến hoà b́nh. Mặt khác, Mỹ lại không chỉ cho rằng hoạt động thu thập thông tin đó hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế, mà c̣n cho rằng Mỹ có nghĩa vụ thử định kỳ các vùng biển nhằm duy tŕ cái mà Mỹ cho là lợi ích chung toàn cầu của việc tự do biển cả.” How China, US See Each Other at Sea, The Diplomat, Patrick Cronin, 29/5/2011
8. Đại sứ Chas Freeman, phát biểu tại Hội thảo thường niên Viện nghiên cứu Hàng hải, Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ, Newport, Rhode Island, 10/5/2011.
9. Whitlock, Craig, “The U.S. has ‘national interest’ in Asian Sea Disputes,” The Washington Post, 12/10/2010.
10. Abdul Khalik, “US, China Soften Stances While RI Takes Regional Leadership,” The Jakarta Post, 31/10/2010.
11. Nguyên văn của “First Plenary Session – Dr. Robert Gates” và “First Plenary Session – Question and Answer Session”,
http://
http://www.iiss.org/conferences/the-...speeche…
12. “U.S. calls for more clarity on S. China Sea Claims”, Reuters, 23/7/2011.
13. Wain, Barry, “China Faces New Wave of Dispute,” The Straits Times, 17/10/2011.
14. “China Tells U.S. that S. China Sea is ‘core interest’ in new policy,” Kyodo News Service, 3/7/2010.
15. Kaplan, Robert D., “The South China Sea is the Future of Conflict,” Foreigh Policy, 9-10/2011, tr. 80.
16. Lohman, Walter, “Sorting American Priorities in the South China Sea,” Web Memo Published by The Heritage Foundation, Số 3297, 20/6/2011.