Mỹ ‘chấp nhận rủi ro cao’ ở Biển Đông để gửi thông điệp tới Trung Quố. Biển Đông liên tục “dậy sóng” với hàng loạt động thái táo bạo, thậm chí có phần đe dọa của Trung Quốc trong nhiều tháng qua. Mỹ cso những phản ứng quyết liệt, dồn dập.
Điển h́nh là việc tàu Trung Quốc đâm ch́m tàu cá Việt Nam, ngang nhiên lập hai quận ở các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, và đặt “danh xưng tiêu chuẩn” cho 80 thực thể, ra lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông.
Ngoài ra, tàu hải quân và hải giám Trung Quốc kể từ tháng 12/2019 cũng hoạt động bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, gây sức ép lên tàu khoan West Capella do công ty dầu khí Petronas của Malaysia vận hành.
Trong khi đó, Mỹ liên tục điều tàu chiến tới Biển Đông thực hiện tuần tra tự do hàng hải, đưa máy bay ném bom B-1 bay qua khu vực. Ít nhất 7 tàu ngầm của Mỹ được điều tới hoạt động khu vực Tây Thái B́nh Dương, theo tin từ một tờ báo Mỹ.
Trong một cuộc thảo luận online, các chuyên gia về an ninh cho rằng hành động của Trung Quốc nằm trong toan tính lâu dài muốn kiểm soát Biển Đông, được đẩy mạnh hơn mỗi khi t́nh h́nh quốc tế thuận cho Bắc Kinh. Trong khi đó, các phản ứng của Mỹ cho thấy Washington đang chấp nhận nhiều rủi ro hơn ở Biển Đông. Nhưng một cuộc xung đột giữa hai siêu cường khó xảy ra.
Tàu Gabrielle Giffords (trước) hoạt động ngày 12/5 trên Biển Đông, gần tàu khoan West Capella do công ty Petronas của Malaysia vận hành. Ảnh: Hải quân Mỹ.
Trung Quốc âm mưu kiểm soát Biển Đông
“Trung Quốc đang thúc đẩy dần kế hoạch kiểm soát vùng biển và không phận ở Biển Đông, là nỗ lực đă tiến hành nhiều năm nay”, theo Bonnie Glaser, cố vấn cấp cao về châu Á và Giám đốc Dự án Sức mạnh Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
“Trung Quốc sẽ lấn tới khi t́nh h́nh quốc tế có lợi cho họ, và có thể tạm dừng khi t́nh thế không thuận... chúng ta đă thấy điều này trong quá khứ, hành động của họ (gần đây) không khác trước đây”, bà Glaser nói với các phóng viên ngày 27/5, tại một buổi trao đổi do Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội tổ chức.
Về các diễn biến gần đây, bà Glaser nhận định rằng việc xây dựng, quân sự hóa các đá Subi, Vành Khăn và Chữ Thập nhiều năm qua đă cho Trung Quốc “khả năng hiện diện thường xuyên” tại Biển Đông, để gây áp lực và can thiệp vào các hoạt động đánh cá, thăm ḍ dầu khí của các nước ven biển.
“Tàu (Trung Quốc) không phải quay lại đảo Hải Nam mà chỉ cần về một trong các căn cứ trên để tiếp nhiên liệu”, bà nói.
“Như vậy có lợi cho các hoạt động ‘vùng xám’ - tức dưới ngưỡng mà sẽ khiến các nước khác đáp trả bằng vũ lực, nhưng vẫn có tác dụng dọa nạt đối phương”.
Đá Subi, một trong các thực thể bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp và quân sự hóa ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: AP & AMTI.
Với việc quấy nhiễu tàu khoan của Malaysia, Trung Quốc muốn gây áp lực, để các nước không tự khai thác dầu khí, mà phải khai thác chung với Trung Quốc, theo bà Glaser.
“Một số hoạt động quấy nhiễu của tàu hải cảnh Trung Quốc nhằm mục đích đe dọa không chỉ các nước khác, mà c̣n các công ty... nhằm gửi thông điệp là các công ty đang chịu rủi ro khi liên doanh khai thác”, bà nói thêm.
