Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Hồ Chí Minh có nhiều tên gọi. Ông Hồ Chí Minh cũng có nhiều bí danh và bút danh. Dưới đây tiết lộ một số thông tin liên quan đến các bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trước đây, các nguồn chính thống ở VN không nói rơ Trần Dân Tiên là ai mà lại viết được ra cuốn 'Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch'.
Bài báo cũng xác nhận thiếu tá Hồ Quang trong Bát Lộ Quân của Trung Quốc là một trong nhiều tên mà nhà cách mạng Việt Nam đă sử dụng chính thức khi hoạt động ở nước láng giềng cuối thập niên 1930.
Nhiều khiến một số bạn đọc có thể ngạc nhiên là ông Hồ Chí Minh từng dùng khác nhiều bút danh châu Âu như Jean Fort, Victor Lebon, Nilopsky, Albert de Pouvourville, Linov.
Ông cũng nhiều lần kư tên Pháp là Paul Tất Thành, Paul Thanh khi ở Pháp.
"Ngày 15 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành từ New York gửi thư cho khâm sứ Trung Kỳ nhờ t́m địa chỉ của thân phụ là Nguyễn Sinh Huy. Lá thư kư tên Paul Tất Thành."
Ông c̣n có mật danh tiếng Anh do người Mỹ đặt cho là Lucius khi Hồ Chí Minh giúp nhóm OSS chống Nhật ở vùng biên giới Việt - Trung trong Thế Chiến 2.
Ông cũng dùng nhiều tên Trung Quốc mà nổi tiếng nhất là Hồ Quang, Trương Nhược Trừng, Vương Sơn Nhi, Vương Đạt Nhân, Lư Thụy, Tống Văn Sơ, Tống Thiệu Tổ.
Có vẻ như bí danh Hồ Quang gắn liền với giai đoạn ông ở trong quân đội và có quân hàm thiếu tá của lực lượng cộng sản Trung Quốc.
Đây cũng là quân hàm duy nhất được biết đến của Hồ Chí Minh.
Đoạn trong bài về hoạt động của thiếu tá Hồ Quang được trang dangcongsan viết như sau:
"Hồ Quang - Hoạt động ở Trung Quốc cuối năm 1938. Nhờ quan hệ Liên Sô và Trung Quốc nên Nguyễn Ái Quốc qua Trung Quốc dễ dàng. Tại Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc mang phù hiệu Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá và giấy tờ mang tên Hồ Quang."
Tuy nhiên, nguồn tư liệu này chưa ghi hết rằng sang năm 1940, ông Hồ Chí Minh vẫn tiếp dục bí danh Hồ Quang.
Trang ditichphuchutich.gov .vn hồi 2011 có bài của Đặng Quang Huy cho viết:
"Đầu năm 1940, Hồ Quang từ Quư Dương đi Trùng Khánh, đồng chí Chu Ân Lai đă tiếp Người và bố trí Người ở tại văn pḥng Bát Lộ Quân tại thôn Hồng Nham (Cục Phương Nam của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đặt tại đây).
Tháng 2/1940, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người đến Côn Minh, chắp liên lạc với Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Không lâu sau, Người đă gặp đồng chí Vũ Anh (lănh đạo Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương).
Đồng chí Vũ Anh đă đưa Người đến cơ quan bí mật của Đảng bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương để gặp đồng chí Phùng Chí Kiên và đồng chí Hoàng Văn Hoan.
Sau mấy tháng Người công tác ở Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Côn Minh, khoảng tháng 10/1940, Người lại qua Quư Dương (lần thứ tư) để trở về Quế Lâm và vẫn ở văn pḥng Bát Lộ Quân Quế Lâm."
Như vậy, trong cả năm 1940, Hồ Chí Minh vẫn dùng bí danh Hồ Quang.
Nhiều bút danh khác nhau
Bài báo cũng cho rằng Hồ Chí Minh viết rất nhiều bài báo, dùng nhiều bút danh khác nhau để phục vụ cho công tác tuyên truyền cách mạng.
Ông cũng là tác giả nhiều sách và tư liệu về bản thân:
Năm 1949, ông kư T.T. dưới bài viết "Hồ Chủ Tịch và Văn Nghệ".
Năm 1959, ông kư bút danh Thu Giang trong bài "Bác Đến Thăm Côn Minh" trên báo Nhân Dân (12/04).
Năm 1960, ông dùng bút hiệu Tuyết Lan để viết bài "Ba Chai Rượu Sâm Banh" đăng trên báo Nhân Dân (27/04).
Cùng năm, dưới h́nh thức dịch lại bức thư của một công nhân tên là Jean Fort, ở Algeria, ông viết về t́nh cảm của một người bạn quốc tế đối với Nguyễn Ái Quốc thời ở Paris và sau này.
Cùng năm, ông dùng bút danh Trần Lam viết bài "Chuyện Giả Mà Có Thật" đăng trên báo Nhân Dân về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Thái Lan.
Năm 1961, ông kư T. Lan, viết "Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện Một Ḿnh", đăng nhiều lần trên báo Nhân Dân trong năm, và bài "Bác Ăn Tết Với Chúng Tôi" đăng trên Nhân Dân (14/02 năm 1961).