Greg Poling, Giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI), có trụ sở tại Washington, cho biết Trung Quốc âm mưu khiến cho việc khai thác dầu khí trên Biển Đông của các nước ven biển trở nên tốn kém hơn.
“Chẳng hạn, Malaysia sẽ chịu chi phí lớn nếu cử nhiều tàu ra (giàn khoan)”, ông Poling nói trong một buổi tọa đàm gần đây về Biển Đông. “Có thể điều đó không khả thi nữa. Nếu đây là cuộc đọ sức về số tàu, Trung Quốc hơn về số lượng”.
So với những người tiền nhiệm, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận B́nh đă nêu rơ ràng và mạnh mẽ nhất về mục tiêu của Trung Quốc đến năm 2035 và 2049, trong đó bao gồm việc có ảnh hưởng lớn trên toàn cầu và hiện đại hóa quân đội, theo bà Glaser.
Trong diễn biến gần đây, tại “Lưỡng Hội”, đại hội thường niên của giới lănh đạo Trung Quốc, chi tiêu quốc pḥng cho năm sau dự kiến tăng 6,6%, mức tăng đáng kể giữa lúc Bắc Kinh c̣n không đặt ra mục tiêu tăng trưởng, do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19.
Ngoài ra, theo bà Glaser, các mục tiêu không thành văn của Trung Quốc ở Biển Đông cũng bao gồm “gây sức ép để các nước trong khu vực đáp ứng và ưu tiên lợi ích của Trung Quốc” và “dàn xếp các tranh chấp lănh thổ có lợi cho ḿnh” - dựa vào các hành động và tuyên bố của Trung Quốc mà bà theo dơi, phân tích.
Đá Chữ Thập và đá Vành Khăn đang bị Trung Quốc chiếm đóng, xây dựng, quân sự hóa trái phép ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: AMTI.Mỹ sẵn sàng rủi ro hơn ở Biển Đông
Thay đổi lớn trong chính sách của Mỹ ở Biển Đông là sẵn sàng chấp nhận rủi ro hơn, bà Glaser cho biết.
Dưới thời cựu tổng thống Obama, thông điệp chính của Mỹ là tự do hàng hải, hàng không, phù hợp luật pháp quốc tế, cũng như mọi nơi trên thế giới. Nhưng dưới thời Tổng thống Trump, Mỹ nhấn mạnh việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nước ven biển, trong đó có quyền khai thác dầu khí và đánh cá trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) cách bờ 200 hải lư.
“Mỹ không chỉ giúp tăng cường năng lực để các nước thực hiện những quyền đó, mà c̣n lên tiếng ủng hộ và gửi thông điệp tới Trung Quốc rằng các nước cần phải được thực hiện quyền hợp pháp của ḿnh”, bà Glaser nói.
Bà nêu hai vụ việc cho thấy chính quyền Mỹ sẵn sàng rủi ro hơn, với đá Vành Khăn và với tàu USS America.
Vị trí 80 cấu trúc ở Biển Đông mà Trung Quốc mới đơn phương và ngang ngược "công bố tên gọi": màu đỏ là các cấu trúc mà Trung Quốc gọi là đảo, c̣n màu xanh là các cấu trúc ch́m dưới mực nước biển. Việt Nam đă lên tiếng phản đối hành động này. Đồ họa: Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao/từ Maritime Issues.
Đối với đá Vành Khăn, thực thể nửa ch́m nửa nổi không có lănh hải 12 hải lư, chính quyền Obama trước đây không để tàu chiến hoạt động bên trong phạm vi 12 hải lư, mà chỉ đi qua không gây hại (innocent passage), tức có ư muốn tránh tranh căi về lănh hải.
Nhưng chính quyền Trump cho tàu chiến nán lại, thực hiện một số hoạt động, diễn tập t́m kiếm cứu nạn, sử dụng trực thăng.
“Hàm ư của Mỹ là Trung Quốc không có lănh hải 12 hải lư tại đây”, bà Glaser nói. “Hoạt động này rủi ro cao hơn v́ ở gần các khí tài của Trung Quốc... có rủi ro Trung Quốc nổ súng”.
Về tàu đổ bộ USS America, được Mỹ điều tới gần khu vực có tàu thăm ḍ Hải dương Địa chất 8 (HD 8) của Trung Quốc, hoạt động ngoài khơi Malaysia, “đó là lần đầu Mỹ dùng tàu chiến để gửi thông điệp là Mỹ không muốn thấy hành xử đe dọa và bắt nạt (ở Biển Đông)”, bà Glaser nói.
“T́nh h́nh sau đó dịu đi, nhưng hoàn toàn có thể dẫn đến khủng hoảng”, bà nói thêm, và nhắc lại năm 2014 khi giàn khoan Hải Dương 981 vi phạm vùng biển Việt Nam, Mỹ đă không điều tàu chiến tới.
Khả năng xung đột Mỹ - Trung vẫn “rất thấp”
Biển Đông là một “sân khấu” trong cạnh tranh chiến lược rộng hơn và ngày càng nóng giữa Mỹ và Trung Quốc, bên cạnh nhiều mặt như Đài Loan, Hong Kong, dịch bệnh Covid-19, chiến tranh thương mại, cũng như cạnh tranh công nghệ. Cụm từ “Chiến tranh Lạnh” đă trở nên phổ biến khi nhắc tới quan hệ giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Tuy vậy, cả Mỹ và Trung Quốc đều sẽ muốn tránh xung đột quân sự, muốn giải quyết mâu thuẫn qua thương lượng, theo bà Glaser. Các mục tiêu của ông Tập Cận B́nh sẽ bị chệch hướng nghiêm trọng nếu xảy ra xung đột, v́ vậy Bắc Kinh sẽ dựa vào chiến lược “vùng xám” và các tàu dân binh.
Bonnie Glaser, cố vấn cấp cao về châu Á, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
Tất nhiên, căng thẳng luôn tiềm ẩn nguy cơ va chạm, tai nạn. Nổi bật nhất là vào năm 2001, vụ va chạm trên vùng trời Biển Đông giữa chiến đấu cơ Trung Quốc và máy bay do thám Mỹ khiến một phi công Trung Quốc tử nạn. Năm 2018, một tàu khu trục Trung Quốc tới sát tàu khu trục Mỹ, buộc tàu Mỹ phải chuyển hướng tránh va chạm.
“Có nguy cơ va chạm, nhưng tôi không cho là nguy cơ cao”, bà Glaser nói. “Tôi chưa thấy quân đội Trung Quốc lặp lại hành động tương tự... Nếu lại xảy ra, sẽ có cuộc khủng hoảng lớn, nhưng sẽ không leo thang thành một cuộc xung đột, v́ không bên nào muốn vậy”.
“Tôi c̣n lo ngại hơn về Đài Loan, nhưng ngay cả ở đó khả năng xung đột cũng thấp. Trung Quốc có nhiều cách để đối phó với Đài Loan”, bà nói.
Tại “Lưỡng Hội” lần này, lần đầu tiên kể từ khi bà Glaser theo dơi các phát biểu từ lănh đạo Trung Quốc, các diễn văn không dùng từ “ḥa b́nh” khi nói về mục tiêu “thống nhất” Đài Loan.
“Tôi chỉ coi đó là sự cảnh báo, không phải dấu hiệu sắp xảy ra xung đột”, bà Glaser nhận định. “Va chạm, tai nạn, dẫn đến khủng hoảng là có thể xảy ra, nhưng khả năng xung đột quân sự là rất thấp v́ không bên nào được lợi cả”.
Phán quyết năm 2016 ngày càng được nhấn mạnh
Vấn đề Biển Đông được ngày càng nhiều nước coi trọng hơn trong những năm qua, theo các chuyên gia.
Chẳng hạn, ngoài Mỹ, c̣n có Nhật Bản, Pháp, Anh cũng điều tàu đi qua khu vực, có các cuộc tuần tra tự do hàng hải (FONOP). Australia vừa có cuộc diễn tập chung với Mỹ.
Ông Nguyễn Hùng Sơn, Viện trưởng Viện Biển Đông, thuộc Học viện Ngoại giao, chỉ ra xu hướng tích cực là các nước Đông Nam Á, nhất là các nước ven biển đang ngày càng dựa vào luật biển, nhất là phán quyết của ṭa trọng tài năm 2016.
“Philippines giữ im lặng trong ba năm, th́ đến năm nay đă đưa phán quyết trở lại trong chính sách của ḿnh, thông qua một công hàm - tức nước này không từ bỏ phán quyết như các đồn đoán”, ông Sơn nói trong một buổi tọa đàm gần đây về Biển Đông.
“Việt Nam cũng nhắc tới phán quyết trong công hàm của ḿnh. Bộ trưởng Quốc pḥng Singapore cũng nhắc đến phán quyết. Malaysia khi đệ tŕnh lên Liên Hợp Quốc về ranh giới thềm lục địa cũng cho biết sẽ tôn trọng phán quyết. Indonesia khi phản đối việc Trung Quốc xâm phạm biển Natuna cũng nhắc đến phán quyết”.
Bà Glaser cho rằng các nước vừa có thể hợp tác với Trung Quốc, vừa hợp tác với các nước có thể giúp họ trang bị khả năng bảo vệ lợi ích hợp pháp của ḿnh theo luật quốc tế.
“Tôi nghĩ cách tốt nhất để bảo vệ... là tạo các mối quan hệ hợp tác về an ninh của các nước có cùng quan điểm và muốn cùng nhau bảo vệ luật lệ quốc tế. (Điều đó) khiến Trung Quốc nhận ra họ không thể đạt mục tiêu kiểm soát Biển Đông”, bà Glaser nói.
ASEAN cần đoàn kết trong đàm phán COC
Các đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) đang bị tŕ hoăn v́ dịch Covid-19. Dù vậy, các chuyên gia cho rằng các nước ASEAN vẫn nên trao đổi, củng cố lập trường trong đàm phán với Trung Quốc.
“Khi đàm phán nối lại... (ASEAN) sẽ có thế để thương lượng trước các yêu sách hay ngôn từ mà Trung Quốc muốn đưa vào COC mà gây hại cho lợi ích các nước ASEAN”, bà Glaser nói.
Để đàm phán COC có kết quả, Trung Quốc “cần phải nh́n lại các hành động của ḿnh ở Biển Đông, thể hiện các chính sách sẽ tạo môi trường thuận lợi để các nước ASEAN nghĩ rằng đầu tư (vào COC) là đáng giá”, ông Sơn nói.
“Nếu (các nước ASEAN) có lập trường thống nhất về Biển Đông... dựa vào phán quyết 2016 làm cách giải quyết tranh chấp một cách ổn định, lâu dài, Trung Quốc sẽ phải thay đổi”, giáo sư Jay Batongbacal, từ Đại học Luật, Đại học Philippines, nói trong một buổi tọa đàm gần đây về Biển Đông. “Họ biết rằng không thể để toàn bộ khu vực đối đầu với họ”.
B́nh luận về các cuộc tuần tra tự do hàng hải (FONOP) liên tiếp của Mỹ thời gian gần đây, các chuyên gia nhận định FONOP là “cần thiết, nhưng chưa đủ” để khiến Trung Quốc thay đổi cách hành xử.
“FONOP không nhằm để giải quyết điều ǵ... không phải để thay đổi cách hành xử của Trung Quốc, mà là để ghi nhận rằng Mỹ không công nhận yêu sách chủ quyền của Trung Quốc”, ông Greg Poling, Giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI), có trụ sở tại Washington, nhận định trong buổi tọa đàm nói trên.
Bà Glaser chỉ ra rằng khi kết hợp các cuộc FONOP với máy bay ném bom B-1, "Mỹ đang muốn trở nên khó đoán hơn”.
VietBF@ sưu tầm.